Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3a3 trường tiểu học nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.39 KB, 14 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đất nước ta đang ở thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại
mà trí tuệ con người coi là tài sản quý báu tạo nên mặt bằng cao về dân trí. Trong
đó giáo dục đóng vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia.
“Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, có kỹ năng
nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước,
yêu CNXH, sống lành mạnh đáp ứng được những yêu cầu phát triển đất nước”.
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho HS phát triển học tiếp các
bậc học tiếp theo, vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức
kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn kĩ năng
sống cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh
nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới.
Rèn kĩ năng sống cần được coi trọng và nhất là trong thập kỉ XXI khi sự
nghiệp giáo dục đang được đẩy mạnh. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh địi hỏi
thường xun nó góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Giáo dục trong
nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh cũng không kém quan trọng. Bằng nhiều hình thức, nhiều con đường, trong
đó việc rèn kĩ năng sống chiếm một vị trí quan trọng. Qua việc rèn kĩ năng sống
sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ. Đồng thời nó định hướng cho học sinh tiểu
học rèn luyện hành vi và thói quen ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của
học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh
rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu khơng rèn kĩ năng sống thì khơng những sự
ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai
lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc
xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí
và tình cảm khơng thống nhất với nhau đó là lời nói khơng đi đơi với việc làm thì
dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách.
Ở bậc tiểu học, các môn học vừa cung cấp cho học sinh những kiến thức ban
đầu về Toán học, Khoa học và Nhân văn, vừa cung cấp cho học sinh những tri


thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh
nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt
đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai
trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen
đạo đức chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan
trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm.
Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương dạy kĩ năng sống là một
trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân thiện - học sinh tích cực.” Trên


tinh thần đó, bản thân nhận thấy rằng: chính ở dưới mái trường các em học được
nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện, học sinh
tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao,
từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối
với các thầy cô giáo. Với học sinh tiểu học, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành
nhân cách cho các em, giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh
và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối
với học sinh.Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Bản thân tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh lớp 3A3 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
* Mục tiêu:
Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và
hoạt động ngoài giờ lên lớp tại lớp 3A3 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ phù hợp nhằm phát triển
kĩ năng cơ bản như: kĩ năng phát triển bản thân, kĩ năng ứng xử trong gia đình,
kĩ năng ứng dụng trong nhà trường, kĩ năng ứng xử trong xã hội.
- Hình thành những hành vi và thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành
vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng

ngày.
- Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm góp phần
phát triển năng lực, phẩm chất theo mục tiêu giáo dục tiểu học.
* Nhiệm vụ cụ thể:
- Tìm hiểu về hình thức giáo dục hình thành kỹ năng sống cho học sinh thông qua
lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các môn học.
- Khảo sát thực trạng việc tổ chức dạy lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 3A3 qua các môn học, hoạt động ngoại khóa.
- Qua kết quả nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình
hình thành kĩ năng sống cho học sinh.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao kết quả giáo dục kĩ năng sống qua việc
lồng ghép trong giảng dạy và nâng cao hiệu quả của việc giáo dục, rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh lớp 3A3 nói riêng và học sinh trường Tiểu học Nguyễn
Bỉnh Khiêm nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 3A3 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh -Thị Xã
Buôn Hồ - Đăk Lăk.
4.Giới hạn của đề tài:
-Học sinh lớp 3A3 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm .Thời gian nghiên cứu


bắt đầu từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng phối hợp các phương pháp phân
tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa trong nghiên cứu các nguồn tài liệu lý
luận và thực tiễn có liên quan đến công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
tiểu học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát các hoạt động giáo dục kỹ
năng sống của trường (Dự các buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các

buổi sinh hoạt kỉ niệm các ngày lễ lớn, một số giờ học, các tiết sinh hoạt cuối
tuần…). Quan sát hoạt động hàng ngày của các em để tìm hiểu thái độ, hành vi
kỹ năng sống của các em trong các mối quan hệ ứng xử đối với người lớn tuổi,
thầy cô giáo, bạn bè…
+ Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện, trao đổi với giáo viên, phụ huynh,
học sinh để nắm thông tin về nhận thức việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh,
về thực trạng, nguyên nhân hành vi kỹ năng sống của học sinh hiện nay.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra học sinh nhằm tìm hiểu nhận
thức, thái độ, hành vi của các em đối với các mối quan hệ ứng xử, các hành vi kỹ
năng sống, thực trạng kỹ năng sống của học sinh; Điều tra phụ huynh nhằm tìm
hiểu về kỹ năng sống của học sinh khi ở nhà và thái độ, nhận thức của phụ huynh
đối với việc phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giao dục kỹ năng sống
cho học sinh.
+ Phương pháp bổ trợ: Thống kê toán học được sử dụng để xử lý, phân tích
các dữ liệu nhằm định lượng kết quả nghiên cứu.
II. PHẦN NỘI DUNG:
1.Cơ sở lí luận:
Căn cứ Thơng tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/02/2014 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo, về việc ban hành Quy định Quản lý hoạt động giáo dục kỹ
năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa;
Căn cứ Công văn số 463/BGDĐT-GDTX, ngày 28/01/2015 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại
các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên yêu
cầu “…đẩy mạnh hoạt động giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh theo định
hướng phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của học sinh gắn với định hướng
nghề nghiệp…”
Theo công văn số 942/SGD-ĐT-GDTH. Nhằm đẩy mạnh hoạt động giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh theo định hướng phát triển toàn diện phẩm chất và
năng lực của học sinh tiểu học, từ năm học 2015-2016, các trường tiểu học trên



địa bàn tỉnh thực hiện dạy học theo tài liệu Thực hành kĩ năng sống do Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam phát hành, Sở Giáo dục và Đào tạo Đắk Lắk hướng dẫn
thực hiện.
Xác định được những yêu cầu trên, để thấy rõ vai trò của người giáo viên
chủ nhiệm trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Chính vì vậy tơi đã mạnh
dạn lựa chọn sáng kiến nghiệm về công tác rèn kí năng sống cho học sinh, nhằm
đúc rút một số kinh nghiệm về công tác này đồng thời mong được bạn bè đồng
nghiệp bổ sung góp ý thêm để công tác này có hiệu quả trong trường học.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm đóng trên địa bàn TDP Tân Hà 2 Phường Thống Nhất–Thị Xã Buôn Hồ. Là địa bàn vùng nông thôn, nguồn thu
nhập chủ yếu của người dân từ cây nông nghiệp một số ít buôn bán nhỏ, đời sống
kinh tế xã hội tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn chưa thoát được nghèo khó,
nhất là những năm gần đây giá cả nông sản không ổn định , xuống thấp người
dân lại càng khó khăn hơn, trình độ văn hóa, nhận thức của nhân dân khơng đồng
đều thì việc học của học sinh nơi đây vẫn là một điều hết sức trăn trở. 100% đồng
bào nơi đây theo đạo Thiên chúa giáo nên hầu như học sinh các buổi nghỉ học lại
đến nhà thờ học giáo lý, nên phần nào cũng có ảnh hưởng đến việc học con em.
Trường TH Nguyễn Bỉnh Khiêm năm học 2018-2019 gồm có 17 lớp có tổng số
học sinh 475 em. Riêng khối 3 có 98 học sinh được chia đều trên 3 lớp. Vào đầu
năm học tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A3. với tổng số học sinh là 32 em
trong đó (Nữ: 14em, dân tộc: 1em; ) Hoàn cảnh gia đình : Có 3 em thuộc hộ
nghèo, 1em thuộc gia đình khó khăn bố mẹ ly hơn,1em gia đình sống ở tại Bn
Giao thuộc hụn Cư M Nga. Năm học 2018-2019 nhà trường đã mở lớp bán trú
tạo điều kiện cho những gia đình ở xa khơng có thời gian đưa đó con đi học.
Nhưng vì điều kiện kinh tế nên lớp tôi chỉ có 4 em ở bán trú lại trường.
Qua thực tế giảng dạy lớp 3A3 với sĩ số 32 em nữ 14, dân tộc 1, tôi nhận
thấy kĩ năng sống của học sinh trong lớp chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành
vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét đánh giá về sự việc
chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực, thể hiện

thái độ,tình cảm trong quá trình giao tiếp với thầy cơ giáo cịn rụt rè, với bạn bè
trong lớp chưa tình cảm, tự tin, một số em thiếu tính tự lập; tự giác. Cũng có khi
một số học sinh do học được cách nói năng của người lớn trong gia đình chưa
đúng mực nên nói năng chưa khiêm nhường. Học sinh thể hiện kĩ năng sống còn
đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Khả năng tự học, tự tìm
tịi cịn nhiều hạn chế, nhút nhát.
Qua khảo sát lớp 3A3, đầu năm học kết quả như sau:
TSHS
Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng Kĩ năng chưa tốt


32

TSHS
32

TSHS
32

SL
3

%
9,4

SL
15

%

46,8

SL
14

%
43,8

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
Biết cách lắng nghe, hợp tác
ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
14
43,7
18
56,3
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hịa, khá Hay cãi nhau, xơ đẩy bạn khi
phù hợp.
chơi.
SL
%
SL
%
13
40,6

19
59,4

Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ
năng chưa tốt cịn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là
vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất
là những người làm cơng tác chủ nhiệm lớp.Vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình
thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà mỗi giáo viên cần
phải tìm tịi nghiên cứu. Từ những thực trạng trên bản thân tìm ra nguyên nhân
dẫn đến tình trạng “ Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra
biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình đạt hiệu quả.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Tìm hiểu những cơ cở lí luận, cơ sở thực tiễn, của việc rèn kĩ năng sống cho
học sinh.Qua thực trạng và nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống.
Đưa ra một số biện pháp, phương pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua
các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.Rút ra kết luận và bài học kinh
nghiệm sau khi áp dụng đề tài.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Biện pháp 1: Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh.
- Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo
viên chủ nhiệm, cần sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về
mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước
mơ cũng như mong muốn của mình với các bạn. Đây là hoạt động giúp thầy và
trò hiểu nhau hơn, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “ Trường học
thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của học sinh, thầy cô giáo là người thân trong


gia đình". Đây cũng là một điều rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp
của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một mơi trường mà

giáo viên ln gị bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu và những tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu
hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi của các em để bắt đầu có điều
chỉnh phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào,
giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả
cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.
Biện pháp 2: xác định những kĩ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu
học :
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà
trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em. Thực tế
kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải
học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: kĩ năng tự
phục vụ, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng quản lí thời gian, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kĩ
năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, tự kiểm soát,
tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các
kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội
dung trọng tâm để dạy trẻ .
Biện pháp 3: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các mơn học
Và các hoạt động giáo dục.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng vào
các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt, Toán và nhất là các bài
học trong của môn Thực hành kĩ năng sống… để những giờ học sao cho các em
được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.Ví dụ: Để hình
thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng
Việt, giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập,
phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm,
phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải
nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học sinh có được

cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp, tôi đã trú trọng hướng dẫn cho các em
những kĩ năng cơ bản sau:
*Kỹ năng tự phục vụ:
Giáo dục cho các em từ những việc nhỏ nhất như: Giao tiếp cư xử với các bạn
bè trong và ngoài lớp, nói năng phải lễ độ với tất cả mọi người xung quanh và
biết làm một số công việc nhỏ phù hợp với độ tuổi của các em như vệ sinh cá


nhân, vệ sinh xong phải rửa tay, trước khi ăn cơm phải rửa tay. Ngoài ra các em
biết quét lớp, chăm sóc cây xanh, thân thiện với môi trường, hay vui chơi giải trí
giảm căng thẳng.
*. Kỹ năng giao tiếp:
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức
nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ có thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn
hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng
quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong
muốn và cảm xúc, đồng thời giáo dục cho các em biết đánh giá tình huống giao
tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy
nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại hay gây tổn thương cho người khác, giúp
các em có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan
hệ tích cực với các thành viên trong trong lớp, khác lớp nơi sinh sống là nguồn
hỗ trợ quan trọng cho các em; đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn
là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui trong cuộc sống.
*.Kỹ năng quản lý thời gian:
Giúp các em quản lý thời gian là khả năng các em biết sắp xếp các công việc
theo thời khoá biểu, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một
thời gian nhất định. Giờ ăn, giờ học, giờ làm, giờ chơi một cách hợp lí. Kỹ năng
này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt
được mục tiêu đó; đồng thời giúp các em tránh được căng thẳng do áp lực trong

việc học và việc làm . Quản lý thời gian là một trong những kỹ năng quan trọng
làm chủ bản thân. góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân .
*.Kỹ năng thể hiện sự tự tin:
Các em biết tự tin vào bản thân, hài lịng với bản thân; tin rằng mình có thể trở
thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị
lực để hoàn thành các nhiệm vụ. Các em thể hiện sự tự tin giúp các em giao tiếp
hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong
việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng
giúp các em có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống, là yếu tố cần thiết
trong giao tiếp.
*.Kỹ năng giải quyết vấn đề:
Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn, để giải quyết vấn đề
hoặc tình huống gặp phải trong tập và trong cuộc sống. Để giải quyết vấn đề có
hiệu quả, các em cần nhiều kỹ năng sống khác : Giao tiếp , xác định giá trị , tư
duy phê phán , tư duy sáng tạo , tìm kiếm sự hỗ trợ.
*. Kỹ năng hợp tác:


Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong học tập,
trong công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung, các em biết chia sẻ trách
nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên trong lớp,
trong giờ học nhóm, hoặc những nơi khác. Sự hợp tác trong học tập hay trong
công việc các em điều biết giúp đỡ cho nhau hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau,
tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất, vượt qua khó khăn, đem lại chất
lượng và hiệu quả cao hơn trong học tập, trong công việc chung.
-Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các bạn
-Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của bản thân. Đồng
thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người .
-Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã

được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ mọi người khác trong quá trình
hoạt động.
Biết cùng chia sẻ đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng mắc để
hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
-Có trách nhiệm về những thành cơng hay thất bại, về những sản phẩm do mìn
tạo ra.
* Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ:
Trong cuộc sống, nhiều khi các em gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến
sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác mà nếu các em khơng tự tìm kiếm sự hỗ
trợ thì người khác khó có thể biết để giúp đỡ, chia sẻ các em có thể nhận được
những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề, tình
huống của mình; đồng thời là cơ hội để các em chia sẻ, giải bày khó khăn, giảm
bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp
thời sẽ giúp các em không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp,
giúp các em có cách nhìn mới và hướng đi mới.
*Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục,
vui chơi
- Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh,
chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt
động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết
tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản
thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè.
- Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường,
lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh
được rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, nhặt rác, tưới cây, tỉa lá,...; thông
qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
- Giáo dục học sinh có ý thức xây dựng trường lớp “Xanh – Sạch – Đẹp”
thường xuyên chăm sóc cây xanh trong trường học.



- Học sinh tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy
giáo, cô giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên cũng phải ln thường xun tự rèn kỹ năng
sống, luôn thể hiện là tấm gương trong sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo.
- Giáo viên cần thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh (VD: sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai,...; biết lựa chọn
phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.); qua các
hoạt động học tập, học sinh được rèn các kỹ năng phân tích, tổng hợp, tư duy
sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác trong nhóm, kỹ
năng xử lý tình huống,...
- Tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động dã ngoại.
- Tổ chức tốt các hoạt động xã hội, hoạt động đoàn thể (Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh).
Biện pháp 4: Phối hợp với các bậc cha mẹ thực hiện dạy các kĩ năng sống
cơ bản cho học sinh.
Học sinh cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự giao tiếp trong gia đình, chịu
ảnh hưởng của truyền thống và văn hoá của gia đình . Có học sinh được sự cưng
chiều thái quá của ông bà, cha mẹ đã trở nên “ ngang ngược ” . Vì thế, cần phối
hợp với phụ huynh, gia đình học sinh để tìm hiểu về hoàn cảnh sống, nắm bắt kịp
thời đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để giúp học sinh hiểu được : Giao tiếp
trong gia đình là “ Trên kính - dưới nhường ”, học sinh cần :
+ Lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ .
+ Vâng lời, giúp đỡ bố mẹ ; nhường nhịn em nhỏ .
+ Biết ứng xử với mọi người trong gia đình, biết nói “ cảm ơn ”, “ xin lỗi ”,
“ vâng, ạ, dạ, thưa ” … với cả những người thân thiết trong gia đình, biết dùng từ
ngữ phù hợp, đúng mực, phù hợp với hoàn cảnh đồng thời phải biết lắng nghe,
tôn trọng ý kiến mọi người ngay cả khi bất đồng quan điểm, cả khi việc khơng
theo ý mình .Vì vây trước hết, người lớn trong gia đình phải gương mẫu, yêu
thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các
em.Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi, luôn khuyến khích các em nói lên

quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về
cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông
số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em.
Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho
các em khi tham gia các hoạt động.
Giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn
có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các
đồ dùng ăn uống; Cụ thể các em được làm quen với những đồ dùng, vật dụng


khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói
quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ
ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những
cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có
thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự
lập sau này.
Biện pháp 5: Động viên, khen thưởng.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em
có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác
động viên, khuyến khích, giúp đỡ, khen thưởng kịp thời. Để động viên, khuyến
khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ buổi họp phụ
huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp mình phụ
trách. Trao đổi với Ban đại diện cha mẹ học sinh cùng phối hợp và dành một
khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em có một
động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Giáo viên theo dõi hằng ngày, các em có
biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình
chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được khen thưởng. Vì vậy, các em thi đua nhau “
nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được khen
thưởng của lớp.

Kết thúc học kì, giáo viên tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt
nhiều thành tích bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được
nhận những món quà của thầy giáo và phụ huynh tặng. Vì thế các em không
ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần thưởng. Đây là
một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh
nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong
cuộc sống.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh
trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí
trong mọi trường hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt ở nhà trường là
điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo viên cần
kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy.
Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo nhóm: biết
cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp
nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất… Đây là
kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể.


Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp - tự
nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm
ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi người.
Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là điều rất
cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có được cuộc
sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen xấu và hành
vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau này.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu và hiệu quả
ứng dụng:

Những vấn đề đã đạt được: Qua giáo dục hàng ngày trên lớp hoặc thông qua
các tiết dạy tôi thấy các em đã biết và làm quen được một số kỹ năng làm việc
theo nhóm: biết cách phân công, công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh
luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống
nhất. Các em biết làm việc trong tập thể
Trong sinh hoạt hằng ngày các em biết sử dụng đúng các quy tắc : ứng xử giao
tiếp với mọi người , biết thông cảm chia sẻ với mọi niềm vui, nỗi buốn với mọi
người xung quanh .
- Kết quả khảo nghiệm của lớp 3A3 Giữa học kì II so với đầu năm như sau:
Tởng số học
Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng Kĩ năng chưa tốt
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
32
16
50
16
50
0
0

Tổng số
học sinh
32


Tổng số
học sinh
32

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
tác
ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
28
87,5
4
12,5
Ứng xử tình huống trong chơi trị chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi
phù hợp.
chơi.
SL
%
SL
%
29
90,6
3
9,4


III.Phần kết luận, kiến nghị:
1. Kết luận.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động, để học sinh
tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kỹ năng;


thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống trong trường học góp phần rèn luyện, hình thành cho
học sinh sống có trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng phó
các sức ép, thách thức trong cuộc sống; thúc đẩy hành vi mang tính xã hội, giảm
bớt học sinh hư học sinh cá biệt.
Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy, trò,
sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được bổn phận và
nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống cịn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của
người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của
người thầy. Vì vậy, để học sinh khơng thất vọng vì thầy thì trước hết “mỗi thầy cơ
giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận
động.
Giáo dục kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung,
nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng
thành cũng vẫn cần học kỹ năng sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khơng phải là cơng việc “một sớm, một
chiều” mà địi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết và ở mọi lúc,
mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống rất đa dạng và
mang đặc trưng vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn
cảnh của từng lớp,nhà trường, địa phương.

Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên chủ nhiệm
lớp, của tất cả các thầy cô giáo, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng, có như
vậy mới mong đào tạo ra được những thế hệ trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt
cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế
2. Kiến nghị
-Nhà trường cần tổ chức chuyên đề về tiết dạy lồng ghép giáo dục và rèn kĩ
năng sống cho học sinh, để giáo viên có điều kiện giao lưu, học hỏi, rút kinh
nghiệm.
Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình tổ chức
thực hiện "Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3 " mà tôi
suy nghĩ và thực hiện. Tuy nhiên do năng lực bản thân nên chắc chắn rằng sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và
bổ sung thêm của các đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn.


Thống Nhất, ngày 12 tháng 03 năm 2019
Người viết

Lê Thị Mai

TÀI LIỆU THAM KHẢO


ST
T
1
2
3
4
5

6

Tên tài liệu

Tác giả

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu
học.
Thực hành giáo dục kĩ năng sống dành
cho HS lớp 3.
Tài kiệu hướng dẫn học các môn học
lớp 3.
Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày
28/02/2014
Công văn số 463-BGD ĐT-GDTX ngày
28-1-2015.
Công văn số 942/SGD-ĐT-GDTH ngày
21/8/2015

Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam
TS. Phan Quốc Việt- Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam
Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam
Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ giáo dục và Đào tạo
Sở giáo dục và Đào tạo Đak
Lak




×