1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ
thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ, đặc biệt là cách tiếp cận kỹ năng
sống, đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng
chung sống. Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu
vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của q trình giáo dục.
Mục đích của q trình giáo dục kỹ năng sống là nhằm trang bị cho học sinh
những kỹ năng cơ bản, cần thiết để các em có thể thích ứng với cuộc sống xã
hội thời hiện đại, ln có những thay đổi trong điều kiện của một xã hội đang
trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Với mục tiêu các em khơng chỉ giỏi về kiến thức mà cịn phải được tơi
luyện những kỹ năng sống, qua đó tạo cho các em một mơi trường sống lành
mạnh, an tồn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kỹ năng,
giá trị sống sau này bước vào đời tự tin hơn.
Giáo dục kỹ năng sống phải được bắt đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, nhất là
lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, bậc tiểu học là “bậc học nền tảng của hệ thống giáo .
dục quốc dân”. Bước vào lớp một là các em hoạt động trong một môi trường
mới. Khi gia nhập cuộc sống nhà trường, các em phải tiến hành hoạt động học hoạt động nghiêm chỉnh có kỷ cương, nề nếp. Chuyển từ hoạt động chủ đạo là
vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập chắc chắn trẻ sẽ khơng tránh khỏi
sự bỡ ngỡ. Vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm lý sẵn sàng đi học. Việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi
đầu tiên các em đến trường. Nếu như không được chuẩn bị chu đáo về mặt tâm
lý cho trẻ trước khi đi học thì những buổi đầu tiên đến trường của trẻ sẽ xảy ra
những tình huống như: địi theo bố mẹ về nhà, khơng dám nói chuyện với bạn
bè, thấy thầy cơ, người lạ thì sợ, khơng dám xin phép cô giáo đi vệ sinh... Vậy
làm thế nào để các em tự tin, biết ứng xử phù hợp với các tình huống xảy ra
trong lớp học cũng như trong cuộc sống. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đối
với các thầy cơ giáo và các bậc phụ huynh vì học sinh tiểu học là giai đoạn đầu
tiên hình thành nhân cách, giúp các em có một kỹ năng sống tốt cho tương lai
sau này.
Giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh tiểu học là giáo dục cho
các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở
các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển tồn
diện nhân cách trên cơ sở học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù
hợp. Với những lý do đó, tơi chọn sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh tiểu học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
tồn diện” để đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, từ đó tìm ra cho mình phương pháp
thơng qua các mơn học, các hoạt động giáo dục, sự trải nghiệm... có hiệu quả
cao nhất trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhằm giúp cho các em
- những cô bé, cậu bé vừa rời vòng tay bố mẹ khỏi bỡ ngỡ, biết tự phục vụ bản
thân, biết tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, biết hợp tác trong nhóm, có những
quyết định phù hợp và biết xử lý các tình huống bất lợi các em gặp phải trong
cuộc sống, đồng thời xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với gia đình và bạn
bè, biết sống an tồn, lành mạnh.
Vậy kỹ năng sống là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo tổ
chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên Hợp Quốc: Kỹ năng sống là năng lực
cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng tham gia vào cuộc sống hàng
ngày.
Theo UNICEFF: Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã
hội và giao tiếp cá nhân, giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở,
giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản
thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả.
Riêng đối với bản thân, qua nghiên cứu tôi nhận thấy: kỹ năng sống
đơn giản là tất cả những điều cần thiếu chúng ta phải biết để thích ứng với
những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kỹ năng sống được hình
thành thơng qua một q trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà
trường và ngồi xã hội, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm,
những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Vì vậy, kỹ năng
sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng
của gia đình, cộng đồng, dân tộc.
1.2. Điểm mới của đề tài:
Vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh tiểu
học nói riêng được tồn xã hội quan tâm trăn trở, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Hơn bao giờ hết, con người cần phải có sự cảm thơng, chia sẻ, biết giúp đỡ
người khác, biết đối xử thân thiện với bạn bè, biết phân biệt cái đúng, cái sai và
làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện
sai trái, xấu xa, trở thành một con người năng động mà xã hội đang cần.
Trong dạy kỹ năng sống, khơng có khái niệm “vâng lời”, chỉ có khái
niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống
là rèn luyện các tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thơng qua các
hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ khơng đặt mục đích “rèn nếp” hay “nghe
lời”. Cơng dân tồn cầu là người biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình, biết
phân tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay điều khác và chịu trách
nhiệm về điều đó, chứ khơng tạo ra lớp cơng dân “chỉ biết nghe lời”.
Tuy nhiên đối với sáng kiến này, tơi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thơng
qua q trình dạy học, nó chỉ áp dụng cho bậc tiểu học nói chung - bậc học mà
tơi đang trực tiếp giảng dạy.
Qua q trình nghiên cứu, tơi nhận thấy sáng kiến mà tơi nghiên cứu có
một số điểm mới như sau:
+ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học không chỉ giới hạn
trong các môn học mà là một quá trình xuyên suốt mọi lúc mọi nơi. Năm học
2016-2017, dạy học theo tài liệu “Sống đẹp” đã thực sự chú trọng đến giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
+ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chú trọng đến quá trình trải
nghiệm trong cuộc sống. Bởi vì thơng qua sự trải nghiệm mới xuất hiện các
tình huống để các em xử lý, giải quyết.
+ Giáo dục kỹ năng sống không chỉ ở trong trường học, lớp học mà ở
cả gia đình, xã hội bởi vì mơi trường sống của các em ở gia đình ảnh hưởng rất
lớn đến các hành vi trong cuộc sống của các em. Vì vậy phải phối kết hợp với
phụ huynh về cách thức giáo dục kỹ năng sống cho các em. Phụ huynh phải là
tấm gương sáng trong các hành vi, ứng xử để con, em noi theo.
* Phạm vi áp dụng đề tài: Đối với học sinh tiểu học, được áp dụng
trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống.
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1 Thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở trường tiểu học:
Hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn nhiều
hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chuyển biến chậm, các em hay
“nói trước quên sau” và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học áp dụng
vào thực tế. Ví dụ các em đã được học bài đạo đức về nội dung không bẻ cành,
ngắt lá của cây, hoa nhưng khi đi học về hoặc đi chơi trên sân trường, các em
vẫn ngắt lá cây, hoa tùy tiện và vứt đầy sân trường.
Với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy các em rất hiếu động các
em có nhu cầu hỏi đáp, khơng muốn bị áp đặt. Mặt khác, các em một mực rất
tin vào lời nói của thầy cơ giáo, thầy cơ bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép
và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng thầy
cơ giáo khơng quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng, nhưng
việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các
môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa và một số viên cịn
mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Kỹ năng sống của học sinh lớp một rất hạn chế, phần đa các em chưa biết
tự phục vụ bản thân, chưa biết tự chuẩn bị cho mình các đồ dùng trước khi đến
lớp. Chưa nhận ra được những việc không nên làm, những việc nên tránh đối
với bản thân; chưa biết xử lý các tình huống khi gặp khó khăn như làm bài
khơng được hay khơng hiểu bài; bố mẹ qn đón; bị đau khi đang học; bị lạc
đường...
Đối với học sinh các lớp trên các lớp trên các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết
là những kỹ năng cần thiết phục vụ cho quá trình học tập nhưng các em chưa
có nhiều lắm. Khi hoạt động nhóm chưa biết hợp tác với các bạn trong nhóm
chỉ cho rằng mình tự làm được bài là đủ. Nhiều em yếu chưa biết tìm kiếm sự
giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo hoặc từ bố mẹ để giải quyết các nội dung
bài học. Các em còn tỏ ra lúng túng khi gặp người lạ hoặc thầy cơ giáo hỏi,
hoặc ai đó chúc mừng, tặng q thì chưa biết đối đáp một cách lịch sự.
Kỹ năng ra quyết định/xử lý một số tình huống khơng tốt. Chưa biết tập
trung lắng nghe người khác nói, chưa biết chọn bạn phù hợp để hợp tác cùng
giải quyết các cơng việc.
Học sinh bây giờ rất ít có ước mơ, hồi bão chính đáng, khơng biết đề ra
cho mình mục tiêu để phấn đấu. Các em chưa biết sắp xếp công việc một cách
khoa học, sử dụng thời gian hợp lý, giờ nào việc đó. Đặc biệt các em hiện nay
ít quan tâm đến người khác, thấy bạn khó khăn thì khơng giúp đỡ, xa lánh
những bạn khiếm khuyết...
Phần lớn các em chỉ thích hưởng thụ, lười lao động, khơng chịu trách
nhiệm về việc làm của mình. Tơi đã từng chứng kiến một nhóm các em em làm
đổ chiếc xe đạp dựng cạnh bên đường nhưng không em nào dựng lên. Khi ăn
quà xong các em liền vứt bao bì ngay xuống đất.
Các em cũng chưa biết cách bảo vệ bản thân như không nên đi qua các
quãng đường vắng, tối một mình, khơng chơi các trị chơi thiếu lành mạnh, ăn
các thức ăn chưa rõ nguồn gốc, hết hạn sử dụng...
Các em thích nói chuyện trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại
tiếp xúc với thầy cô, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự tập trung chú ý của
học sinh ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các hoạt
động nhóm, ngại suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó khăn nhất là
trong giao tiếp với bạn bè thiếu kiểm sốt trong ngơn ngữ. Học sinh nữ thì
thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè, các em còn
nổi cáu khi bạn chọc ghẹo...
Tôi cho rằng những thực trạng trên không phải thuộc về bản chất các em.
Nếu được giáo dục tốt, các em nhận ra được lẽ phải thì chắc chắn các em sẽ
thay đổi.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Qua điều tra tơi thấy nhìn chung các em đều tốt, ngây thơ, hồn nhiên,
vẫn tinh nghịch và đáng yêu lắm. Các em đều mong muốn mình trở thành con
ngoan, trị giỏi, sau này lớn lên giúp ích cho đất nước, gia đình. Song ở lứa tuổi
này bắt đầu hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách. Các em
có nhiều ước mơ, hồi bão và thích tìm tịi, khám phá, nhưng do chưa hiểu biết
sâu xa về xã hội, đặc biệt là do các em chưa được trang bị những kĩ năng sống
cần thiết nên thường chưa làm chủ được hành vi ứng xử của mình dẫn tới dễ bị
lôi kéo vào các việc tiêu cực trong cuộc sống.
Một nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là phần lớn bây giờ mỗi gia
đình chỉ có một đến hai con. Vì vậy con cái là thứ quý báu, được nuông chiều.
Bố mẹ, ông bà đều làm thay từ khâu chuẩn bị áo quần, sách vở, đưa đón đi học
vì vậy nhiều em có tư tưởng ỷ lại, chỉ thích hưởng thụ, khơng biết tự chăm lo
cho bản thân. Mong muốn của bố mẹ là con cái phải học thật giỏi và ăn thật
nhiều để bố mẹ vui lịng cịn những cơng việc khác thì khơng cần thiết lắm. Ví
dụ như tham gia sinh hoạt Đội, các câu lạc bộ, văn nghệ, thể dục thể thao...
nhiều gia đình khơng muốn con mình đi, sợ mệt. Họ có biết đâu kỹ năng sống
của con cái mình hình thành từ đây, qua tham gia các hoạt động, qua sự trải
nghiệm các em mới va chạm, có va chạm mới nảy sinh ra tình huống để các em
xử lý.
Như chúng ta thấy, ngoài thời gian học ở trường ra, các em chỉ biết xem
ti vi hoặc chơi trị chơi trên máy tính. Đủ các loại phim các em tha hồ xem.
Đến lớp không biết hịa đồng với bạn bè, thấy các bạn nghèo khó, hồn cảnh
thì xa lánh, bạn mượn đồ dùng học tập cũng khơng muốn cho. Việc đánh nhau,
nói tục, chửi bậy xảy ra nhiều. Các kỹ năng như tương trợ nhau, giao tiếp, diễn
đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành và củng cố
nhưng chưa thể hiện được nhiều. Các em ngày càng thực dụng, ích kỷ và lười
hoạt động hơn. Một số em cứ như ếch ngồi đáy giếng, cứ gặp việc gì khó là
khóc toáng lên để bố mẹ giúp đỡ.
Học sinh bây giờ rất ít em đọc sách. Mà khơng đọc sách thì lấy đâu ra
ngôn ngữ để làm giàu vốn từ cho mình nên khi giao tiếp các em thường bí từ,
lúng túng hay trả lời cộc lốc.
Nhiều phụ huynh còn chiều chuộng con đến mức cho con vừa ăn cơm
vừa chơi điện thoại con mới chịu ăn. Không cho các em tiếp xúc với lao động,
sợ nắng, gió, mệt con mình. Như vậy các em không biết lao động, mà không
biết lao động thì làm sao các em biết quý trọng người lao động. Các em có
trồng cây xanh thì mới biết cách bảo vệ cây xanh, có u mơi trường mới biết
bảo vệ môi trường....
Một nguyên nhân nữa là môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa được
coi trọng lắm. Phần lớn các giáo viên vẫn mãi mê dạy các kỹ năng quan trọng
truyền thống như Toán, Tiếng Việt chiếm nhiều thời gian, giáo viên chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình
đang dạy chỉ ln chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt, ít tổ chức cho các
em tham quan, trải nghiệm, hoạt động chung với bạn bè để hình thành các kỹ
năng quan trọng như: giao tiếp, hợp tác, chia sẻ, quan tâm đến bạn bè.
Ngoài ra, kỹ năng sống các em có ảnh hưởng rất lớn từ gia đình. Bố mẹ
chính là tấm gương lớn nhất cho các em soi. Bởi trước khi đến trường các em
có thời gian ở nhà, sống với gia đình nên những nét văn hóa, ứng xử của các
thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến các em.
Rời trường Mầm non, bước vào trường tiểu học là các em sẽ trở thành
những người học sinh thực thụ. Các em phải biết tham gia các hoạt động một
cách nghiêm túc theo quy định của nhà trường. Nhưng trong thực tế các em
thường nóng vội khơng theo quy định, khơng muốn chờ đến lượt. Đặc biệt là
các em lớp 1, không biết thực hiện giờ nào việc đó. Nhiều em quá nghịch
ngợm trong khi một số em lại ngồi thu lu một mình, khơng biết thực hiện các
nhiệm vụ cô giao, không biết chia sẻ với bạn bè, thầy cơ khi gặp khó khăn, bởi
các em thiếu kỹ năng sống.
2.2. Các giải pháp:
Qua nghiên cứu tôi nhận thấy: người giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ
nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các
em. Kỹ năng sống của các em được hình thành thơng qua q trình học tập, trải
nghiệm. Nếu được sự hướng dẫn, tổ chức quá trình học tập hợp lý và sự đầu tư,
chăm chút để giáo dục kỹ năng sống qua mỗi bài học, mỗi hoạt động một cách
thường xuyên của người giáo viên thì kỹ năng sống của các em sẽ được phát
triển. Vì thế tơi ln tìm tịi, vận dụng và thay đổi các biện pháp trong công tác
giảng dạy. Với mong muốn được hiểu, gần gũi, giúp đỡ, định hướng kịp thời
cho các em, được góp một phần kinh nghiệm nhỏ bé của mình vào việc giáo
dục nhân cách, giáo dục ý thức kỷ luật, nề nếp, hình thành các kĩ năng sống cần
thiết cho các em thông qua công tác giảng dạy.
Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả tốt, sau đây tôi
xin đưa ra một số giải pháp:
2.2.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học:
*Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học
sinh các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy học Tiếng Việt góp
phần rèn luyện thao tác tư duy, mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con
người. Kỹ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của mơn Tiếng Việt là giao tiếp,
sau đó là kỹ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận
thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học, có nhiều bài học
mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục các kỹ năng giao tiếp xã hội như:
Lập danh sách học sinh, Lập thời gian biểu, Viết tin nhắn, làm biên bản cuộc
họp...
Như vậy, cơ hội để hình thành kỹ năng sống qua môn học này là rất lớn
nhưng người giáo viên phải hết sức chú ý, đặc biệt là khi soạn bài, trong từng
bài học phải chú ý đến giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Ví dụ ở phân môn Học vần lớp 1, tất cả các bài đều có phần luyện nói
theo chủ đề như là: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau lớn khôn; Vâng lời
cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Những người bạn tốt....
Khi luyện nói, kỹ năng giao tiếp của các em được phát triển. Tuy nhiên
không chỉ dừng lại ở phần luyện nói theo chủ đề, giáo viên có thể phát triển cao
hơn như tổ chức lớp thành vòng tròn, mỗi thành viên được tự giới thiệu về
mình bao gồm: tên gọi, học sinh lớp, địa chỉ gia đình, sở thích cá nhân... Lúc
đầu có nhiều em ái ngại, rụt rè, nhưng sau khi các bạn nói hay và được cơ
khen, các em lại thích nói, nói hăng hái và trơi chảy hơn. Em nào nói hay đều
được cả lớp và cô giáo vỗ tay khen ngợi, như vậy các em sẽ hưng phấn và thích
được nói nhiều hơn.
Ở lớp 5, phân mơn Tập làm văn hình thành cho các em kỹ năng lập kế
hoạch, kỹ năng tổ chức các hoạt động thông qua các bài tập làm văn như: Liên
hoan văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam; Lập chương trình hoạt
động về: Hội trại nhân ngày thành lập Đoàn; Triển lãm các chủ đề Bảo vệ mơi
trường; Qun góp ủng hộ thiếu nhi và nhân dân các vùng thiên tai; Gặp gỡ,
giao lưu với học sinh các trường kết nghĩa...
Để lập được chương trình hoạt động chắc chắn các em sẽ gặp khó khăn
bởi ngồi trí tưởng tượng yếu, chưa biết sắp xếp cơng việc khoa học thì một
phần quan trọng là các em chưa được tham gia, chưa được trải nghiệm. Như
vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng, giáo viên sẽ tổ chức cho các em tham
gia, trải nghiệm các hoạt động một cách thực thụ. Được trải nghiệm các em
mới có thể hình dung hoạt động đó như thế nào và lập kế hoạch, nhưng một số
em vẫn chưa lập được kế hoạch hợp lý. Đòi hỏi giáo viên phải hỗ trợ, giúp đỡ,
khơi gợi để các em phát triển tư duy sáng tạo.
Kỹ năng sống của các em cũng được hình thành rất nhiều qua các bài
tập đọc. Ví dụ:
+ Người ăn xin (TV4), qua bài học này giáo dục cho các em sự cảm
thông, chia sẻ đối với những người kém may mắn
+ Một người chính trực (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân.
+ Dế mèn bênh vực kẻ yếu (TV2) giáo dục sự cảm thông, chia sẻ
+ Nỗi dằn vặt của An-drây-ca (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản
thân
+ Trung thu độc lập (TV4) giáo dục kỹ năng đảm nhận trách nhiệm của
mình.
Ngồi ra các bài tập làm văn như:
+ Viết thư (TLV4) phát triển kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong
giao tiếp.
+ Tả ngoại hình nhân vật: Phát triển tư duy sáng tạo, tìm kiếm và xử lý
thơng tin...
Như vậy mơn Tiếng Việt góp phần hình thành và giáo dục kỹ năng sống
cho các em rất lớn. Để đạt được kết quả, địi hỏi mỗi giáo viên ngồi việc tổ
chức các hoạt động để giúp các em lĩnh hội kiến thức thì trong quá trình thiết
kế, tổ chức các hoạt động dạy học, phải chú trọng đến hình thành và giáo dục
kỹ năng sống cho các em trong tiết học đó, trong bài học đó.
* Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức:
Bản thân môn Đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kỹ
năng sống như: kỹ năng giao tiếp, ứng xử với ông bà, cha, mẹ, thầy, cô giáo,
bạn bè..., kỹ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kỹ năng ra quyết định và giải
quyết vấn đề phù hợp, kỹ năng giữ vệ sinh cá nhân, kỹ năng tự phục vụ và tự
quản lý thời gian, kỹ năng xử lý thông tin và các vấn đề trong đời sống ở
trường học, ở cộng đồng. Để giúp các em có những kỹ năng trên thì vai trò của
giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn các phương pháp và hình
thức dạy học học phù hợp.
Ví dụ bài: Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước (Đạo đức lớp 3)
HĐ1: Cho học sinh tìm hiểu vai trị của nước bằng cách đưa ra một số
hình ảnh: Dùng nước tắm giặt, Tưới cây, ăn uống sinh hoạt hàng ngày, một số
hình ảnh cánh đồng khơ hạn, nứt nẻ do thiếu nước, một số cánh đồng xanh tốt
đầy đủ nước...
Cho các em quan sát, thu thập thông tin và ghi vào phiếu cá nhân.
Trình bày ý kiến và kết luận chung: Nước là nhu cầu cần thiết đối với
cuộc sống sinh vật nói chung và con người nói riêng.
HĐ2: Bày tỏ ý kiến: Tổ chức cho học sinh bày tỏ ý kiến bằng cách
dùng cách thẻ màu xanh (đồng ý), thẻ màu vàng (không đồng ý).
Giáo viên chiếu nội dung các hành vi:
+ Đổ nước thải ra sơng, hồ
+ Tắm cho trâu, bị gần giếng nước ăn
+ Vứt vỏ chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật vào thùng rác riêng
+ Không vứt rác, vỏ phế liệu xuống sơng, hồ, ao
+ Sử dụng xong để vịi nước chảy mà khơng khóa
Học sinh giơ thẻ để bày tỏ ý kiến đối với mỗi hành vi. Sau khi học sinh
bày tỏ mỗi ý kiến, giáo viên trao đổi:
Tại sao em đồng tình (khơng đồng tình) với hành vi này?
Em có thể làm gì khi chứng kiến hành vi đó?
Giáo viên kết luận tính đúng/sai của các hành vi, việc làm trên đối với
mơi trường và sau đó chốt lại.
Cuối tiết học, giáo viên dặn dị các em về nhà tìm hiểu việc sử dụng và
bảo vệ nước tại gia đình, địa phương sau đó thu thập thơng tin, ghi nhanh vào
phiếu để tiết sau báo cáo.
Với cách tổ chức hình thức dạy học và sử dụng phương pháp dạy học
phù hợp. Học sinh sẽ tự nhận thức tầm quan trọng của nước và hành vi
đúng/sai để bảo vệ nguồn nước. Các em sẽ nhớ mãi vai trò của nước và biết
cách bảo vệ nguồn nước.
* Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và xã
hội.
Môn Tiếng Việt giúp các em phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng cảm
thông, chia sẻ, tự nhận thức bản thân, biết tìm kiếm thông tin. Môn Đạo đức
giúp các em phát triển kỹ năng ứng xử có văn hóa, nhận thức các hành vi
đúng/sai và có quyết định đúng đắn, phù hợp... thì ở môn Tự nhiên và xã hội
giúp các em phát triển kỹ năng quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, biết đặt câu
hỏi và diễn đạt sự hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng đơn giản
trong tự nhiên và xã hội. Đặc biệt môn học này giúp các em xây dựng quy tắc
giữ vệ sinh, không ăn những thức ăn quá hạn, không rõ nguồn gốc, bảo vệ sức
khỏe và giữ an toàn cho bản thân, gia đình, cộng đồng, u q hương, trường
lớp và có thái độ thân thiện với thiên nhiên.
Tuy nhiên để đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn học,
giáo viên phải biết thiết kế các hoạt động học và tổ chức hình thức dạy học hợp
lý. Làm thể nào học sinh tự tìm ra những việc làm đúng/sai, cách ứng xử phù
hợp nhất.
Ví dụ: Bài: Phịng bệnh béo phì (khoa học 4)
HĐ1: Giáo viên cho học sinh hoạt làm việc theo nhóm 4, yêu cầu các
nhóm trao đổi và vẽ tranh những trẻ em bị béo phì.
Các nhóm trưng bày sản phẩm, đại diện một nhóm mơ tả đặc điểm của
trẻ bị béo phì.
Giáo viên tóm tắt ý kiến và nêu ba dấu hiệu chính của trẻ bị béo phì:
+ Có cân nặng hơn mức trung bình so với chiều cao và tuổi là 20%
+ Có những lớp mỡ trên vú, cánh tay và cằm
+ Bị hụt hơi khi gắng sức
HĐ2: Yêu cầu các nhóm liệt kê những bất lợi của người béo phì
Các nhóm nêu, sau đó giáo viên kết luận, nêu ba điểm chính của người
bị béo phì:
+ Mất thoải mái trong cuộc sống
+ Giảm hiệu suất lao động và sự lanh lợi trong cuộc sống
+ Có nguy cơ bị bệnh tim mạch và huyết áp cao, bệnh tiểu đường...
HĐ 3: Tìm hiểu nguyên nhân và cách phịng bệnh béo phì.
Cho học sinh thảo luận theo cặp đơi, quan sát các hình vẽ ở sách để tìm
ra ngun nhân và cách phịng bệnh theo các câu hỏi gợi ý:
+ Nguyên nhân nào dẫn đến bệnh béo phì
+ Làm thế nào để phịng bệnh béo phì
+ Cần làm gì khi bản thân hoặc người thân của mình có nguy cơ mắc
bệnh béo phì?
Các nhóm trao đổi theo gợi ý, trình bày và giáo viên chốt lại.
Có thể tổ chức trị chơi xử lý tình huống:
Trên đường đi học về, em nhìn thấy một em bé béo phì bị một nhóm
bạn trêu chọc. Trong tình huống đó em xử lý như thế nào?
Qua cách xử lý tình huống của học sinh, giáo viên có thể khắc sâu thêm:
béo phì khơng những có nguy cơ tiềm ẩn các bệnh tật mà còn ảnh hưởng đến
thẩm mỹ, thường bị bạn bè trêu chọc.
*. Giáo dục kỹ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”.
Để thành công trong cuộc sống, các em học sinh không chỉ cần có tri thức
khoa học mà cịn cần có các kĩ năng ứng xử phù hợp với các tình huống của
cuộc sống và có lối sống đẹp. Dạy học theo tài liệu Sống đẹp từ lớp 1 đến lớp 5
theo từng chủ đề nhằm giúp các em hình thành các năng lực, phẩm chất như:
Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Giải quyết vấn đề trong học tập, cuộc
sống…; Tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách
nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đồn kết; u gia đình, bạn bè và những người
khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước;…
Các loại hình hoạt động trong sách rất đa dạng, phong phú như: viết, vẽ,
chơi trị chơi, đóng kịch, xử lí tình huống,… và đều được sắp xếp theo tiến
trình 4 giai đoạn: trải nghiệm, kết nối, thực hành, vận dụng.
Mỗi tháng, GV-TPT phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lựa chọn chủ đề
phù hợp để tổ chức các hoạt động chung theo từng khối lớp với nhiều hình thức
phong phú tạo hứng thú cho HS: Rung chng vàng, hái hoa dân chủ, phóng
viên nhỏ...giúp các em tự tin, phát triển nhiều kĩ năng sống cho bản thân, học
siinh được trải nghiệm, vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống thực tế.
Như vậy, tài liệu Sống đẹp là tài liệu giáo dục kỹ năng sống rất hữu ích,
là một cẩm nang rất cần thiết để hình thành các kỹ năng sống cho các em. Giáo
viên dạy phải đầu tư thời gian, phương pháp và thiết kế tổ chức các hoạt động
học phù hợp có thể trong lớp, ngồi trời, tham quan...theo mỗi bài học để đạt
được hiệu quả cao.
2.2.2. Giáo dục kỹ năng sống thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp.
Nếu như qua các mơn học các em được hình thành kỹ năng giao tiếp, phát
triển tư duy, kỹ năng tự nhận thức, ra quyết định, cảm thơng, chia sẻ... thì hoạt
động ngoài giờ lên lớp rèn luyện cho các em các kỹ năng cơ bản, phù hợp với
lứa tuổi như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức hoạt động chung cùng nhau,
biết phối hợp với mọi người cùng hoạt động, cùng tham gia, trải nghiệm...
Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoài
giờ lên lớp đạt hiệu quả. Theo tôi chúng ta cần tổ chức cho học sinh một số
hoạt động sau:
- Tổ chức Đêm hội trăng rằm: các em phấn khởi được cùng vui hội với
các hoạt động bày trí mâm cỗ, rước đèn, phá cỗ, xem múa lân hấp dẫn từ đó
phát triển kĩ năng cần thiết cho HS.
- Ngoại khóa Tiếng Anh có sự tham gia của người nước ngoài thực sự
giúp học sinh phát huy năng lực giao tiếp và tương tác. Học sinh có một sân
chơi Anh ngữ vơ cùng bổ ích và lý thú, giúp cho các em cởi mở hơn, tự tin hơn.
- Tổ chức “Ngày hội học sinh Tiểu học" với các hoạt động như: văn nghệ,
gian hàng trưng bày, em tập làm kinh doanh, trạng nguyên nhỏ tuổi lớp 3,4,5
bằng hình thức Rung chng vàng, trị chơi dân gian, nét chữ-nết người đã tạo
ra sân chơi lớn cho các em tham gia, học sinh được trải nghiệm, phát triển các
mặt năng lực phẩm chất cần thiết cho các em trong cuộc sống.
- Hoạt động vui chơi giải trí, văn nghệ, TDTT: Vui chơi giải trí là nhu cầu
thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của trẻ em. Nó là một hoạt động có ý
nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học. Hoạt động này làm
thỏa mãn tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn
luyện một số phẩm chất như tính tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, lịng
nhân ái. Để tổ chức có hiệu quả giáo viên phải biết phối hợp với Tổng phụ
trách tạo sân chơi cho các em. Thiết kế các hoạt động phù hợp:
+ Tháng 8, 9: là lúc các em mới vào học, để tạo hứng thú cho các em,
chúng ta nên tổ chức các trò chơi dân gian như đơn giản như kéo co, mèo đuổi
chuột, nhảy bao bố... trò chơi này vừa giải trí nhưng vừa kết nối tình cảm giữa
các bạn trong lớp, trong đội, trong trường. Các em có dịp làm quen với nhau
khi được xếp vào một đội, một nhóm cùng chơi.
+ Tháng 10, 11: Những tháng này có các ngày kỷ niệm: 20/10, 20/11.
Để giúp các em vừa giải trí, vừa ơn lại ngày kỷ niệm lớn chúng ta tổ chức hội
thi hát dân ca hay hát hị khoan, khuyến khích các em sáng tác, đặt lời mới theo
chủ đề về ngày Nhà giáo Việt Nam, về quê hương, đất nước, mái trường. Qua
hội thi giúp các em phát triển kỹ năng giao lưu cũng như tình yêu quê hương
đất nước.
+ Tháng 12, 01: Là những tháng các em đã học được nhiều kiến thức.
Để giúp các em tự khẳng định mình chúng ta nên tổ chức hội thi “Rung chuông
vàng” hay “Trạng nguyên nhỏ tuổi”. Hội thi vừa thu hút những tài năng của
trường vừa gây khơng khí hào hứng, giúp các em tự khẳng định mình, cũng
như phát triển kỹ năng nhận thức.
Tháng 2, 3: Đây là những tháng có các ngày kỷ niệm trọng đại. Tôi
nghĩ giáo viên nên phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức cho các em tham quan,
dã ngoại một số nơi trong địa bàn, thăm các di tích lịch sử, giúp đỡ các bà mẹ
Việt Nam anh hùng, thương binh, người tàn tật...Để giáo dục các em có trách
nhiệm với quê hương, đất nước và phải ln nhớ ơn những người đã có cơng
với nước.
+ Tháng 4, 5: Tổ chức các hội thi tài năng: như hội thi cắm hoa, diễn
thuyết về một số chủ đề như: Nhà sử học nhỏ tuổi, Chúng em yêu khoa học,
ngoại ngữ... Đây là đỉnh điểm thăng hoa của năm học, nhằm chọn ra những tài
năng xuất sắc, là tấm gương sáng của trường. Từ đây hình thành ở các em lòng
đam mê hiếu học cũng như phát hiện các tài năng để giúp đỡ.
- Hoạt động lao động công ích:
Đây là một loại hình đặc trưng của hoạt động ngồi giờ lên lớp. Thơng
qua lao động cơng ích các em gắn bó với đời sống xã hội. Lao động cơng ích sẽ
giúp trẻ hiểu thêm về giáo trị lao động. Có lao động các em mới yêu người lao
động, quý các sản phẩm người lao động làm ra. Vì vậy phải thường xuyên tổ
chức các em các hoạt động như vệ sinh lớp học, sân trường, chăm sóc bồn hoa,
trồng cây xanh để các em được tiếp xúc, làm quen với lao động. Chúng ta cũng
biết, hiện nay học sinh rất ít được tham gia lao động nhưng đây là hoạt động
thực sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Các em sẽ
được rèn luyện sự nhanh nhẹn khi cầm chiếc chổi quét nhà, có tinh thần hợp
tác với nhau khi cùng nhổ cỏ, tưới nước. Sau này dù có rơi vào hồn cảnh khắc
nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.
- Tham quan du lịch cảnh đẹp trong và ngoài tỉnh:
Đây là hoạt động giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em,
giúp các em biết được cảnh đẹp thiên nhiên. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ cái
đẹp, thưởng thức và giữ gìn nét đẹp của thiên nhiên, góp phần bồi dưỡng năng
lực học mơn Tiếng Việt. Qua đó giáo dục kiến thức môi trường cho các em,
giúp các em có hành động đúng với mơi trường mình đang sống.
- Tham quan cơ sở sản xuất, nhà máy xí nghiệp trên địa bàn:
Hoạt động này giúp các em được tiếp xúc với thực tế sau khi học các bài
Tập đọc, TN-XH, Kỹ thuật, GD địa phương… Đồng thời là việc làm giáo dục
hướng nghiệp cho các em, sớm bồi dưỡng lòng yêu lao động, biết quý thành
quả của người lao động, giáo dục lòng yêu quê hương, định hướng cho ước
mơ, chí hướng xây dựng quê hương.
- Tham quan di tích lịch sử, bảo tàng, nhà truyền thống:
Tổ chức được hoạt động này sẽ giáo dục cho các em lòng tự hào truyền
thống quê hương, truyền thống dân tộc. Đồng thời giáo dục các em biết phát
huy truyền thống dân tộc, biết giữ giữ gìn, tơn tạo các khu di tích lịch sử, nhà
bảo tàng. Giúp các em hiểu được nét đẹp truyền thống của dân tộc được lưu
giữ lại đó là do sự đúc rút của ông cha truyền lại từ đời này sang đời khác,
nhiệm vụ của chúng ta là phải giữ gìn và phát huy nét đẹp đó.
Kết hợp với giáo viên thể dục dạy bơi cho các em. Ở một vùng sông nước
như Lệ Thuỷ thì kỹ năng biết bơi là rất cần thiết. Năm nay nhà trường đã huy
động các nguồn vốn từ XHHGD xây được bể bơi với diện tích 120m 2. Đây là
cơ hội cho các em học bơi và biết bơi để phòng tránh tai nạn đuối nước.
2.2.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay đổi hoàn toàn các
phương pháp cũ bằng các phương pháp mới mà là sự vận dụng phối hợp linh
hoạt giữa các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học.
Dạy hoc theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà học sinh có cơ hội
phát triển nhiều kỹ năng sống như hợp tác, chia sẻ, các làm việc khoa học, tự
học...
Dạy học theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà tất cả các học sinh
của nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định.
Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ từ giáo viên, điều hành hoạt động nhóm và báo
cáo kết quả học tập của nhóm mình với giáo viên. Nói là học theo nhóm nhưng
trước hết học sinh phải tự học, tự trải nghiệm, khám phá, nghiên cứu tài liệu để
có những hiểu biết cá nhân về việc học tập, sau đó chia sẻ cặp đơi với bạn bên
cạnh, nói cách nghĩ, cách làm cho bạn nghe, tiếp thu những góp ý của bạn để
điều chỉnh ý kiến, kết quả của mình.
Sau khi chia sẻ cặp đơi, học sinh tự tin báo cáo kết của của mình trước
nhóm. Các thành viên trong nhóm nhận xét phần trình bày của bạn. Đây cũng
là dịp các em thể hiện ý kiến cá nhân của mình. Các thành viên trong nhóm đều
được báo cáo, nhận xét, ai cũng được tham gia vào công việc chung, khơng ai
đứng ngồi cuộc, khơng ai làm thay.
Hoạt động nhóm làm cho từng thành viên được bộc lộ những suy nghĩ,
hiểu biết, thái độ của mình. Qua đó đươc tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Trong
nhóm nhỏ mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, không thể ỷ lại vào người khác. Tồn
nhóm phải phối hợp với nhau để đạt được mục tiêu chung. Kết quả làm việc
của từng nhóm trước lớp sẽ tạo một khơng khí thi đua giữa các nhóm, đóng
góp tích cực vào kết quả chung của bài học.
Học theo nhóm giúp các em được tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Qua đó
phát triển tình bạn, năng lực hợp tác, năng lực trình bày, nghiên cứu, ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần tương trợ và cao hơn nữa là làm cho từng thành viên
quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Như vậy đòi hỏi khi thiết kế bài dạy giáo viên phải đầu tư để tổ chức hoạt
động học phù hợp. Tổ chức cho học sinh biết tự học, tự vận dụng. Làm cho học
sinh biết hợp tác, chia sẻ. Phải tập cho học sinh học cách thức đi tới sự hiểu
biết, học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động.
2.2.4. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
các em
Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả rất cao trong các hoạt
động. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh giúp giáo viên dễ dàng
nắm bắt tình hình của các em, hiểu được tính cách, hồn cảnh sống của các em
từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp với phụ
huynh trong việc rèn luyện đúng phương pháp.
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi,
tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với các em để
giúp các em có kỹ năng sống tốt, có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong
cuộc sống. Tơi nói rõ cho phụ huynh biết: trẻ con luôn bắt chước người lớn và
cha mẹ các em là những người lớn gần gũi nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm
mẹ đừng vơ tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để
hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt các em mất thời gian
học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cha mẹ hãy chú
ý giúp các em hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ năng giao tiếp xã hội
để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác và là tấm gương sáng
nhất đẻ trẻ noi theo từ lời ăn tiếng nói đến cử chỉ, hành động, giao tiếp với
người xung quanh...
VD: Bố mẹ hãy cho phép các em vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý
thích của mình, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để
các em tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Bố mẹ có thể cùng con thu dọn
nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay.
Khi đi học, bố mẹ cứ tự để cho con mình chuẩn bị đồ dùng, chỉ kiểm tra
và chỉ ra những đồ dùng còn thiếu để các em bổ sung, và nhắc các em hôm sau
phải chuẩn bị đầy đủ, không được chuẩn bị thay, hôm sau tiếp tục kiểm tra việc
chuẩn bị đồ dùng của con cái.
Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích các em tham gia
dọn dẹp trang hồng nhà cửa, phụ ơng bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí
cây đào, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngồi ra, bố mẹ hãy lựa chọn
những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với các em để cả nhà
cùng xem, khi xem khuyến khích các em nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình về
những điều mà mình vừa được xem.
Tơi cũng tun truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của các
em trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem các em
có tự tin và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay khơng? Có thích tham gia
dã ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt khơng? Có tự nhiên sáng tạo khi học
các bài học khơng? Có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay khơng?
… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục .
Điều tôi luôn tâm niệm với các bậc phụ huynh là: Chúng ta hãy dành
nhiều thời gian hơn cho việc dạy các em nên người, không nên chỉ chạy theo
các giá trị hiện thực như học vấn hay tiền bạc mà còn phải chỉ cho các em thấy
những giá trị của tâm hồn, mà điều này đang rất cần đối với các em học sinh
tiểu học - lứa tuổi các em chập chững tập làm người lớn.
Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với phụ huynh mà tôi thấy
học sinh lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết các em có kỹ năng sống cần
thiết theo độ tuổi.
2.2.5. Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết sinh hoạt lớp.
Chúng ta vẫn thường nghĩ: Tiết sinh hoạt lớp là tiết học để giáo viên thống
kê lại các lỗi cũng như những việc làm chưa được của lớp, của học sinh để phê
bình, nhắc nhở. Chính quan niệm này đã làm cho buổi sinh hoạt trở nên rất
nặng nề, chán nản đối với học sinh.
Vậy để tiết sinh hoạt lớp trở nên hấp dẫn, hứng thú, phát huy được tính
tích cực của học sinh, thể hiện khả năng tự quản của các em, tạo cơ hội để các
em được thể hiện năng lực cũng như năng khiếu của bản thân, các em được là
chính mình, các em được tham gia, được hịa đồng với tất cả các bạn trong lớp,
xóa bỏ những mặc cảm, tự tin hơn, là động lực để các em bước vào tuần học
mới với tâm thế tốt, theo tôi, giáo viên chủ nhiệm phải trao đổi, định hướng
trước với Hội đồng tự quản về nhiệm vụ của tiết sinh hoạt chuẩn bị thực hiện
và kế hoạch tuần tiếp theo. Hình thức và nội dung tiết sinh hoạt nên phong phú
và đa dạng phù hợp với đặc điểm của học sinh lớp mình. Tơi thường tổ chức
tiết sinh hoạt lớp theo hình thức sau:
Mở đầu tiết sinh hoạt, Chủ tịch hội đồng tự quản lên điều hành hoạt
động. Các trưởng ban lần lượt báo cáo kết quả theo dõi thi đua của từng thành
viên và cả Ban trong tuần. Tiếp theo, bạn Chủ tịch hội đồng tự quản cho các
bạn góp ý kiến về các hoạt động của lớp (phản ánh đúng sai quá trình theo dõi
của các Ban; những trường hợp sai phạm chưa được báo cáo, các cá nhân cần
tuyên dương…). Cuối cùng, bạn Chủ tịch hội đồng tự quản kết luận những mặt
nổi bật và những khiếm khuyết của tập thể, cá nhân trong lớp; đề xuất với cô
giáo tuyên dương cá nhân điển hình, cũng như nhắc nhở các bạn cịn vi phạm...
Tiếp đó, dựa trên sự định hướng trước của giáo viên chủ nhiệm, mục tiêu
thi đua rèn luyện của lớp, Chủ tịch hội đồng tự quản nêu dự thảo kế hoạch thực
hiện tuần sau. Các Ban trao đổi và đi đến phương án thực hiện. Kết thúc hoạt
động này, Chủ tịch hội đồng tự quản mời giáo viên chủ nhiệm cho ý kiến.
Song song với các hoạt động trên, để tránh sự nhàm chán của tiết sinh
hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm cần định hướng cho Ban văn nghệ có những tiết
mục văn nghệ thư giãn như: Hát, kể chuyện, đọc thơ, tổ chức những trị chơi
nhỏ cũng có thể tổ chức tặng quà sinh nhật cho học sinh có ngày sinh thuộc
tháng hoặc tuần đang sinh hoạt, đan xen hợp lý, linh hoạt giữa các hoạt động.
Những lời ca tiếng hát, những trò chơi dân gian sẽ mang lại tiếng cười, sức
khỏe, sự trong sáng trong tâm hồn các em...
Với các tháng có các phong trào thi đua quan trọng như chào mừng 8/3,
26/3, 20/10, 20/11... giáo viên chủ nhiệm có thể mời Ban thường trực Hội cha
mẹ học sinh đến dự buổi sinh hoạt lớp. Qua đó, phụ huynh nắm bắt được các
phong trào thi đua của lớp, của trường, để từ đó, đơn đốc con em tích cực tham
gia.
Tiết sinh hoạt lớp được tiến hành theo quy trình trên, học sinh rất hứng
thú, tạo khơng khí lạc quan, đoàn kết, thân ái, gần gũi và giúp các em mạnh
dạn, tự tin nhận lỗi và sửa lỗi, nhận ra được cái đúng, cái sai từ những chia sẻ
của các bạn để uốn nắn, sửa chữa.
2.3. Những kết quả đạt được:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ
học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kỹ năng sống
cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
+ Lớp đạt giải Nhất hội thi Rung chuông vàng cấp trường
+ Kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh rất tốt thể hiện qua buổi giao lưu
tiếng Anh với Trung tâm
+ Hàng tuần, đến tiết sinh hoạt lớp các em đã tham gia rất hào hứng, sổi
nổi, đặc biệt là mục chia sẻ, góp ý với các bạn.
100% các em năng động, mạnh dạn và tự tin, 100% học sinh được rèn
luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường đạt hiệu quả.
85% học sinh đã có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ
năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, linh hoạt trong các hoạt
động hàng ngày
90% học sinh được rèn kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng
tạo, tính tự tin thơng qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục và các môn học.
100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp,
chung sống hòa bình, thân thiện, biết chia sẻ.
90% trẻ biết được các việc làm để bảo vệ sức khỏe, chăm sóc bản thân
như: không ăn các thức ăn không rõ nguồn gốc, ăn chín uống sơi, khơng đi một
mình nơi hoang vắng...
Hàng tháng có đánh giá kiểm tra chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng
học sinh:
+ Mạnh dạn, tự tin:
90%
+ Kỹ năng hợp tác:
95%
+ Kỹ năng giao tiếp:
88%
+ Kỹ năng tự lập, tự phục vụ:
85%
+ Lễ phép:
100%
+ Kỹ năng vệ sinh:
95%
+ Kỹ năng thích khám phá, học hỏi:
85%
+ Kỹ năng tự kiểm sốt bản thân:
90%
Ở lớp các em biết đồn kết, giúp đỡ bạn yếu hơn trong nhóm mình, biết
phân cơng nhau lao động, vệ sinh, chăm sóc bồn hoa lớp mình xanh tốt, chia
sẻ, giúp đỡ bạn khó khăn hơn. Đặc biệt là các em biết đoàn kết, hỗ trợ nhau khi
tôi quan sát các em tham gia các trò chơi hay các hoạt động, biết kiềm chế bản
thân trong khi xử lý các tình huống với bạn bè, điều mà bản thân tôi cũng như
nhiều phụ huynh rất mong muốn.
Các em cởi mở, thân thiện, gần gũi với tơi hơn, đã chủ động nói rõ những
vướng mắc của mình và tìm sự hỗ trợ, giúp đỡ. Điều đó làm tơi rất hài lịng.
Các em cũng rất có trách nhiệm trong việc làm của mình. Nếu một bạn
nào trong lớp, trong trường có những hành vi chưa tốt như vứt rác, hái hoa, bẻ
cành hay nói tục mà chưa tự nhận trách nhiệm cho bản thân thì các em đã thắc
mắc, kiến nghị, yêu cầu bạn đó phải tự nhận lỗi của mình và hứa sửa chữa.
Ý thức bảo vệ của cơng, biết trang trí và lớp học, trường học thân thiện,
chăm đọc sách và tham gia giao lưu các hội thi do Đội, nhà trường tổ chức và
đều đạt kết quả cao.
3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thì người giáo viên giữ một vai
trò rất quan trọng, nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm. Từ
nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng, đề xuất và thể nghiệm, sáng kiến có ý
nghĩa, tác dụng thiết thực trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường Tiểu học.
Ý nghĩa của sáng kiến còn thể hiện ở các giải pháp và bài học sư phạm
như sau:
1. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học: Tiếng Việt, Đạo đức,
TNXH....
2. Giáo dục kĩ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”.
3. Giáo dục kĩ năng sống thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp.
4. Giáo dục kĩ năng sống thông qua đổi mới phương pháp dạy học.
5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các
em.
6. Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết sinh hoạt lớp.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
+ Đối với giáo viên:
- Để phù hợp với giai đoạn hiện nay tôi nghĩ mỗi giáo viên tự mình cần
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
- Cần nắm vững phương pháp, nghệ thuật sư phạm, hiểu được đặc điểm
tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh tiểu học
- Biết tổ chức quản lí việc học tập của học sinh nhằm hình thành tính tích
cực, tự lập, tự giác hồn thành nhiệm vụ.
- Có kế hoạch cụ thể để phối kết hợp giữa gia đình với các hoạt động của
trường tạo sự đồng bộ nhịp nhàng trong quá trình giáo dục học sinh.
- Tạo cơ hội cho trẻ nói, suy nghĩ, thể hiện nhu cầu, bộc lộ cảm xúc...Từ
đó có biện pháp tạo mối quan hệ giữa gia đình – nhà trường - xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên bộ môn.
+ Đối với nhà trường - TPT Đội:
Nhà trường cần tăng cường tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với
nhiều hình thức phong phú lơi cuốn các em ham thích hoạt động. Tạo điều kiện
cho các em đi tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, làng
nghề ở địa phương.