BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục,
Người dạy rằng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Thực hiện lời dạy của Bác Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục và coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Trung
ương II khóa VIII đã xác định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là
nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với ý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; Phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng
đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công
nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong cơng
nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.
Trẻ em hôm nay
Thế giới ngày mai
Trẻ em của thời hiện đại, đã được nghe và giáo dục từ rất sớm từ khi vẫn
còn trong lịng của người mẹ, vì vậy mà UNESCO, 8 tuổi đã là quá trễ để giáo
dục kỹ năng sống. Vì đến độ tuổi này trẻ đã hình thành cho mình phần lớn các
giá trị; trừ khi có sự thay đổi sâu sắc về trải nghiệm trong đời, nếu không thì khó
mà lĩnh hội thêm giá trị sau độ tuổi này. Trẻ từ dưới 2 tuổi đã bắt đầu tiếp thu từ
mơi trường sống xung quanh, như giọng nói của người lớn khi trò chuyện với
trẻ, cách thức tiếp xúc với trẻ,…tất cả đều tác động đến sự phát triển của trẻ. Vì
vậy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành từ bậc học
mầm non.
Thuật ngữ “Kỹ năng sống” bắt đầu được quan tâm tại Việt Nam vào
những năm đầu thập niên 90 – khi xã hội bắt đầu có những chuyển biến phức tạp
– nền kinh tế thị trường và việc du nhập các nền văn hóa từ các nước bên ngồi
vào Việt Nam hay đó là sự biến đổi của mơi trường tự nhiên đã tác động rất lớn
đến con người vì lẽ đó địi hỏi mỗi người phải học cách thích nghi với những sự
1
thay đổi đó, từ đây những kỹ năng khác ngồi trình độ học vấn, tư cách đạo đức,
năng lực làm việc bắt đầu được xem xét và quan tâm – đó chính là điều kiện để
giáo dục Việt Nam quan tâm đến thuật ngữ kỹ năng sống trong chương trình và
triển khai một số dự án của các tổ chức khác trên thế giới.
Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường một mặt làm
cho đời sống của con người được nâng cao, nhưng nó cũng có mặt trái của nó,
đó là: khiến cho một số gia đình cuốn vào guồng quay kiếm tiền mà quên đi việc
giáo dục, chăm sóc các con. Có gia đình chỉ cần bỏ ra ít tiền th người giúp
việc thì giao phó tồn bộ trách nhiệm cho họ, có gia đình thì cho con kết bạn với
máy tính, với internet ngay từ nhỏ, …bên cạnh đó một số phụ huynh lại nâng
niu, chiều chuộng và bao bọc con quá mức khiến cho các con ỷ nại vào người
khác, không biết cách tự chăm sóc bản thân, hành động một cách thụ động,…
hay nói cách khác các con cịn yếu và thiếu về kỹ năng sống, điều đó ảnh hưởng
rất lớn tới việc hình thành nhân cách của các con và nói sâu xa hơn làm ảnh
hưởng tới nguồn nhân lực của đất nước sau này.
Trong những năm gần đây trường mầm non Kim Long đã đưa nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ, tuy nhiên
nội dung này chưa được chú trọng và rèn luyện thường xuyên do đó chưa đạt
được hiệu quả cao.
Từ những lí luận và thực tiễn trên, với vai trị là một giáo viên tơi ln
băn khoăn làm thế nào để thực hiện tốt nhiệm vụ “trồng người”, góp phần bé
nhỏ trong việc đào tạo ra những con người nhanh nhẹn hoạt bát, mạnh dạn, tự
tin,… thích ứng được với mọi điều kiện, biến đổi của môi trường, xã hội hay nói
cách khác đó là những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Xuất phát từ những
lý do đó mà tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ lớp 5 tuổi A1, trường mầm non Kim Long, năm học 2018-2019”.
Do khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên chắc chắn đề tài sẽ cịn nhiều
thiếu sót, rất mong các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo và hội đồng khoa học
đóng góp ý kiến để đề tài được hồn thiện hơn.
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lớp 5
tuổi A1 trường mầm non Kim Long, năm học 2018-2019”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Đàm Thị Thúy Mai
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường MN Kim Long, huyện Tam Dương.
2
- Số điện thoại: 0979.410.379
E_mail:đ
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Đàm Thị Thúy Mai
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 4/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1. Cơ sở lí luận của vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
7.1.1.1.Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài
Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập một Ủy ban Thư ký về
Rèn luyện các Kỹ năng Cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving
Necessary Skills - SCANS). Thành viên của ủy ban này đến từ nhiều lĩnh vực
khác nhau như giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao động, cơng chức…
nhằm mục đích “thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công
việc thu nhập cao”. Cũng trong khoảng thời gian này, tại Úc, Hội đồng Kinh
doanh Úc (The Business Council of Australia - BCA) và Phịng thương mại và
cơng nghiệp Úc (the Australian Chamber of Commerce and Industry - ACCI)
với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học (the Department of
Education, Science and Training - DEST) và Hội đồng giáo dục quốc gia Úc
(the Australian National Training Authority - ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỹ năng
hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến
thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề
(employability skills) là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà
cịn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng
góp vào định hướng chiến lược của tổ chức. Những năm đầu thập niên 90, một
số nước Châu Á như: Ấn Độ, Lào, Campuchia, Indonexia, Malaysia, Thái Lan,
… cũng đã nghiên cứu và triển khai chương trình dạy kỹ năng sống ở các bậc
học phổ thông từ mầm non cho đến Trung học phổ thông. Những nội dung giáo
dục chủ yếu ở hầu hết các nước này đó là trang bị cho người trẻ tuổi những kỹ
năng sống cần thiết để giúp họ thích nghi dần với cuộc sống sau này, mục đích
chính là dạy – trang bị và hình thành. Mục tiêu chung của giáo dục kỹ năng sống
được xác định là: “Nhằm nâng cao tiềm năng của con người để có hành vi thích
3
ứng và tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi, các tình huống của cuộc
sống hằng ngày, đồng thời tạo ra sự đổi thay và nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Với một đích nhắm đến yếu tố cá nhân của người học, các nước cũng đã đưa ra
cách thiết kế chương trình giáo dục và trang bị kỹ năng sống như: lồng ghép vào
chương trình dạy chữ, học vấn, vào tất cả các môn học và các chương trình ở
những mức độ khác nhau. Dạy các chuyên đề cần thiết cho người học như: kỹ
năng nghề, kỹ năng hướng nghiệp, … và được chia làm ba nhóm chính là: Kỹ
năng cơ bản (gồm các kỹ năng đọc, viết, ghi chép, …), nhóm kỹ năng chung
(gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết
vấn đề, …) và nhóm kỹ năng cụ thể (gồm các kỹ năng bình đẳng giới, bảo vệ
sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần, …).
Tóm lại, dù xuất phát từ quan điểm chung về kỹ năng sống từ Tổ chức Y
tế thế giới hay UNESCO, nhưng ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có sự khác biệt
về quan niệm và nội dung, có nước thực hiện theo đúng chuẩn kỹ năng nhưng
cũng có nước mở rộng thêm chứ không chỉ bao hàm kỹ năng sống là những khả
năng về tâm lý, xã hội. Kỹ năng sống được lồng ghép ở cả giáo dục chính quy
(giáo dục trong chương trình đào tạo) và cả giáo dục khơng chính quy (hoạt
động ngoại khóa – hoạt động ngồi giờ lên lớp). Những quan niệm, nội dung
giáo dục kỹ năng sống được triển khai vừa thể hiện nét chung vừa thể hiện nét
đặc thù, những nét riêng của từng quốc gia.
7.1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, nội dung giáo dục con người biết đối
nhân xử thế, kinh nghiệm làm ăn để đáp ứng và biến ứng với những thách thức
của thiên tai, … đã được phản ánh khá phong phú qua hệ thống danh ngôn, ca
dao, tục ngữ và những lời dạy của người xưa như :“Học ăn học nói, học gói học
mở”, hay “Lúa mùa thì cây cho sâu, lúa chiêm chì gẩy cành dâu mới
vừa”,...Cịn đối với chức năng của giáo dục thì mục tiêu học để làm người hay
nói cách khác là học để biết đối nhân xử thế, học để sống tốt hơn và học để phục
vụ bản thân – gia đình và xã hội đã được quan tâm ngay từ những ngày đầu tiên
của giáo dục Việt Nam. Nhưng có lẽ với mục tiêu và nội dung như thế vẫn chưa
được gọi là kỹ năng sống mà tất cả như là những lời giáo dục để ứng phó với sự
thay đổi của mơi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Thuật ngữ “Kỹ năng sống” bắt đầu được quan tâm tại Việt Nam vào
những năm đầu thập niên 90 – khi xã hội bắt đầu có những chuyển biến phức tạp
4
– nền kinh tế thị trường và việc du nhập các nền văn hóa từ các nước bên ngồi
vào Việt Nam hay đó là sự biến đổi của mơi trường tự nhiên đã tác động rất lớn
đến con người vì lẽ đó địi hỏi mỗi người phải học cách thích nghi với những sự
thay đổi đó, từ đây những kỹ năng khác ngồi trình độ học vấn, tư cách đạo đức,
năng lực làm việc bắt đầu được xem xét và quan tâm – đó chính là điều kiện để
giáo dục Việt Nam quan tâm đến thuật ngữ kỹ năng sống trong chương trình và
triển khai một số dự án của các tổ chức khác trên thế giới.
Tại Viêt Nam đầu những năm 90, Thủ tướng chính phủ cũng đã có văn
bản chỉ đạo tại Quyết định 1363/TTg về việc “Đưa nội dung giáo dục môi
trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”, tuy quyết định này chưa thấy rõ về
việc phải rèn luyện kỹ năng sống ở các bậc học, nhưng nội dung của quyết định
cũng đã có đề cập đến việc trang bị cho người học những vấn đề về văn hóa ứng
xử, về thái độ sống, …. Chỉ thị 10/GD&ĐT năm 1995 hay Chỉ thị 24/CT&GD
năm 1996 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo đã có những chỉ đạo về cơng
tác phịng chống HIV/AIDS hay tăng cường cơng tác phịng chống ma túy tại
trường học ít nhiều cũng đã đề cập đến nội dung của thuật ngữ kỹ năng sống.
Năm 1996 thơng qua chương trình của UNICEF “Giáo dục kỹ năng sống để bảo
vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngồi nhà
trường”. Giai đoạn 1 của chương trình chỉ dành cho một số đối tượng của ngành
giáo dục và Hội chữ thập đỏ đã được trang bị một số kỹ năng như: kỹ năng tự
nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng kiên định, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng
xác định giá trị, … Sang giai đoạn 2 của chương trình đối tượng tập huấn được
mở rộng và thuật ngữ kỹ năng sống được hiểu một cách rộng rãi hơn “Kỹ năng
sống là các kỹ năng thiết thực mà con người cần đến để có cuộc sống an tồn và
khỏe mạnh”. Cuối cùng khái niệm kỹ năng sống thực sự được hiểu với nội hàm
đầy đủ và đa dạng sau hội thảo “Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống” do
UNESCO tài trợ vào năm 2003. Và chính từ đây ngành giáo dục đã bắt đầu quan
tâm đến kỹ năng sống và cách thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong
những năm đầu của thế kỷ XXI, một số bộ Luật của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam sửa đổi cũng đã có những định hướng và điều khoản liên quan
đến việc trang bị kỹ năng sống cho học sinh như: Luật chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004 hay Luật giáo dục năm 2005. Mặt khác, Giáo dục Việt Nam bắt
đầu quan tâm đến nhiều vấn đề liên quan đến người học – đặc biệt là vấn đề phát
triển toàn diện cho người học nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội
và của nền kinh tế tri thức.
5
Năm học 2007 – 2008, Bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa ra phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực”. Phong trào này bắt
đầu được triển khai mạnh mẽ trong hầu hết tất cả các bậc học từ mầm non cho
đến đại học. Ngày 22 tháng 7 năm 2008, một lần nữa Bộ giáo dục và đào tạo đã
ra Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 – 2013.
Kèm với Chỉ thị này là một thông báo về hướng dẫn triển khai phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực” năm học 2008 – 2009 và giai
đoạn 2008 – 2013 với mục tiêu liên quan đến kỹ năng sống là: “Rèn luyện kỹ
năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng
làm việc, sinh hoạt theo nhóm; Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe,
kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích
khác; Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hịa bình, phịng ngừa bạo
lực và các tệ nạn xã hội”. Cũng trong thời điểm này, một số nhà chuyên môn
cũng bắt đầu nghiên cứu và viết một số tài liệu liên quan đến lĩnh vực kỹ năng
sống. Tác giả Nguyễn Thanh Bình khi tham gia dự án Đào tạo giáo viên Trung
học cơ sở đã cho ra đời Giáo trình Giáo dục kỹ năng sống – Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm Hà Nội năm 2007. Giáo trình đề cập chủ yếu đến những vấn đề đại
cương về kỹ năng sống, một số biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh, … Năm 2009 tác giả Huỳnh Văn Sơn cùng Nhà xuất bản Giáo dục cho ra
đời tài liệu Nhập môn kỹ năng sống với các nội dung cơ bản: những vấn đề
chung về kỹ năng sống và một số kỹ năng sống cơ bản, … Năm 2009, Trung
tâm hỗ trợ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức diễn đàn Những kỹ năng
thực hành xã hội dành cho sinh viên và thông qua diễn đàn này tài liệu Những
kỹ năng thực hành xã hội dành cho sinh viên cũng đã được xuất bản. Tài liệu là
cẩm nang gồm một số kỹ năng sống và làm việc dành cho những người trẻ trong
thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước.
Tóm lại, cho đến nay nghiên cứu kỹ năng sống tại Việt Nam hay triển
khai chương trình rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh chỉ mới thể hiện rõ ở
chương trình giáo dục ngồi khung chương trình đào tạo. Do đó, giáo viên nói
chung và giáo viên mầm non nói riêng khơng có nhiều tài liệu để tham khảo nên
cũng chưa biết đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như thế nào
cho phù hợp và hiệu quả.
7.1.1.3. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sống
6
Kỹ năng là khả năng thao thác thực hiện một hoạt động nào đó. Có nhiều
điều ta biết, ta nói được mà khơng làm được. Như vậy, ln có một khoảng cách
giữa thông tin, nhận thức và hành động. Biết thuốc lá có hại nhưng bỏ thuốc lá
rất khó vì rất khó thay đổi một hành vi, biết tập thể dục là rất tốt cho sức khỏe
nhưng để có hành vi tập thể dục đều đặn thì là cả vấn đề.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi thích
ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả
trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày
Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp
thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng
về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO),
KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục:
- Học để biết (learning to know): gồm các kỹ năng tư duy như tư duy phê
phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu
quả...;
- Học để làm (learning to do): gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm
vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,...
- Học để làm người (learning to be): gồm các kỹ năng cá nhân như ứng
phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,...;
- Học để chung sống (learning to live together): gồm các kỹ năng xã hội
như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể
hiện sự cảm thơng;
Như vậy theo quan niệm của UNESCO, KNS là năng lực cá nhân để họ
thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.
KNS cịn có nghĩa là khả năng phân tích tình huống và hành vi, khả năng
phân tích hậu quả của hành vi và khả năng tránh một số tình huống nào đó
(UNAIDS, Thái Lan: 1995). Ngồi ra “Kỹ năng sống” cịn có nghĩa là khả năng
ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống:
+ Đó là khả năng sống (lead daily life) cuộc sống hàng ngày của mỗi
người ( với nhiều tình huống khác nhau) một cách hợp lý và có ích cho người
khác.
7
+ Đó là khả năng mà mỗi người ứng xử, ứng phó trước các tình huống
trong cuộc sống.
+ Đó là khả năng của mỗi người làm chủ bản thân, ứng xử với những
người khác và với xã hội một cách hợp lý trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Như vậy, có nhiều định nghĩa rất rõ về kỹ năng sống, nhưng có thể nêu
một cách ngắn gọn: kỹ năng sống là khả năng tự chủ, khả năng tự đưa ra quyết
định, khả năng nói khơng và khả năng thích nghi, biết chấp nhận, hóa giải được
những tác động tiêu cực trong cuộc sống xung quanh.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã
hội hiện đại . Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm
giúp trẻ có thể chuyển kiến thức , thái độ , cảm nhận thành những khả năng thực
thụ , giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong
cuộc sống .
7.1.1.4. Sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
7.1.1.4.1. Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội
Thực tế cho thấy, có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con
người, có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng.
Kĩ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức
thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Kĩ năng sống góp phần
thúc đẩy sự phát triển XH, ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con
người. Kĩ năng này phải được phát triển và nâng cao song song với sự trưởng
thành về thể chất của con người. Càng lớn lên, môi trường giao tiếp, hoạt động
càng rộng hơn, phức tạp hơn vì vậy kĩ năng sống càng phải được phát triển và
nâng cao hơn.
Giáo dục KNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Giáo dục KNS
còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân
được công nhận trong luật pháp Việt Nam và quốc tế.
Thiếu đi kĩ năng sống, con người khơng thể tiếp cận với mơi trường xung
quanh, hịa nhập cũng như khẳng định mình. Cho dù bạn có tố chất thơng minh,
nhưng sự thơng minh đó để làm gì? Ai sẽ biết? Nếu bạn khơng có một mơi
trường để thể hiện, có một cộng đồng xung quanh để thể hiện mình. Vì thế,
những tố chất tự thân chỉ là điều kiện cần – phần cứng mà chưa đủ nếu thiếu
phần mềm kia để giúp bạn khẳng định mình trong cuộc sống.
8
7.1.1.4.2. Giáo dục kỹ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ
Giáo dục Mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
nó góp phần khơng nhỏ trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Mục tiêu của giáo dục Mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, giúp trẻ “ học
làm người” và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ bước vào học lớp một. Với đặc thù
của trẻ lứa tuổi mầm non là đang làm quen với thế giới tự nhiên và xã hội, trẻ
bước vào cuộc sống xã hội với mọi thứ đều mới mẻ, cho nên đồng hành với việc
dạy kiến thức cho trẻ, phải dạy cả các kỹ năng sống cơ bản: kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân... nhằm giúp trẻ phát triển một số
giá trị, nét tính cách, phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự
tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hịa nhập, dễ chia sẻ... hình thành nếp
sống văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp theo qui tắc, chuẩn mực phù hợp...
Không những vậy, kỹ năng sống còn rèn luyện cho trẻ biết cách xử lý tình huống
trong từng hồn cảnh cụ thể, bày tỏ tình cảm phù hợp, đúng lúc, biết tránh
những vật, những nơi khơng an tồn, gây nguy hiểm đến tính mạng và cách
phịng tránh, tự lập trong các tình huống quen thuộc, có một số kỹ năng tự phục
vụ, hợp tác, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng.
Trong nghị quyết 161 của Thủ tướng Chính phủ về các chính sách phát
triển giáo dục Mầm non có quy định Điều 3 về xây dựng và đổi mới chương
trình chăm sóc giáo dục mầm non. Trong chương trình giáo dục đó đã chú ý đến
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non thơng qua các tình huống đặt ra hàng
ngày, qua truyện kể và qua trò chơi. Tuy nhiên, những yêu cầu này chưa được
đặt ra thành yêu cầu về nội dung có tính hệ thống mà mới chỉ được thực hiện lẻ
tẻ trong một vài chương trình ở một số cơ sở giáo dục mầm non. Cho nên vấn đề
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ 5- 6 tuổi không chỉ như
một mục tiêu giáo dục mà còn như một nhiệm vụ giáo dục cụ thể, cần thiết, vì
trẻ mẫu giáo lớn đã hình thành cơ sở ban đầu của hành vi, tính cách và nhân
cách, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ khơng chỉ vì mục đích bảo vệ sức khỏe,
mà cịn nhằm giáo dục hình thành nhân cách, tình cảm đạo đức và chuẩn bị tâm
thế tốt cho trẻ trước khi bước vào trường phổ thông.
Mỗi người khi sinh ra đều khơng thể có khả năng làm được mọi thứ một
cách ngẫu nhiên. Đó là kết quả của q trình tiếp thu, thích nghi với các tri thức,
kinh nghiệm xã hội lâu dài. Và lẽ dĩ nhiên, trẻ em khi sinh ra khơng thể tự nhiên
có được kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
9
trình bày ý kiến, kỹ năng tự chăm sóc bản thân... Càng có những kỹ năng này
sớm bao nhiêu thì trẻ càng có nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện.
Hơn nữa, cuộc sống ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh, tri
thức ngày một phong phú... Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ sẽ giúp bé sớm bắt
kịp với cuộc sống và phát triển khả năng của bản thân. Có được các kỹ năng
sống tốt đẹp, trẻ sẽ hình thành được nhân sinh quan, thái độ sống tích cực và
hành vi đúng đắn.
Ngồi ra, sự tác động về tâm sinh lý của trẻ cũng tác động làm trẻ phải đối
mặt với những sự thay đổi trong cuộc sống. Ở mỗi giai đoạn phát triển, trẻ sẽ có
những biến đổi về trạng thái, cách nhìn nhận sự vật xung quanh cũng như cách
ứng xử với vấn đề đó. Bởi vậy, trang bị cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản sẽ
giúp bé có khả năng thích nghi tốt, đáp ứng tốt cho nhu cầu thay đổi đó.
Những áp lực về học tập từ gia đình và xã hội ngày càng lớn đối với trẻ.
Những kỳ vọng của cha mẹ vào con cái luôn khiến trẻ thấy trách nhiệm của
mình cần phải đáp ứng. Việc rèn luyện cho trẻ những kỹ năng tích cực sẽ giúp
trẻ nhìn nhận vấn đề một cách lạc quan, tự tin và đối mặt với vấn đề tốt hơn,
tránh sự sợ hãi và lảng tránh khơng đáng có.
Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, kích động … hiện nay, thế hệ
trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực,
ln được đặt vào hồn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với
những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các
em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng,
thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có khả năng ứng phó tích cực trước sức ép
của cuộc sống và sự lôi kéo thiếu lành mạnh, giúp trẻ xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống an tồn, lành mạnh và phát triển tốt.
7.1.1.5. Giáo dục kỹ năng sống đối với trẻ mầm non
Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tơn
vinh các giá trị đích thực của mình thì trẻ sẽ có một nhân cách phát triển tồn
diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội,
biết tự khẳng định mình trong cuộc sống...
Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển
nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và
có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ.
10
Ngày nay, cuộc sống no đủ hơn, cha mẹ tấp nập lo công việc, kiếm thật
nhiều tiền để lo cho con cuộc sống đầy đủ, thuê giúp việc chăm sóc cho con cơm
đưa tận miệng, quần áo có người mặc hộ, giày dép có người xỏ, quần áo có
người giặt, ngã thì có người nựng, người nâng... Lớn hơn một chút đi học có
người đưa đi, học bài thì có sách giải mà khơng cần suy nghĩ, đi học thì cô giáo
đọc cho chép về học thuộc, bị bắt nạt thì chỉ biết khóc hoặc mách cơ giáo mà
khơng biết cách tự giải quyết, cả ngày chỉ biết lao vào học, điện tử, máy tính,...
Cha mẹ ln cho rằng con nhỏ thì khơng nên bắt con vào khn phép mà
mất đi nét hồn nhiên của trẻ vì vậy ln bao bọc, nựng con, tất cả mọi việc đều
làm giúp con, khơng cho con ra chơi ngồi vì sợ bị ngã đau. Nhưng cha mẹ có
biết chính cha mẹ đã tước đi quyền tự do của con, không cho con được nói,
khơng cho con được làm và đến khi quay đầu lại cha mẹ mới biết con mình nó
q thụ động, nhu nhược, quá nhút nhát, quá hiếu động, vô nguyên tắc… Và cha
mẹ nhận ra rằng có điều gì đó thật sự khơng ổn với con của chính mình. Càng lo
lắng hơn, bạn càng cố giữ con trong vòng tay bảo vệ của bố mẹ, và thế là như
một cái vòng luẩn quẩn. Con càng ngày càng mất đi năng lực thích nghi và điều
khiển chính cuộc sống của mình lúc đó mới đi tìm đến những cơ sở giáo dục để
định hướng lại nhân cách cho con. Nhưng cha mẹ đâu có biết, cái nơi của sự
giáo dục ngun tắc của con đều xuất phát từ gia đình. Ngay từ đầu cha mẹ thổi
nguyên tắc vào cho con, dạy con biết nói cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, dạy con biết
cách tự lập như phục vụ bản thân, dạy con biết bảo vệ bản thân “ngã phải tự
đứng lên, phải làm gì khi bị người khác bắt nạt mà không phải mách cô giáo,
mách bố mẹ”. Dạy con cách sinh tồn khi khơng có bố mẹ ở nhà con phải làm
cách nào để khơng bị đói, dạy con biết nấu 1 món ăn đơn giản. Dạy con những
cách thốt hiểm khi bị chó cắn, cách chơi an tồn với thú nuôi…những điều
tưởng chừng đơn giản nhưng nếu không thổi ngay từ đầu thì làm sao trẻ có được
những kỹ năng đơn giản đó. Kỹ năng đơn giản con cịn chưa biết thì sao có thể
nói đến những kỹ năng cao hơn, khó hơn.
7.1.1.6. Những kĩ năng sống cơ bản cần dạy trẻ
Bản thân giáo viên phải xác đinh rõ những kĩ năng cần thiết phải dạy cho
trẻ để từ đó có kế hoạch và biện pháp dạy trẻ phù hợp. Nếu giáo viên không nắm
được nội dung những kĩ năng cơ bản thì khơng thể dạy cho trẻ được.
Những kĩ năng cần thiết dạy cho trẻ đó là:
7.1.1.6.1. Kĩ năng tự nhận thức
11
Nếu sống với sự ủng hộ, trẻ sẽ luôn học cách yêu thích bản thân;
Nếu sống với sự được chấp nhận, trẻ luôn học cách làm thế nào để đạt
được mục đích của cuộc sống.
* Kĩ năng tự nhận thức là gì?
Tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm tích
cực về bản thân. Trẻ nhận thức về sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức được
mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tơn trọng, phát triển những suy nghĩ
tích cực về bản thân trẻ.
Tự nhận thức là khả năng hiểu biết, đánh giá được bản thân mình về tính
cách, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,..
Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai, sống trong hồn cảnh
nào, u thích điều gì, ghét điều gì, điểm mạnh, điểm yếu ra sao?...
Trẻ có kĩ năng tự nhận thức có thể:
- Nhận thức được mặt mạnh, mặt yếu của mình trong và ngồi nhà trường;
- Nhận thức được năng khiếu và khả năng đặc biệt của mình;
- Nhận thức về tình cảm, ý tưởng và giá trị của mình;
- Tự chấp nhận bản thân trước khi trẻ chấp nhận người khác một cách tự
nguyện, cảm nhận sự chấp nhận của người khác (Người thân, cô giáo, bạn bè…)
và sự chấp nhận của trẻ đối với mọi người.
* Nội dung rèn luyện kĩ năng tự nhận thức
Để hình thành kĩ năng tự nhận thức, giáo viên và các bậc phụ huynh cần
giúp các con tìm hiểu bản thân thơng qua một số câu hỏi như:
- Con là ai?
- Con thấy mình như thế nào? Con có những đức tính tốt đẹp nào?
- Con thích điều gì/cái gì ? và khơng thích điều gì/cái gì ?
- Con thường làm tốt những việc gì và chưa làm tốt những việc gì ?
- Con mong muốn điều gì?
- Con có những thuận lợi gì để thực hiện mong muốn ấy?
- Điều gì gây khó khăn cho con khi thực hiện mong muốn ấy?
Giáo viên cũng có thể khuyến khích trẻ khám phá bản thân một cách
khách quan bằng cách tìm kiếm những người đáng tin cậy của trẻ như cha mẹ,
bạn bè,…để phân tích khả năng của mình.
- Bạn bè nhận xét về con như thế nào?
- Có những điểm gì khác biệt giữa những cảm nhận của con với những
nhận xét của mọi người?
12
- Con sẽ làm gì đối với những việc con làm chưa tốt? Ai có thể giúp đỡ
con làm tốt những việc đó?
* Cách tiếp cận trong giáo dục và rèn luyện kĩ năng nhận thức ở trẻ
- Chấp nhận sự đa dạng ở trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau (Khơng chê
trách trẻ, ln nói đến ưu điểm của trẻ,…)
- Nhấn mạnh sự giống nhau nhưng trân trọng sự khác biệt.
+ Giáo viên không nên phân biệt đối xử với bất kỳ trẻ nào, giáo viên nên
là tấm gương để trẻ nhìn vào đó mà học cách nên cư xử thế nào với bạn. Hãy
luôn giữ thái độ chấp nhận đối với trẻ bằng cách tôn trọng tất cả trẻ cùng với gia
đình trẻ.
+ Chấp nhận bản ngã và trân trọng mọi trẻ, đáp lại trẻ bằng những cử chỉ
thân thiện: Gật đầu, mỉm cười, vỗ vai,…
- Xây dựng những điểm mạnh của từng trẻ
- Đặt yêu cầu cao cho tất cả trẻ trong lớp.
- Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học.
7.1.1.6.2. Kĩ năng tự phục vụ (Tự lập)
Kĩ năng tự phục vụ là gì?
Tự phục vụ là trẻ có khả năng tự làm những cơng việc chăm sóc bản thân:
đi giày dép, mặc quần áo, chuẩn bị đồ dùng đi học, …hay nói cách khác là trẻ tự
do làm mọi việc theo khả năng riêng của mình.
Khơng ít trẻ mầm non vì q được cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi
việc nên trẻ có thói quen ỷ lại và chỉ biết trơng chờ người khác phục vụ. Thiếu
kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến hệ lụy trẻ lười biếng, thụ động và khó khăn khi
tham gia vào các hoạt động của tập thể. Với vai trò làm nhà giáo dục, giáo viên
nên coi đây là một yêu cầu cần thiết đối với việc hình thành nhân cách trẻ ngay
từ những bước đi chập chững đầu tiên.
Thông thường trước khi cho con vào học lớp 1, cha mẹ thường lo lắng tìm
cách cho trẻ học chữ mà quên mất việc giáo dục trẻ có thêm kỹ năng tự phục vụ
cho chính bản thân. Khác với trường mầm non, khi vào học lớp 1 trẻ khơng cịn
sự chăm sóc chu đáo từng bữa ăn giấc ngủ của các cô bảo mẫu mà mọi việc đều
phải tự lo. Nếu có được tâm lý sẵn sàng thì trẻ dễ dàng nhanh chóng hịa nhập
với cuộc sống hơn và ln biết làm chủ bản thân mình. Chính vì thế hơn ai hết
các bậc phụ huynh cần có ý thức và hiểu biết trong vấn đề này. Không chỉ biết
cách tự phục vụ, chúng ta phải dạy cho trẻ biết cách phục vụ người khác mà
trước hết là ông bà cha mẹ trong nhà. Trước khi đến trường phải biết lấy nón
mũ, đi giày dép, mang ba lô; đến bữa ăn phải biết lấy bát đũa, lấy nước lấy tăm
mời người lớn. Những việc làm này còn giúp trẻ có thêm niềm vui, mở rộng tình
nhân ái nhanh chóng đẩy lùi tính ích kỷ và nhỏ nhen khi nào cũng chỉ biết chăm
lo cho cá nhân mình mà thôi.
* Nội dung hoạt động phát triển kĩ năng tự phục vụ
13
Đối với trẻ mẫu giáo lớn, trẻ đã có khả năng làm những công việc tự phục
vụ như:
- Kê bàn ghế
- Mặc, cởi quần áo
- Tự buộc, cởi dây giày
- Cất đồ dùng cá nhân: ba lô, giày, mũ,.. đúng nơi quy định
- Lấy và cất đồ dùng đồ chơi đúng vị trí
- Phơi khăn, úp cốc.
- Tự rửa tay, rửa mặt, chải răng hàng ngày
- Chải đầu, buộc tóc
- Gấp chăn
- Tự xúc ăn và dọn dẹp bàn ăn
- Biết đi vệ sinh đúng nơi quy định và sử dụng một số dụng cụ vệ sinh.
7.1.1.6.3. Hình thành sự tự tin
* Thế nào là tự tin?
- Tự tin là một đức tính chỉ có thế có được nhờ vào việc rèn luyện và học
hỏi. Sự tự tin lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy
mình có giá trị.
- Tự tin là mạnh dạn, khơng sợ nói trước đơng người.
- Tự tin là dám làm điều mình nghĩ.
- Tự tin là bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà khơng e ngại.
* Làm thế nào để phát triển sự tự tin ở trẻ?
- Tơn trọng trẻ, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình
+ Bất kì ai cũng có lịng tự tôn và nhu cầu được người khác tôn trọng. Sự
tự tôn, được người khác tô trọng là động lực tâm lý đầu tiên sinh ra sự tự tôn,
một trẻ khơng có sự tự tơn thì khơng thể có sự tự tin.
+ Tôn trọng trẻ không phân biệt thời gian, địa điểm, có ưu điểm hay
khuyết điểm. Nên cổ vũ thích đáng khả năng của trẻ ở mọi lúc mọi nơi nhằm
nâng cao sự tự tin của trẻ.
+ Giáo viên khơng vì sự tơn nghiêm của mình mà làm tổn thương lịng tự
trọng của trẻ, khơng nên chỉ trích, khơng nên tán dương dễ làm trẻ sinh kiêu
ngạo….
- Nói cho trẻ biết “con thể làm được”
14
Luôn dùng lời động viên trẻ một cách chân thành, khơng nên q lời
khen, nghĩ một đằng nói một nẻo. Động viên trẻ và nói cho trẻ biết “con có thể
làm được”.
- Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ
+ Tài năng đặc biệt có thể làm tăng thêm sự tự tin của trẻ. Giáo viên có
thể căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi đắp những sở trường đặc
biệt của trẻ thông qua việc phát huy sở trường tạo dựng niềm tin.
+ Động viên trẻ tham gia các hoạt động
- Củng cố sự tự tin mọi lúc, mọi nơi.
- Cho phép trẻ mắc sai lầm.
+ Giáo viên nên lưu tâm đến những sai lầm của trẻ, sự thực phạm sai lầm
với một đứa trẻ là không thể tránh khỏi. Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm thì
sẽ khơng thể trưởng thành.
+ Khi trẻ mắc sai lầm không nên quát mắng, dọa nạt trẻ, nên nhìn trẻ với
ánh mắt thân thiện và cởi mở. Giải thích cho trẻ hiểu hành động của trẻ là chưa
đúng.
+ Tránh phê bình, sửa sai quá thẳng thắn.
- Phát hiện những ưu điểm của trẻ: Động viên và hướng dẫn trẻ thực hiện
những điều mà trẻ không tự tin.
7.1.1.6.4. Kĩ năng quan hệ xã hội
* Kĩ năng quan hệ là gì?
+ Kĩ năng quan hệ của một cá nhân là cách tạo quan hệ và tương tác cũng
như cảm giác thoải mái mà người đó có khi đồng hành cùng một người hoặc một
nhóm người khác. Phát triển kĩ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ.
+ Trẻ ứng xử theo cách trẻ chấp nhận được trong những tình huống khác
nhau. Trẻ biết điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với hồn cảnh.
+ Để thực hiện tốt kĩ năng quan hệ xã hội trẻ cần có kỹ năng giao tiếp và
kỹ năng lắng nghe
* Nội dung phát triển các kĩ năng quan hệ xã hội.
- Trẻ học cách giao tiếp ứng xử với mọi người.
- Trẻ học cách kiểm soát những cảm xúc riêng của mình
+ Tất cả mọi người đều có cảm xúc và cảm xúc của trẻ cũng quan trọng
như cảm xúc của người khác.
15
+ Có những cảm xúc tích cực: Vui sướng, thân thiện, yêu thương, thoải
mái, ...
+ Có những cảm xúc tiêu cực : tức giận, sợ hãi, ghen ghét,...
+ Những cảm xúc của con người là hết sức bình thường
+ Bày tỏ cảm xúc của mình cho người khác: cha mẹ, cô giáo, bạn bè,... là
rất quan trọng.
+ Cần phải học cách thể hiện những cảm xúc tiêu cực một cách phù hợp.
Biết kiềm chế cảm xúc tiêu cự khi được người khác động viên, an ủi.
- Trẻ đối mặt với những kinh nghiệm giải quyết vấn đề : Khi trẻ có cơ hội
giải quyết vấn đề, chúng sẽ học được cái gì là đúng, cái gì là sai. Cũng như vậy
nếu người lớn hỗ trợ cho trẻ thì trẻ sẽ học được cách đưa ra quyết định khi gặp
khó khăn.
- Trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác :
+ Trẻ tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ học được niềm tin
mà xã hội coi trọng cũng như các quy tắc ứng xử trong xã hội.
+ Trẻ học cách hình thành, duy trì mối quan hệ và biết quan tâm đến
người khác.
+ Trẻ học cách hợp tác và thỏa thuận với nhau.
+ Trẻ có thể học và thực hành các kĩ năng phát triển mối quan hệ thơng
qua các trị chơi. Một số kĩ năng tương tác đó là :
Đề nghị được gia nhập một nhóm chơi.
Biểu lộ mình muốn, cảm xúc một cách thích hợp
Suy nghĩ và hành động một cách có ý thức trong những tình huống
khác nhau.
Linh hoạt và biết hợp tác với các bạn khác trong tình huống chơi.
Thân thiện và nhận ra tầm quan trọng của sự chia sẻ, giúp đỡ và
hợp tác với mọi người.
7.1.1.6.5. Kĩ năng hợp tác, chia sẻ
* Hợp tác, chia sẻ là gì ?
Là kỹ năng quan trọng giúp con người biết cách hàn gắn các mối quan hệ,
thể hiện tinh thần cộng đồng, giúp nâng cao tinh thần đồng đội và khả năng chia
sẽ thông tin với người khác
Hợp tác là mọi người giúp nhau làm một việc gì đó ;
Hợp tác là cùng nhau làm một việc vì một mục đích chung ;
Hợp tác là cùng nhau làm việc bằng sự kiên nhẫn và lịng thích thú.
* Tầm quan trọng của hợp tác và chia sẻ
16
Hợp tác là quan trọng vì có những việc mỗi cá nhân không thể tự làm
được, nếu được người khác giúp đỡ thì ta sẽ hồn thành được cơng việc một
cách nhẹ nhàng hơn. Khi chúng ta kết hợp năng lực làm việc của mình với người
khác theo cùng một mục đích chung, đó chính là sự hợp tác. Nhờ đó ta mới có
thể hồn thành nhiệm vụ của mình nhanh chóng và dễ dàng hơn là tự mình làm
lấy. Qua đó, ta có niềm vui, có bạn bè bên cạnh chia sẻ công việc.
* Nôi dung phát triển kỹ năng hợp tác, chia sẻ:
- Thúc đẩy sự phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ bằng cách giúp trẻ học
cách hòa nhập với những trẻ khác.
- Tạo các cơ hội cho trẻ chơi và làm việc với những trẻ khác.
- Giúp trẻ học cách tham gia vào một trò chơi.
- Tạo những sự cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền lợi của trẻ khác
qua việc chia sẻ.
+ Chỉ cho trẻ thấy khi nào là chia sẻ.
+ Hướng dẫn trẻ cách cư xử lịch sự với các bạn trong lớp
+ Cho trẻ cơ hội để được tham gia cùng nhau trong một nhóm.
Ý nghĩa: Khi mỗi người ln ln chú ý đến kỹ năng hợp tác và chia sẻ
trong khi sống và làm việc cùng với người khác thì tính khả thi của vấn đề được
giải quyết một cách nhanh nhất. Mỗi người sẽ học được nhiều điều từ người
khác. Đó cũng chính là xu thế trong thời buổi của “nền kinh tế tri thức” và sự
phát triển ngày cao của xã hội.
7.1.2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
a) Thuận lợi
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Sở, Phòng giáo dục, ban giám hiệu
nhà trường tạo điều kiện bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.
Bản thân là giáo viên có trình độ chun mơn trên chuẩn, nhiệt tình, u
nghề, mến trẻ. Tích cực học tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ.
Các đồng chí giáo viên trong nhà trường ln có tinh thần đoàn kết, giúp
đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Trẻ cùng một độ tuổi.
Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
b) Khó khăn
17
Sĩ số trẻ trên lớp đơng nên cịn ảnh hưởng tới các hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ, giáo viên ít có thời gian để thiết kế các hoạt động mới cũng như
thời gian để trò chuyện với trẻ.
Một số trẻ còn nhút nhát ngại giao tiếp.
Một số trẻ chưa qua lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, nhận thức của trẻ khơng đồng đều.
Đồ dùng trực quan cịn ít, chưa đa dạng, phong phú, thẩm mỹ chưa đẹp,
giá trị sử dụng chưa cao.
Nhận thức của phụ huynh không đồng đều, một số phụ huynh chưa quan
tâm đến việc học tập của con em mình. Bên cạnh đó cịn có những phụ huynh
cịn nng chiều con, dạy con khơng đúng cách.
c)Thực trạng
* Về giáo viên
Một số giáo viên trong nhà trường nhận thức chưa đúng đắn về việc giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ.
Chưa linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ.
Chưa biết tích hợp các nội dung giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt
động. Tổ chức các hoạt động còn cứng nhắc, máy móc và chưa tổ chức cho trẻ
rèn luyện thường xuyên.
Kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục còn hạn chế.
Giáo viên còn ngại trong việc thiết kế và sưu tầm các trò chơi mới lạ cho
trẻ, đa số là sử dụng những trị chơi cũ, khơng mang lại hứng thú cho trẻ, do đó
trẻ khơng tích cực và hứng thú tham gia hoạt động.
Trình độ chun mơn, kĩ năng tuyên truyền của giáo viên không đồng đều
làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác truyền thông. Nội dung công tác phối
hợp cịn sơ sài, đơi khi thiếu tính thực tế và không phù hợp và chưa được cập
nhật thông tin kịp thời dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được sự quan
tâm của các bậc phụ huynh.
Khối lượng công việc lớn, nên thời gian dành cho công tác phối hợp với
cha mẹ trẻ, cộng đồng còn chưa được nhiều.
* Về phụ huynh
18
Nhận thức của các bậc phụ huynh chưa đồng đều. Một số cha mẹ trẻ ln
nóng vội trong việc dạy con, do đó khi trẻ đi học về mà chưa biết đọc, biết viết
biết làm toán là cảm thấy lo lắng một cách thái q. Bên cạnh đó thì một số phụ
huynh lại nuông chiều, bao bọc con quá khiến trẻ trở nên thụ động và ít có khả
năng tự phục vụ theo lứa tuổi.
Một số phụ huynh chưa phối hợp tốt với giáo viên trong cơng tác chăm
sóc, giáo dục trẻ.
* Về trẻ:
Trẻ chưa có những kĩ năng cơ bản: kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng hợp tác, chia sẻ, …
Trẻ chưa tích cực trong các hoạt động, một số trẻ còn nhút nhát, ngại giao
tiếp với giáo viên và người lạ.
Trẻ chưa biết chia sẻ, giao lưu hợp tác với bạn, thể hiện: khi chơi chưa
biết ngường nhịn bạn, còn tranh giành đồ chơi của nhau, chơi riêng lẻ, ít phối
hợp với bạn chơi và ít liên kết góc chơi.
Chưa chủ động trong mọi hoạt động, thực hiện hành động hay hoạt động
dưới sự chỉ dẫn của người lớn. Ví dụ khi đến lớp phải đợi cơ nhắc chào ơng/bà,
bố/mẹ thì trẻ mới thực hiện.
BIỂU 1: KẾT QỦA KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU NĂM
TT
Nội dung
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
SL
%
SL
%
1
Kỹ năng tự nhận thức bản thân
8/34
23
26/34
77
2
Kỹ năng tự phục vụ
15/34
44
19/34
56
3
Hình thành sự tự tin
12/34
35
22/34
65
4
Kỹ năng quan hệ xã hội
9/34
26
25/34
74
5
Kĩ năng hợp tác chia sẻ
8/34
23
26/34
77
Qua khảo sát ban đầu tơi thấy:
Bước đầu trẻ đã có những khả năng tự phục vụ, biết giao lưu chia, sẻ cảm
xúc với những người xung quanh. Tuy nhiên số lượng trẻ đạt ở các nội dung còn
thấp và những thao thác, hành động của trẻ vần chưa hình thành kỹ năng.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
19
Trước thực trạng trên, với trách nhiệm là một nhà giáo tơi nhận thấy cần
phải có biện pháp để nâng cao chất lượng trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ. Qua nghiên cứu tơi thấy có rất nhiều biện pháp để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp mà bản thân đã áp dụng có hiệu
quả:
7.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng mơi trường học tập an tồn, lành mạnh
và đầy hứng khởi.
Môi trường (môi trường vật chất, môi trường tinh thần) học tập rất quan
trọng đối với sự phát triển tồn diện của trẻ. Ở một mơi trường trẻ cảm thấy thực
sự an tồn và thoải mái thì trẻ mới tự do khám phá và thể hiện mình.
Cách tiến hành:
- Môi trường tinh thần: Giáo viên luôn giữ bầu khơng khí vui vẻ thoải
mái, khơng qt mắng, dọa nạt trẻ ln tạo cho trẻ cảm giác an tồn và được u
thương.
- Mơi trường vật chất:
+ Trang trí lớp học đẹp mắt phù hợp với chủ đề giáo dục.
+ Sắp xếp các góc chơi hợp lí, nên thay đổi góc chơi để thu hút sự chú ý
của trẻ.
+ Bổ sung đồ chơi thường xuyên và theo chủ đề giáo dục.
Yêu cầu sư phạm
- Đồ chơi phải đảm bảo thẩm mĩ, an tồn với trẻ và có tính giáo dục.
- Tránh lạm dụng tranh ảnh, tranh phải treo vừa tầm mắt của trẻ không
treo quá cao hay quá thấp.
- Sắp xếp đồ chơi hợp lí khơng q cao đối với trẻ.
- Sắp xếp các góc chơi tạo khơng gian mở cho trẻ hoạt động.
( Ảnh trang trí nhóm lớp theo chủ đề )
7.1.2. Biện pháp: Làm gương, làm mẫu
20
Trẻ mầm non thường học theo kiểu bắt chước nên những cử chỉ, hành
động, lời nói của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới trẻ.
Cách tiến hành:
+ Giáo viên luôn kiềm chế cảm xúc tiêu cực của bản thân, luôn chú ý đến
cử chỉ, hành động của bản thân. Trẻ lứa tuổi mầm non thường học theo kiểu bắt
chước nên từ những hành động, cử chỉ, lời nói của giáo viên phải chuẩn mực để
trẻ học theo. Trẻ cũng học cách giao tiếp ứng xử, giải quyết tình huống từ giáo
viên.
+ Giáo viên phải nhất quán từ lời nói đến hành động, tránh nói một đằng
làm một nẻo làm cho trẻ mất niềm tin, hay không biết phải làm theo cách nào.
Yêu cầu sư phạm:
- Ngôn ngữ của giáo viên phải dễ hiểu, gần gũi với trẻ đảm bảo tính sư
phạm, tránh nói thơ thiển.
- Hành động, cử chỉ của giáo viên phải phù hợp với nhiệm vụ và yêu vầu
giáo dục, gần gũi với trẻ.
- Đảm bảo sự công bằng với mọi trẻ trong lớp.
( Ảnh thực hiện theo các hành động cử chỉ của cô)
7.1.3. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi
“Vui chơi là hoạt động chủ đạo” của trẻ mẫu giáo. Thơng qua trị chơi trẻ
có cơ hội thể hiện thái độ, hành vi của mình. Đồng thời trẻ cịn được rèn luyện
cách ứng xử, giao tiếp, hình thành kỹ năng nhận xét đánh giá hành vi, nâng cao
năng lực quan sát, tư duy. Dạy học thơng qua trị chơi sẽ giúp trẻ hứng thú hơn.
Cách tiến hành:
- Ổn định: Để tập trung sự chú ý của trẻ giáo viên cần tạo sự tập trung, ổn
định bằng hai yếu tố: tiếng động và hình dáng.
21
+Tiếng động: Giáo viên sử dụng ngơn ngữ của mình và của trẻ làm cho
khơng khí được vui vẻ, thu hút được trẻ vào các hoạt động.
+ Hình dáng: Giáo viên tạo dáng điệu, cử chỉ ngộ nghĩnh, hài hước thu
hút sự chú ý của trẻ. Có thể nhập vai một số nhận vật thiếu nhi mà trẻ yêu thích
hoặc tạo dáng những con vật đồ vật đáng yêu, gần gũi với trẻ.
- Giới thiệu trị chơi: Có thể lồng trị chơi vào các câu chuyện cổ tích,
chuyện vui để tạo sự háo hức, hứng thú. Tuy nhiên cần ngắn gọn và hấp dẫn.
- Hướng dẫn cách chơi, luật chơi: Tuỳ theo mỗi trò chơi mà giáo viên
linh động hướng dẫn. Có những trị chơi phức tạp cần hướng dẫn đầy đủ trước
rồi mới chơi, nhưng cũng có những trị chơi đơn giản thì có thể chơi ngay, vừa
chơi thử vừa giải thích, làm sao cho dễ hiểu, dễ nắm bắt như vậy mới thu hút trẻ.
- Chơi thử:
+ Nếu thử nhiều: khi chơi thật sẽ nhàm chán.
+ Nếu không chơi thử hoặc chơi thử q ít thì trẻ chưa nắm được cách
chơi sẽ gây khó khăn cho giáo viên khi hướng dẫn chơi.
- Tổ chức cho trẻ chơi thật.
- Phân tích và rút ra bài học.
Yêu cầu sư phạm:
- Khi chơi giáo viên nên cùng chơi với trẻ để tránh khoảng cách và động
viên khích lệ người chơi cần trọng tài.
- Khi chơi giáo viên phải quan sát người chơi (vòng tròn) nhất là khi chơi
với trẻ em để biết được thái độ, cử chỉ, phong cách … từ đó giáo dục điều chỉnh
phong cách của mình.
- Trong q trình chơi, giáo viên có thể chuyển hướng khác với dự kiến
ban đầu, khéo léo linh động dẫn đắt. Đừng q ngun tắc, cứng nhắc làm mất
khơng khí vui tươi.
- Giáo viên phải cơng bằng xử lý tình huống một cách khách quan, không
thiên vị, không quá dễ dãi.
- Tác phong giáo viên phải chuẩn mực, ngôn ngữ phải sư phạm khơng thơ
thiển, phong cách vui tươi, dí dỏm, duyên dáng.
22
- Ngừng đúng lúc: Cần phải biết lúc nào ngừng trò chơi (do kinh nghiệm
quan sát, kinh nghiệm chơi). Đảm bảo sức khỏe cho trẻ, tạo sự luyến tiếc cho lần
chơi sau. Đừng để trẻ nhàm chán, than mệt và chán nản không muốn chơi.
- Trước khi tổ chức thực hiện các trị chơi, giáo viên cần nắm được tình
hình của trẻ (những ai đau yếu, mệt mỏi, thiếu vắng …) nơi chơi (có gì thay đổi
đột xuất), dụng cụ chơi và dự kiến những tình huống có thể xảy ra trong q
trình chơi.
( Trị chơi dân gian trẻ thích )
7.1.4. Biện pháp 4: Khen ngợi, động viên trẻ kịp thời.
Ai cũng thích được khen đặc biệt là trẻ em. Khen ngợi, động viên kịp thời
sẽ khiến các em có thêm động lực để thực hiện công việc và tạo được niềm tin
vào khả năng của bản thân.
Cách tiến hành:
- Khi trẻ hoàn thành nhiệm vụ cần khen ngợi động viên trẻ
- Xem xét khả năng cố gắng của mỗi cá nhân, có những trẻ chưa hồn
thành nhưng có cố gắng cũng cần khen ngợi và động viên trẻ.
- Nên khen theo hình thức: tập thể, cá nhân.
Yêu cầu sư phạm:
- Khen đúng chừng mực, không khen một cách thái quá hay tán dương.
- Khen đúng thời điểm.
23
- Không nên chỉ khen một vài trẻ tốt, xuất sắc mà nên quan sát để trẻ nào
cũng được khen ở lĩnh vực nào đó.
- Khơng nên phê bình, chê bai trẻ một cách quá thẳng thắn.
( Ảnh trẻ đạt giải bé thơng minh nhanh trí)
7.1.5. Biện pháp 5: Thiết kế và phát huy năng lực điều khiển hoạt động
nhóm.
Biện pháp này nhằm giúp mọi trẻ tham gia một cách chủ động. Tạo cơ hội
cho trẻ có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề.
Nhờ việc thảo luận trong nhóm nhỏ mà sự hiểu biết của trẻ trở nên sâu sắc và
bền vững hơn. Trẻ sẽ nhớ nhanh và lâu hơn do được giao lưu với những thành
viên trong nhóm. Khơng khí thảo luận trong nhóm khiến trẻ thoải mái, tự tin và
học được cách lắng nghe hoặc trình bày ý kiến của bản thân một cách tốt hơn.
Cách tiến hành:
- Giáo viên nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo
luận cho nhóm, quy định thời gian thảo luận, phân cơng vị trí của mỗi nhóm để
tiến hành thảo luận.
- Các nhóm tiến hành thảo luận.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của các nhóm. Các
nhóm lắng nghe, chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- Giáo viên tổng kết các ý kiến.
24
Yêu cầu sư phạm
- Có thể vận dụng nhiều cách khác nhau để chia nhóm như: điểm danh,
theo giới tính, theo màu sắc, theo biểu tượng…
- Số lượng trẻ ở mỗi nhóm tuỳ thuộc vào vấn đề thảo luận. Tuy nhiên,
khơng nên q đơng hoặc q ít.
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận và kết quả thảo luận cho các nhóm.
- Cần bầu ra trưởng nhóm.
- Kết quả thảo luận nhóm có thể được trình bày bằng nhiều hình thức như:
vẽ, hát, đóng kịch, thơ…
- Giáo viên cần quan sát các nhóm thảo luận và có sự giúp đỡ kịp thời
trong trường hợp các nhóm gặp khó khăn.
( Ảnh thảo luận ở các góc chơi)
7.1.6. Biện pháp 6: Chú trọng và làm tốt công tác tuyên truyền
Làm tốt công tác tuyên truyền mang lại nhiều lợi ích trong cơng tác chăm
sóc, giáo dục trẻ. Giúp phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của ngành học nói
chung và việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nói riêng.
Qua tuyên truyền sẽ thống nhất được nội dung, phương pháp giáo dục trẻ.
Cách tiến hành:
- Xác định nội dung tuyên truyền
- Hình thức tuyên truyền:
+ Xây dựng góc tuyên truyền tại lớp, bản tin của nhà trường.
25