Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một cách tiếp cận và giảng dạy thơ đường trong chương trình ngữ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.7 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn chuyên đề.
II. Mục đích của chuyên đề.
III. Phạm vi, phương pháp, đối tượng nghiên cứu.
1. Phạm vi nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
PHẦN B: NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học.
1. Cơ sở lý luận.
2. Cơ sở thực tiễn.
II. Nội dung:

Trang
2
2
3
3
3
3
4
4
4
6

Một cách tiếp cận và giảng dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ
văn 7
1- Đưa học sinh vào thế giới quan của nhà thơ.
2- Bước đầu tìm hiểu thể thơ.


3- Tìm hiểu văn bản (sự kết hợp giữa bản phiên âm, dịch nghĩa và dịch
thơ)
4- Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá.
5- Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy - học Thơ Đường.
III. Kết quả thực nghiệm.
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
8
9
12
11
22
23

PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN CHUN ĐỀ:
Mơn Ngữ văn là một mơn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu giáo dục của trường THCS. Tạo điều kiện để học sinh hoà nhập một cách chủ
động và tích cực với xã hội - môi trường hiện tại và tương lai. Cung cấp cho học
sinh những tri thức và phương pháp để tiếp nhận văn học, thực hành giao tiếp Tiếng
1


Việt. Học sinh có khả năng tự thâm nhập các lĩnh vực văn hoá, xã hội quan trọng
như gần gũi và thiết thực của Việt Nam và thế giới để chủ động và tự tin trước cuộc
sống.
Điểm mới trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, học sinh được học thơ Đường.
Đây là kiến thức học sinh được tiếp nhận ở lớp 9 theo chơng trình cũ. Trong

chương trình cũ thơ Đường được dạy một cách cơ lập hay dạy hồn toàn khác.
Tiếng việt, tập làm văn đều dùng chất liệu thơ Đường không chỉ để khắc hoạ kiến
thức mới mà còn để làm để luyện tập. Một điều chúng ta thấy rất rõ khi các em học
các bài thơ Đường ngồi cảm thụ được cái tình, cái cảnh trong các bài thơ đó; qua
đó bài thơ Đường chúng ta cịn bồi dưỡng cho học sinh từ Hán Việt. Như vậy trước
khi học các bài thơ Đường, vốn từ Hán Việt của các em rất hạn chế cho nên khả
năng cảm thụ thơ Đường là rất khó khăn. Vì vậy khó khăn cả người dạy và người
học. Nhưng chúng ta không nên định kiến cho rằng dạy thơ Đường là khó, mà
trong quá trình dạy người giáo viên phải tìm hướng đi tạo thời cơ tốt cho học sinh
tiếp cận phần thơ Đường tốt hơn. Với lý do đó tơi xin trình bày “Một cách tiếp cận
và giảng dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7”có kết quả.
II. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ:
Thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương
diện của nó đều đạt đến trình độ tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc nói riêng và
của thơ ca nhân loại nói chung. Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời
Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm...của con người đời Đường
một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ.
Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ ca cổ điển Trung Quốc mà
những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc vốn rất tiêu biểu. Do
đó, thi pháp thơ Đường rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Hiểu được thơ
Đường một cách thấu đáo đã là khá, việc giảng dạy như thế nào để học sinh cảm
thụ được cịn khó khăn hơn rất nhiều. Đó là vấn đề mà giáo viên đứng lớp như
chúng tôi rất trăn trở.
2


Thơ Đường rất phong phú cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhưng điều tơi
trình bày dưới đây chỉ là vài suy nghĩ của cá nhân về một vài phương pháp giảng
dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7.
III.PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

1. Phạm vi nghiên cứu:
Chuyên đề tập chung nghiên cứu: Một cách tiếp cận thơ Đường trong
chương trình Ngữ văn 7 THCS.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu.
- Điều tra.
- Khái quát- Phân tích- Tổng hợp.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 7

PHẦN B: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC:
1. Cơ sở lý luận:
Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học đời Đường (từ thế kỷ VII
đến thế kỷX). Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung
đại Việt Nam gần 3 thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THCS, thơ
Đường là sản phẩm tinh thần vừa xa về khoảng cách thời gian vừa xưa về mặt ngôn
3


từ. Nhưng học thơ Đường không phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà
chúng ta vẫn cần phải hiểu được tiếng nói của người xưa và phải biết rung cảm
trước những tâm hồn cao đẹp.
2. Cơ sở thực tiễn:
Bộ phận văn học nước ngồi nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường
THCS là một mảng khó dạy đối với giáo viên. Vì vậy trong quá trình giảng dạy
giáo viên khơng khỏi lúng túng và gặp nhiều khó khăn như: Hàng rào ngôn ngữ,
sự cách biệt về thời gian, sự trải nghiệm của học sinh lớp 7 còn hạn chế.
Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn nêu trên và đáp ứng yêu cầu
giảng dạy. Tất nhiên giáo viên phải tìm hiểu kĩ chương trình, bổ sung thêm kiến

thức từ các sách nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù
hợp ,vừa sức với học sinh, giúp các em vượt qua những khó khăn trên để cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ Đường.Sách giáo khoa Ngữ văn trung học
cơ sở có đưa vào chương trình một lượng khơng nhiều các tác phẩm thơ Đường,
song thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngơn ngoại, vừa có tính ước
lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Tiếp nhận thơ
Đường đối với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở thì quả là điều khơng hề đơn giản.
Chính vì vậy người giáo viên phải là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được thơ
Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại.
Mấy năm gần đây, việc dạy phần Văn học nước ngồi nói chung và các tác
phẩm Thơ Đường ở THCS đó khó hơn trước. Một phần do chưong trình và sách
giáo khoa được cải tiến, phần khác do bản thân đời sống văn học cũng có thay đổi.
Tuy nhiên, kết quả của việc dạy học mảng văn học được coi là khó này có lẽ chưa
đáp ứng được sự mong mỏi không chỉ của xã hội và của các bậc cha mẹ học sinh,
mà còn của chính bản thân giáo viên giảng dạy bộ mơn Ngữ Văn.
Theo phân phối chương trình Ngữ văn bậc THCS, thơ Đường được chọn dạy
4 bài ở lớp 7, trong học kì I với tổng số tiết 4 tiết. Đó là những bài thơ đặc sắc, lại
ngắn gọn, dễ thuộc, dễ nhớ, gần gũi về nhiều mặt với các bài thất ngôn bát cú, tuyệt
4


cú Việt Nam. Đó là các bài: Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), Vọng Lư Sơn
bộc bố, Tĩnh dạ tứ ( Lí Bạch ), Mao ốc vị thu phong sở phá ca (ĐỗPhủ). Với 4 tác
phẩm chọn giảng (ở nhiều thể thơ khác nhau), phần văn học đặc sắc đại diện cho
một thời đại hoàng kim của thi ca Trung Quốc này đó gúp phần hình thành năng lực
cảm thụ văn học cho học sinh. Thông qua việc tiếp nhận, học sinh sẽ hiểu được
những nét độc đáo của thơ ca đời Đường và có tác dụng rất lớn trong quá trình liên
hệ học tập các tác phẩm thơ của dân tộc (đặc biệt là thơ ca thời kì Trung đại).
Tuy nhiên, do đặc trưng về thể loại và ngôn ngữ, việc dạy Thơ Đường trong
nhà trường lâu nay thường gặp những khó khăn nằm trong những khó khăn chung

của bộ phận văn học dịch. Các tác phẩm Thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7
cũng thuộc vào tình trạng này. Khó khăn cơ bản là ở chỗ giáo viên và học sinh phải
đối diện trực tiếp với các văn bản tiếng nước ngồi, mặc dù có bản dịch nhưng vẫn
còn nhiều chênh lệch; mặt khác, các bài Thơ Đường thường ngắn và ý nghĩa
thường ẩn sâu trong ngôn ngữ tác phẩm, đơi khi vượt ra ngồi ngơn ngữ biểu
hiện...Vì vậy, một thực tế phổ biến là giáo viên thường thụ động dựa vào hướng
dẫn và các bản dịch để giảng cho học sinh mà ít quan tâm đến nguyên tác tác phẩm.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc chuyển tải cái hay, cái đẹp của tác phẩm tới
học sinh. Với cách dạy ấy, học sinh chỉ nhớ "vẹt" ý của bài mà không hiểu sâu sắc
tác phẩm, không phát huy được năng lực sáng tạo; chỉ sau thời gian ngắn, những
nội dung ấy nếu không được ôn lại, sẽ nhanh chóng ra khỏi trí nhớ, lâu dần, thói
quen đó làm mất hứng thú của học sinh đối với bộ mơn Văn.
Xuất phát từ những vấn đề có tính lý luận và cơ sở thực tiễn trên cộng với
những trăn trở của bản thân, với sáng kiến kinh nghiệm: “Một cách tiếp cận và
giảng dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7”, tơi mong muốn gúp một phần
nhỏ cùng với các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy phần Thơ Đường trao đổi để
từng bước khắc phục những khó khăn, tồn tại của cách dạy cũ, nâng chất lượng các
bài giảng Thơ Đường cho học sinh lớp 7 đạt những kết quả cao hơn.
II. NỘI DUNG:
5


“Một cách tiếp cận và giảng dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7”
Thơ Đường là một vườn hoa rộng lớn, mỗi bài thơ mang trong mình một dáng
vẻ độc đáo riêng về mặt nội dung, song nếu đi sâu phân tích, bình giá có tính lý
luận chúng ta có thể thấy được trong mỗi bài thơ vẫn chất chứa những hơi thở
chung, gộp lại thành những nét của một phong cách Đường thi. Đó là chất cổ điển
trong vẻ đẹp, trong màu sắc không gian và thời gian; là bút pháp chấm phá như
muốn ghi lại linh hồn của tạo vật; là điểm nhấn nghệ thuật rộng mở, không tĩnh
nhưng không quá động ... Để giúp học sinh có thể tiếp thu tốt hơn những tác phẩm

thơ Đường tôi xin nêu một số cách dẫn dắt học sinh tiếp cận và cảm thụ tác phẩm
thơ đường theo hướng tích cực:
1. Đưa học sinh vào thế giới quan của nhà thơ:
Như chúng ta đã biết, tác phẩm văn học là sự phản ánh hiện thực khách quan
qua sự nhào nặn của nghệ sĩ. Vì vậy mỗi tác phẩm (dù là thơ ca hay văn xuôi) về
căn bản cũng là sự phản ánh cuộc sống theo quan điểm nhà văn, nhà thơ. Tác phẩm
là nơi nhàvăn, nhà thơ gửi gắm những cảm giác, ý nghĩ của mình, đồng thời là
cuộc sống nội tâm nhà văn. Chỉ có miêu tả trong tác phẩm những gì mình đã xúc
động thì nhà văn, nhà thơ, mới làm cho độc giả xúc động được.Theo nghĩa này, thì
khi dạy bất cứ tác phẩm nào, người giáo viên cũng cần đưa học sinh vào thế giới
quan của tác giả, giới thiệu những nét tiêu biểu về thân thế của tác giả và hoàn cảnh
ra đời của tác phẩm.
Phân tích thơ trước hết phải bám vào ngơn từ của tác phẩm, tuy nhiên có
nhiều trường hợp hiểu thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có thể
giúp ích rất nhiều trong việc phân tích, cảm thụ cũng như xác định ý nghĩa giá trị
của tác phẩm.
Chẳng hạn, thế giới quan trong thơ Lý Bạch là thế giới của một ông tiên làm thơ;
Ơng là người thơng minh, biết làm thơ từ thuở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm
thuật. Từ trẻ ông đã xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập cơng danh sự nghiệp.
Chính vì điều đó đó ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông: một tâm
6


hồn phóng

khống, tự do, hình ảnh thơ tươi sáng kỳ vĩ, một người thích viễn du,

thích thưởng ngoạn cái đẹp...Đặc trưng này trong con người ông đã ảnh hưởng đến
các tác phẩm của ơng.Vì vậy, dạy thơ ơng giáo viên có thể dẫn cho học sinh cảm
nhận theo hướng trên, chẳng hạn trong 2 câu thơ:

Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
(Vọng Lư Sơn bộc bố)
Dịch thơ : Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
Lý Bạch đã xây dựng một hình tượng thiên nhiên kỳ vĩ và diệu xảo nhờ trí
tưởng tượng mạnh mẽ kì lạ đạt đến mức điêu luyện. Chính sự lãng mạn, phóng
túng đó tạo nên nét riêng trong thơ Lý Bạch.
Dạy Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) học sinh phải nắm được:
Thuở nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mĩ ở quê nhà ngắm trăng. Từ 25 tuổi, ông đã
xa quê và xa mãi. Bởi vậy cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà da
diết.
Còn dạy thơ Đỗ Phủ, giáo viên cần hướng học sinh vào chất thánh trong con
người ông, phong cách thơ ông khác hẳn với Lý Bạch, ông viết về mọi đề tài và
khơng đề tài nào thốt ly thời cuộc vì cuộc đời ơng nhiều gian nan vất vả. Ơng đã
có một thời gian ngắn làm quan song từ quan vì xảy ra sự biến An Lộc Sơn vả lại
cũng không được nhà vua tín nhiệm. Gần như suốt cuộc đời ơng sống trong cảnh
nghèo đói bệnh tật. Ơng là đại diện của khuynh hướng thơ hiện thực, ngịi bút của
ơng ln hướng vào phía dân nghèo:
… Ước được nhà rộng mn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
( Bài ca nhà tranh bị gió thu phá )

7


Men theo chặng đường thơ Đỗ Phủ sẽ giúp học sinh thấy được xã hội đời
Đường như một bức tranh đậm nét. Qua đó hiểu thêm về phong cách thơ của tác
giả.
Dạy tác phẩm “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương cần hiểu được: ông

làngười thông minh, học rộng. Đậu tiến sĩ, làm quan trên 50 năm dưới triều vua
ĐườngHuyền Tụng, được nhà vua vị nể. Từ lúc trai trẻ đến năm 744 (tức là năm
ông 86 tuổi), ông mới cáo quan trở về quê hương trong sự lưu lưyến của vua và
bạn bố ở kinh thành.
Với Nhan đề “Ngẫu thư” (ngẫu nhiên viết) tức là tác giả không chủ định làm thơ
ngay lúc đặt chân đến quê nhà. Khơng chủ đích viết nhưng sao lại viết? Bởi vì vừa
đặt chân về quê sau bao năm xa cách lại bị bọn trẻ trong làng gọi là “khách”. Đó là
“cú sốc”
với tác giả nhưng lại là duyên cớ để tác giả viết bài thơ này. Ẩn đằng sau duyên cớ
đó là tình cảm u q hương ln thường trực và bất cứ lúc nào cũng được thổ lộ.
2 - Bước đầu tìm hiểu thể thơ:
Trong giảng dạy Thơ Đường, việc khai thác nội dung của tác phẩm chịu ảnh
hưởng rất lớn ở phần tìm hiểu về thể thơ. Thể tài Thơ Đường phong phú, có thể
thơ: Thất ngơn tứ tuyệt (Bốn câu, mỗi câu bẩy chữ), Ngũ ngôn tứ tuyệt (Bốn câu,
mỗi câu năm chữ), Thất ngôn bát cú (Tám câu, mỗi câu bảy chữ) … Song chung
quy lại, thơ Đường thường gồm 2 loại chính là Ngũ ngơn (mỗi câu 5 chữ) và Thất
ngôn (mỗi câu 7 chữ). Các câu 1,2,4 hoặc chỉ có câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ
cuối. Hai thể thơ chính của Thơ Đường là Cổ thể (gồm Cổ phong và Nhạc phủ) và
Kim thể (hay Cận thể, gồm Luật thơ và Tuyệt cú). Thơ Cổ thể thường linh hoạt về
số câu, khơng gị bó về niêm luật, về cách gieo vần …; Thơ Kim thể (cịn gọi là thơ
Đường luật), tuy có gị bó đơi chút về niêm luật song lại có cấu trúc cân đối hài
hoà, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình
tượng nghệ thuật.

8


Đối với học sinh THCS giáo viên chưa cần cho học sinh hiểu hết về niêm
luật Thơ Đường, chỉ cần nắm bắt một số đặc điểm về thể thơ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tiếp cận tác phẩm .

Chẳng hạn, khi tiếp xúc với thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn tứ tuyệt, chỉ với 4
câu từ 20 - 28 chữ nhưng cấu trúc đó hồn thiện; đó là sự hài hoà giữa bằng trắc âm
dương; nhất quán từ đề tài, mở đề và kết luận.
Xung quanh vấn đề tìm hiểu thể thơ, lâu nay nhiều giáo viên vẫn xem nhẹ nên
chỉ làm một cách qua loa. Tuy vậy, nếu bỏ qua công đoạn này là bỏ qua những nét
tinh hoa độc đáo nhất của thơ Đường và hiệu quả cảm nhận tác phẩm của học sinh
sẽ giảm đi rất nhiều.
3 - Tìm hiểu văn bản (sự kết hợp giữa bản phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ).
Dạy thơ nói chung đã khó, dạy thơ tiếng nước ngồi qua bản dịch (đặc biệt là
thơ chữ Hán) lại càng khó hơn. Bởi lẽ một thực tế, giữa nguyên tác và bản dịch
cũng vẫn có độ chênh: Hao hụt hoặc sai lệch ít nhiều … Vì lẽ đó, khi dạy những tác
phẩm loại này, giáo viên thường gặp rất nhiều lúng túng. Cho học sinh cảm nhận
theo hướng nào? Phân tích bài thơ ra sao? Bắt đầu khai thác từ đâu? ... Kết quả là
khơng ít giáo viên khi dạy mảng văn thơ dịch mới chỉ đưa học sinh vào những
hướng cảm thụ một cách sơ sài, đơi khi cịn chưa sát ý.
Thông thường, khi dạy học các tác phẩm Thơ Đường, giáo viên chỉ tổ chức
học sinh khai thác văn bản theo các bản dịch thơ; thiên về khai thác nội dung tác
phẩm mà ít hoặc khơng chú ý đến việc khai thác những yếu tố nghệ thuật trong
phiên âm…Bằng cách này, giáo viên sẽ khơng thể tìm ra được những nét tinh xảo,
những đặc sắc nghệ thuật, những “thi nhân” tức là “con mắt của bài thơ” trong
từng tác phẩm, do đó hiệu quả của việc dạy và học Thơ Đường cũng hạn chế.
Xuất phát từ quan niệm dạy học mới (học sinh là chủ thể của sự nhận thức,
cảm thụ), giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm tịi, khám phá những hình tượng
nghệ thuật độc đáo có trong thơ Đường, từ đó hướng học sinh chiếm lĩnh tác phẩm
một cách trọn vẹn, sâu sắc. Việc đối chiếu phần dịch nghĩa và dịch thơ với nguyên
9


tác trong quá trình giảng văn là một thao tác hết sức cần thiết để giải mã tác phẩm
một cách có hiệu quả. Để tiến hành, trong q trình dạy giáo viên cần định hướng

cho học sinh vào với không khó của sự so sánh, đối chiếu.
Chẳng hạn, dạy bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư) của Lí
Bạch, giáo viên đưa ra cho học sinh các câu hỏi dạng như:
- Các câu trong bản dịch so với phiên âm như thế nào?
- Từ nào đó bị mất trong bản dịch thơ?
Câu 1 - Phiên âm: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dịch nghĩa: Mặt trời chiếu núi Hương Lơ, sinh làn khói tía
Dịch thơ: Nắng rọi Hương Lơ khói tía bay
Chủ thể của hai động từ “chiếu” và “sinh” là mặt trời. Do đó, quan hệ giữa 2
vế câu là quan hệ nhân - quả. Nghĩa là mặt trời chiếu ánh nắng vào hơi nước trên
đỉnh Hương Lơ làm cho hơi nước biến thành màu tía. Tác giả đem đến cho nó một
vẻ đẹp mới: vẻ đẹp dưới ánh nắng mặt trời. Câu thơ vẽ lên một cảnh tượng thiên
nhiên kì vĩ, vừa rực rỡ, vừa kì ảo. Trong bản dịch thơ bỏ mất từ "sinh" làm cho
quan hệ nhân- quả này bị phá vỡ, chủ thể là khói tía. Cho nên cảnh tượng kì vĩ trên
cũng bị xua tan.
Câu 2 - Phiên âm: Dao khan bộc bố quải tiền xun
Dịch nghĩa: Xa nhìn dịng thác treo trên dịng sơng phía trước.
Dịch thơ: Xa trơng dịng thác trước sơng này
Bản dịch thơ đó bỏ đi từ “quải” (treo) làm mất ảo giác về dòng thác như một
tấm vải treo từ đỉnh núi rủ xuống. Ảo giác này rất phù hợp với vị trí đứng ngắm
dịng thác từ xa của tác giả. Nhìn từ xa dịng thác tuôn trào liên tục giống như dải
lụa trắng rủ xuống, bất động treo trên vách núi rủ xuống phía trước dịng sơng. Bản
dịch đã làm cho ấn tượng về dịng thác trở nên mờ nhạt và liên tưởng ở câu sau
(Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên - Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây) trở nên thiếu
cơ sở. Nếu dịch được từ “quải” thì sẽ làm cho dịng thác trở nên sinh động hơn rất
nhiều.
10


Hoặc khi dạy văn bản: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh ( Tĩnh dạ tứ ) của Lí Bạch:

Phiên âm: Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Dịch nghĩa: Ánh trăng sángđầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Dịch thơ: Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Bản dịch dùng 2 động từ “rọi” và “phủ” chỉ biểu hiện được chủ thể là ánh
trăng, nhưng trong nguyên tác, dùng một động từ “nghi”- đó biểu thị được chủ thể
là con người. Chính điều này ở bản dịch thơ làm cho ý vị trữ tình của bài thơ trở
nên mờ nhạt và tạo cảm giác 2 câu đầu chỉ đơn thuần tả cảnh- Thực ra, chủ thể ở
đây vẫn là con người: con người thấy ánh trăng sáng ngỡ là mặt đất phủ một lớp
sương trắng…
Trong “Hồi hương ngẫu thư” (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê) của Hạ
Tri Chương ), nguyên tác được viết theo thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt nhưng trong
bản dịch thơ lại theo thể thơ Lục bát - một thể loại thơ của Việt Nam khác hẳn với
thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt vốn có của bài thơ. Tuy nhiên người dịch đã dịch
sát với bản phiên âm nên những cảm xúc của tác giả trong bài thơ vẫn được giữ
nguyên.
Điều đó cho thấy việc dịch sát ý và đối chiếu giữa phiên âm, dịch nghĩa, dịch
thơ là vô cùng quan trọng trong việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của bài thơ.
Từ những dẫn chứng cụ thể trên, chúng ta rất dễ dàng nhận thấy là giữa bản
phiên âm và bản dịch thơ đơi khi cịn có sự chênh lệch khá xa. Nếu chỉ chú trọng
đến việc phân tích bản dịch thơ mà quên đi nguyên tác e rằng học sinh chỉ hiểu
được cái hay trong văn bản thơ của dịch giả mà không hiểu hết những nét riêng,
những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới độc giả qua sáng tạo nghệ thuật của
mình.

11



Vậy xuất phát từ sự đổi mới PPDH nói chung và PPDH ngữ văn nói riêng, để
dạy học một tác phẩm văn học nước ngoài, dạy học Thơ Đường đạt kết quả cao
người giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tiếp xúc với các văn bản:
phiên âm, dịch thơ và dịch nghĩa (SGK mới đưa ra rất đầy đủ) từ đó tìm ra hướng
tiếp cận Thơ Đường một cách hiệu quả giúp học sinh lĩnh hội Thơ Đường một cách
sâu sắc nhất.
4. Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá:
Khi phân tích nên chọn một số chi tiết để bình giá và nâng cao. Chẳng hạn
trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư), chúng ta phải phân
tích kĩ từ “quải” (treo). Nhìn dịng thác từ xa, tác giả thấy như tấm lụa đào treo
trước dịng sơng, người Trung Quốc coi từ “quải” là “nhãn tự”, bởi vì nó đã biến
cảnh vật từ động sang tĩnh, dòng thác ầm ầm đổ xuống núi đó biến thành một dải
lụa trắng rũ xuống yên ắng và bất động, được treo lên giữa khoảng vách núi và
dịng sơng, một vẻ đẹp thiên nhiên vơ cùng kì ảo và tráng lệ.
Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ “nghi” (ngỡ),“lạc” (rơi
xuống) và của hình ảnh dải Ngân hà. Ngỡ là biết sự thật khơng phải vậy (làm sao
vừa có cả mặt trời có cả dịng ngân hà) mà vẫn tin là có thật. Chữ “lạc” cũng dựng
rất đắt vế dòng ngân hà vốn nằm theo chiều vắt ngang qua bầu trời, còn dòng thác
lại đổ theo chiều thẳng đứng.
5 - Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy - học Thơ Đường:
Việc chuyển đổi sách giáo khoa Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp
là một yêu cầu mới trong việc giáo dục đào tạo của bộ môn. Đây là sự chuyển biến
có ý nghĩa thời đại chắc chắn sẽ đưa đến chất lượng dạy và học được nâng lên. Tuy
nhiên việc vận dụng quan điểm tích hợp vào việc dạy- học Thơ Đường là một vấn
đề không dễ dàng và không phải lúc nào cũng làm được.
Theo PPCT Ngữ văn 7 Thơ Đường sẽ được dạy ở tuần 9, tuần 10, tuần 11.
Nhưng trước đó từ tuần 5, 6, 7, 8 học sinh đó được tiếp cận với luật thơ Đường
trong các bản thơ Việt Nam như: Sơng núi nước Nam, Phị giá về kinh, Qua đèo
12



Ngang, Bạn đến chơi nhà… Việc này đem đến thuận lợi là học sinh khơng cịn bỡ
ngỡ về thể loại thơ Đường luật, có thể đưa ra những đối chiếu so sánh giữa thể thơ,
ngôn ngữ thơ Đường luật ở thể thơ Việt Nam và thời Đường từ đó xác định những
nét tương đồng, dị biệt giữa phong cách thơ của 2 dân tộc khác nhau .
Trong khi tiến hành tổ chức học sinh tiếp cận văn bản Thơ Đường vấn đề khó
nhất là ngơn ngữ Thơ Đường. Giáo viên có thể khéo léo phá bỏ hàng rào ngơn ngữ
ấy bằng việc tổ chức học sinh vận dụng những kiến thức về “nghĩa của từ” (lớp 6)
“Từ đồng nghĩa”, “từ trái nghĩa”, từ “Hán Việt” (lớp 7) tạo ra một con đường mới
mà học sinh có thể dễ dàng càm nhận được văn bản Thơ Đường một cách chủ động
sáng tạo.
Ngoài ra, toàn bộ 4 bài thơ Đường đều là sự kết hợp của nhiều phương thức
biểu đạt mà học sinh lớp 7 đã từng học:
- Văn bản tự sự.
- Văn bản miêu tả.
- Văn bản biểu cảm.
Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên giúp học sinh tích hợp các
phương pháp biểu đạt trên vào mỗi văn bản Thơ Đường. Từ đó tạo ra tác dụng 2
chiều. Một mặt học sinh có điều kiện củng cố thêm về các loại văn bản đã học, mặt
khác học sinh nhờ sự lồng ghép liên môn ấy hiểu hơn về nội dung và phương thức
biểu cảm trong Thơ Đường.
* Những hình thức tích hợp cụ thể trong dạy - học Thơ Đường:
Câu hỏi trong dạy - học có vai trị quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến thức và
rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Ngoài hệ thống câu hỏi tư duy phát huy khả năng
tích cực của học sinh cịn có một hệ thống câu hỏi tích hợp đáp ứng với u cầu
tích hợp của chương trình mới. Giúp học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng về tiếng,
để cảm nhận thuyết giải các văn bản trên cơ sở đó thực hành tạo lập văn bản.
Chẳng hạn: Khi dạy văn bản “Xa ngắm thác núi Lư” (Lý Bạch).
Hệ thống câu hỏi tích hợp có thể được xây dựng như sau:
13



1. Giải thích "Thác" là gì? Chương trình lớp 6 đó học văn bản nào cũng nói về đề
tài này (Tích hợp: Nghĩa của từ; (lớp 6), với cuộc sống và văn bản “Vượt thác”).
2. Bài thơ làm theo thể thơ nào? Thể thơ đó giống với thể thơ của bài thơ nào
trong thơ Đường luật Việt Nam em đã học? (Tích hợp thơ Đường luật Việt Nam).
3. Văn bản này được tạo bởi phương thức miêu tả hay biểu cảm?
- Đối tượng biểu cảm trong văn bản là gì? (Tích hợp với văn bản miêu tả, biểu
cảm).
4. Theo em nội dung nào có thể vẽ thành tranh, nội dung nào khó vẽ thành tranh,
chỉ cảm nhận bằng tâm hồn? (Tích hợp với loại hình nghệ thuật khác).
5. Hãy cho biết vị trí quan sát, miêu tả của tác giả? Vị trí quan sát ấy có tác dụng
gì? (Tích hợp văn bản miêu tả).
6. Trong bản dịch thơ tác giả viết: “Nắng rọi Hương Lơ khói tía bay”
Hãy giải thích từ “rọi” tìm từ có nghĩa tương đương với từ “rọi”.(Giải nghĩa
từ, Từ đồng nghĩa).
7. Câu thơ thứ 4 tác giả dùng một nét nghệ thuật rất độc đáo để miêu tả dịng
thác? Chỉ ra biện pháp nghệ thuật đó? (Tích hợp TV: So sánh).
8. Có thể thay từ “bay” bằng từ gần nghĩa nào? (chảy, đổ) Đối chiếu với từ đó?
(Tích hợp từ đồng nghĩa).
Văn bản: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Lý Bạch).
1. Bài thơ làm theo thể thơ nào? Giống với thể thơ bài thơ nào trong phần thơ
Đường luật của các tác giả Việt Nam? (Tích hợp thơ Đường luật Việt Nam, văn
bản “Phò giá về kinh”).
2. Em có nhận xét gìvề nghĩa cặp từ: "Đê - Cử”? (Tích hợp từ trái nghĩa).
4. Nhìn trăng nhớ quê, nhà thơ đó thể hiện đề tài nào quen thuộc trong thơ cổ?
(Vọng nguyệt hồi hương). (Tích hợp dọc).
5. Văn bản này là sự kết hợp của những phương thức biểu đạt nào? Trong sự kết
hợp này phương thức nào là mục đích, phương thức nào là phương tiện?
Văn bản : “Ngẫu nhiên viết về một buổi mới về quê” (Hạ Trương Chi)

14


1. Trong bản dịch thơ tác giả chuyển thành thể thơ nào? Em hiểu gì về thể thơ ấy?
(Tích hợp thể thơ lục bát).
2. Ở câu thơ đầu “Thiếu tiểu li gia, lóa đại hồi”. Chỉ ra các biểu hiện của phép đối
trên các phương diện: đối vế câu, đối từ loại, đối cú pháp? (Tích hợp nghệ thuật
đối, từ loại, câu).
3. Nhận xét nghĩa các cặp: “Đi/ về, trẻ/ già, vẫn thế/ khác xưa”. (từ trái nghĩa).
4. Bài thơ viết để kể chuyện về làng hay nhân chuyện về làng mà bày tỏ tình cảm
với quê hương? Nếu thế phương thức biểu đạt của văn bản này là gì? (Tích hợp
văn bản biểu cảm, tự sự).
Văn bản: Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Đỗ Phủ )
1. Văn bản này có thể chia làm mấy phần? Xác định phương thức biểu đạt của mỗi
phần? (Tích hợp ngang Tập làm văn).
2. Đoạn 1, tìm những từ đồng âm với từ “thu”, "bay”, "tranh’?
3. Đoạn này câu nào là câu tả, câu nào là câu kể?
4. Đoạn 2, tìm những từ kể cách cướp giật tranh? Nêu 1 vài từ đồng âm với từ
"nam, xơ, cắp” (Tích hợp từ đồng âm).

III. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM:
Trong q trình giảng dạy tơi đã áp dụng chuyên đề này và đạt được những
thành công nhất định. Kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng SKKN như sau:
* Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng SKKN:
Lớp

Tổng số

Giỏi


Khá

T.Bình
SL
%

Yếu

SL
%
SL
%
SL
%
HS
7A
26
3
11,5
8
30,8
13
50
2
7,7
7B
23
2
8,7
6

26,1
12
52,2
3
13
Trên đây là kết quả khảo sát hai lớp 7A,7B khi chưa áp dụng SKKN. Nhìn
chung kết quả học tập của học sinh chưa cao. Điểm khá, giỏi cịn ít, chủ yếu đạt
15


điểm trung bình. Điều đó chứng tỏ các em chưa cảm thụ hết cái hay, cái đẹp của tác
phẩm thơ Đường.
* Kết quả khảo sát sau khi áp dụng SKKN:
Lớp

Tổng số

Giỏi

Khá

T.Bình
SL
%

Yếu

SL
%
SL

%
SL
%
HS
7A
26
5
19,2
10
38,5
10
38,5
1
3,8
7B
23
3
13
8
34,8
10
43,5
2
8.7
Đối chiếu kết quả khảo sát ở hai thời điểm, tôi thấy chất lượng học tác phẩm
thơ Đường của học sinh nâng lên rõ rệt. Kết quả điểm khá, giỏi, trung bình phản
ánh đúng năng lực cảm thụ thơ Đường của các em.
IV. BÀI HỌC, KINH NGHIỆM:
Qua thực tế giảng dạy và áp dụng sáng kiến này, tôi thấy muốn nâng cao chất
lượng cảm thụ thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7, người giáo viên phải xác

định đúng tầm quan trọng của mảng văn học này từ đó để tâm nghiên cứu nắm
vững những đặc điểm về tác giả; thể thơ; đối chiếu giữa phiên âm, dịch nghĩa, dịch
thơ; lựa chọn ra những điểm sáng nghệ thuật để giảng bình, chú ý tích hợp trong
q trình giảng dạy để học sinh hiểu đúng, hiểu sâu giá trị nội dung, nghệ thuật của
tác phẩm.
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1. Kết luận:
Văn học nước ngoài là một kho tàng văn học vơ cùng phong phú và q giá
của tri thức nhân loại. Đó là những gì tinh t nhất mà nhân loại tạo nên bởi tâm
hồn, trí tuệ, tình cảm, và sự sáng tạo nghệ thuật của các dân tộc anh em.Văn học
nước ngoài là cầu nối, là sợi dây liên hệ giữa các dân tộc trên thế giới nói chung và
giữa các dân tộc với dân tộc Việt Nam nói riêng.
Tìm hiểu, dạy văn học nước ngồi nói chung, dạy Thơ Đường nói riêng là
một nhiệm vụ quan trọng khơng thể thiếu trong việc nâng cao trình độ nhận thức
văn hóa dân tộc ở học sinh. Cảm nhận, nâng niu , trân trọng tinh hoa văn học nhân
loại, văn học Trung Quốc đời Đường là để chúng ta đánh giá đúng về giá trị văn
16


hố dân tộc, tạo điều kiện tiếp thu, hồ nhập và đưa văn học Việt Nam đi lên một
thứ hạng xứng đáng trong kho tàng văn học nhân loại.
Với lòng say mê, u thích văn học nói chung và văn học Trung Quốc nói
riêng, tơi xin nêu ra một vài định hướng nhỏ để giúp cho học sinh cảm nhận một
cách dễ dàng và sâu sắc nhất về thơ Đường ở THCS. Đề tài đã được dạy thực
nghiệm và đạt được kết quả nhất định.
2. Kiến nghị đề xuất:
Đây là mảng văn học khó dạy cho nên nhà trường tăng cường sách
tham khảo về thơ Đường giúp giáo viên có thêm tài liệu để nghiên cứu.
Tổ chức dạy thực nghiệm rộng rãi để giáo viên dạy môn Ngữ văn trong tồn
Thành phố đóng góp ý kiến để giờ dạy các tác phẩm thơ Đường đạt kết quả đúng

với vị trí và tầm quan trọng của nó.
Trong phạm vi của đề tài không tránh khỏi những hạn chế. Tôi rất mong nhận
được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để việc dạy và học văn học nước ngồi nói
chung và dạy học thơ Đường nói riêng đạt kết quả cao.
Khai Quang, ngày 18 tháng 4 năm 2013
Người thực hiện

17



×