Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp đổi mới dạy văn miêu tả ở lớp 4 có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.8 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1)

Lí do chọn đề tài

Đổi mới việc dạy cũng thế, trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi
phải là một sự sáng tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong vi ệc
đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ch ỉ rõ quy trình các b ước lên
lớp rất cụ thể rõ ràng. Cịn phân mơn Tập làm văn các nhà nghiên c ứu ch ỉ
đưa ra quy trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ y ếu vẫn là s ự sáng t ạo
của giáo viên khi lên lớp. Còn việc học thì sao? Ngồi sách giáo khoa Ti ếng
Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho h ọc sinh, giúp h ọc
sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn.Song nh ững cuốn sách tham kh ảo
của phân môn Tập làm văn thường đưa ra những bài văn m ẫu hoàn ch ỉnh
nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài m ẫu có khi cịn sao
chép y ngun bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ c ủa
các em khơng phong phú mà cịn đi theo lối mịn, khn sáo tẻ nhạt. Từ
những lí do khách quan và chủ quan trên để khắc phục những h ạn chế
trong việc dạy Tập làm văn ở tiểu học góp phần nâng cao chất lượng dạy
học trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp
đổi mới dạy văn miêu tả ở lớp 4 có hiệu quả”.
2) Mục đích của đề tài
Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập tiết T ập
làm văn áp dụng “Một số biện pháp đổi mới dạy văn miêu tả ở lớp
bốn ” người viết có một số đề xuất hướng dẫn học sinh viết văn miêu t ả
một cách tích cực có hiệu quả tiến tới học sinh có khả năng nói và viết văn
miêu tả tốt hơn.
3) Nhiệm vụ của đề tài
Môn Tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh sản sinh ra các
ngôn bản và viết Tập làm văn còn là sản phẩm th ể hiện rõ vốn hi ểu bi ết
đời sống trình độ văn hóa của học sinh.Bài tập làm văn trở thành s ản


phẩm tổng hợp là nơi trình bày kết quả đích thực của việc h ọc Tiếng Vi ệt.
4) Phương pháp nghiên cứu đề tài




Nghiên cứu tài liệu.



Khảo sát thực tế.

-

Dự giờ thăm lớp.

-

Khảo sát tình hình thực tế của học sinh lớp mình ph ụ trách.


So sánh đối chiếu.



Phương pháp thực hành.

5) Phạm vi nghiên cứu đề tài
-


Chương trình phân mơn Tập làm văn lớp 4

-

Phương pháp dạy môn Tập làm văn

6) Đối tượng nghiên cứu
-

Học sinh lớp 41 trường tiểu học An Bình B

NỘI DUNG
A/ Cơ sở lí luận
Mục tiêu giáo dục tiểu học là nâng cao chất lượng tồn diện.Mỗi mơn học
ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung
cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Bản thân hiện là giáo viên tr ực ti ếp
đứng lớp giảng dạy, đón nhận chương trình kĩ năng sống vào môn T ập làm
văn, Đạo đức, Khoa học,… nên bản thân cần phải n ỗ l ực ph ấn đ ấu đ ảm
nhận chức trách của mình đối với học sinh. Qua học phân mơn Tiếng Vi ệt,
học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu cần thiết giúp
các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội. Cùng với mơn Tốn và một số môn khác, những kiến th ức của môn
Tiếng Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đ ưa các em đi phám
phá, tìm hiểu, nghiên cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri th ức vô t ận
của nhân loại. Trong đó phân mơn Tập làm văn là phân môn th ực hành,
tổng hợp tất cả phân môn của mơn Tiếng Việt (T ập đọc, Chính t ả, Luy ện
từ và câu ). Chính vì thế việc dạy và học T ập làm văn là v ấn đ ề ln c ần có


sự đổi mới. Không thể cứ áp dụng phương pháp học hôm qua đ ể áp dụng

cho hôm nay và mai sau.
B/ Thực trạng
1) Đặc điểm tình hình
1.1 Thuận lợi
Năm học 2011-2012 tôi chủ nhiệm lớp 4.1 với tổng số học sinh là 39
em, trong đó nữ là 15 em nam là 24 em.
Bản thân đứng lớp lâu năm nên cũng có kinh nghiệm trong cơng tác
giảng dạy và giáo dục. Được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, sát sao của ban
giám hiệu nhà trường , thường xuyên trao đổi với thầy cô và các bạn đ ổng
nghiệp về những kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, học hỏi qua
những tiết dự giờ,thao giảng,sinh hoạt ngoại khóa …rút ra nhiều điều b ổ
ích.
Cập nhật thơng tin nhanh chóng , kịp thời trên các phương tiện
truyền thông đại chúng như sách báo, truy ền hình, internet … Giúp b ản
thân tiếp cận thơng tin và có hướng đổi mới phù h ợp v ới công vi ệc gi ảng
dạy của mình.
Trường học mới, khang trang đầy đủ các tiện nghi tạo điều kiện t ốt
cho việc giảng dạy và học tập.
1.2 Khó khăn
Trường thuộc địa bàn khu cơng nghiệp, học sinh chủ y ếu là con em
lao động nhập cư kinh tế khó khăn, khơng có nhiều th ời gian quan tâm
đến việc học tập và vui chơi giải trí của con em mình.
Phụ huynh chủ yếu là lao động phổ thơng, trình độ học cịn h ạn ch ế
nên chưa có điều kiện kèm cặp thêm các em. Mặt bằng dân trí nhìn chung
cịn thấp so với các khu vực trong thị xã Dĩ An cũng gây khơng ít khó
khăn, cản trở trong việc giáo dục các em.


Ở các lớp dưới, các em chỉ mới làm quen chứ chưa đi sâu tìm hiểu về
thề loại văn miêu tả nên các em cũng cịn bỡ ngỡ, ngơn ngữ nói và viết

chưa được mạch lạc, trơi chảy.
2) Cấu trúc thể loại văn miêu tả
Như chúng ta đã biết bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ s ở nh ững hình
ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận
được thông qua các giác quan trực tiếp của mình. Văn miêu tả là th ể loại
văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá th ể
của người viết.
Kết cấu bài văn miêu tả gồm có 3 phần:
+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình c ảm, quan h ệ c ủa
người miêu tả với đối tượng miêu tả.
+ Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở nh ững
góc nhìn nhất định.
+ Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp
của người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Chương trình Tập làm văn lớp 4 gồm 68 tiết, trong đó văn miêu t ả chi ếm
38 tiết gồm các mảng kiến thức sau:
- Thế nào là miêu tả?
- Quan sát để miêu tả cho sinh động.
- Trình tự miêu tả (đồ vật, con vật, cây cối ).
- Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả ( đồ vật, con vật, cây c ối)
Các kiến thức trên được cụ thể hóa thành hai loại bài.Đó là, loại bài hình
thành kiến thức và loại bài luyện tập th ực hành.
NỘI DUNG
1) Những điểm cần chú ý khi dạy Tập làm văn lớp 4


Tập làm văn là phân mơn có tính tổng h ợp sáng t ạo, th ực hành và th ể
hiện được đậm nét dấu ấn cá nhân. Nội dung chương trình Tập làm văn
lớp 4 khá phong phú. Học sinh được học một số văn cơ bản nh ư: k ể
chuyện, miêu tả, viết thư và một số loại văn bản khác ( trao đổi ý ki ến,

giới thiệu hoạt động, tóm tắt tin tức và điền vào giấy tờ in sẵn ).
Chương trình Tập làm văn lớp 4 dành nhiều thời gian cho 2 lo ại văn k ể
chuyện và miêu tả. Qua hai loại văn này chú trọng d ạy đo ạn văn và d ạy kĩ
về các loại đoạn văn: đoạn mở bài, đoạn kết bài, đoạn tả chi ti ết, b ộ ph ận,
… Đối với học sinh tiểu học , đoạn văn là một khái niệm ngữ pháp còn khá
mới mẻ. Định hướng dạy kĩ đơn vị đoạn văn trước khi dạy học sinh vi ết
bài có ý nghĩa tích cực vừa giảm được việc nói vi ết m ột cách c ảm tính ở
học sinh vừa phù hợp với quá trình tạo lập văn bản bằng con đ ường hình
thành từ ý đến lời. Hơn nữa với việc phân giải các kĩ năng Tập làm văn ra
thành các phần khác nhau và rèn luyện các phần đó ở từng cơng đoạn t ạo
điều kiện cho học sinh luyện tập kĩ và nắm được cơ chế của việc viết bài
văn: cần bắt đầu từ đâu, phát triển các ý và liên kết các ý nh ư th ế nào.
Điều này sẽ hạn chế được việc kể tả sơ sài hoặc không phân bi ệt đ ược khi
nào thì kể, khi nào thì tả trong quá trình tạo lập từng loại văn bản.
2) Tình hình chất lượng học tập môn Tiếng Việt và phân môn Tập
làm văn của học sinh.
Khi được học qua thể loại văn miêu tả, nhìn chung các em đã n ắm đ ược
cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các em cịn viết theo m ột
khối mịn khn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình ảnh, đ ặc biệt
là các em chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật nh ư so sánh, nhân
hóa….
Tóm lại: Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn luyện từ và
câu nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi trên,
kết hợp với việc chưa biết sử dụng các biện pháp ngh ệ thuật, v ốn t ừ lại
nghèo nàn nên bài văn miêu tả của các em cịn khơ khan, lủng củng, nghèo
cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đ ối t ượng
miêu tả.


Kết quả cụ thể kiểm tra môn Tiếng Việt đầu năm của lớp4.1 như

sau:

Lớp

4.1

Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB

Điểm dưới
TB

SL

TL%

SL

7

17,9% 10

Số
HS

39

SL

TL%


SL

25,6% 12

TL%

36,7% 10

TL%
25,6%

Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và vi ệc d ạy
học làm văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng tơi thấy cần thiết để có nh ững biện
pháp sáng tạo trong văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao ch ất l ượng d ạy
học ở Tiểu học.
3) Biện pháp thực hiện
3.1- Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để
từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù h ợp khi
lên lớp:
Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là ln muốn khám
phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luy ện cho các
em quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn
diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện t ượng v ề nhiều khía c ạnh,
nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách cảm, cách nghĩ sâu s ắc khi
miêu tả.
Ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái m ới ch ỉ là s ự
bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri th ức đ ể các em ti ếp thu đ ược
phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng t ượng càng
phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận l ợi bấy nhiêu.



Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi h ỏi viết bài ph ải
giàu cảm xúc, tạo nên cái " hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên
phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn h ồn
nhiên, một tấm lịng dễ xúc động và ln hướng tới cái thiện.
3.2- Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản c ủa văn miêu
tả ngay từ tiết đầu tiên của thể loại bài này.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu t ả bất kỳ đ ối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng khơng bao gi ờ
là sự sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc
mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú.
Đó là sự miêu tả thể hiện được cái riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: " Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn
với cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn
cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy khơng có nghĩa là cho phép
người viết "bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì ph ải tả chân thật,
giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối . Mặt khác
giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ s ử d ụng
phải là ngơn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nh ịp đi ệu âm thanh. T ừ
việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đ ường mình
cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ th ận tr ọng h ơn khi
chọn lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, t ừng ý trong bài văn và nh ư
vậy chất lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn.
3.3- Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng t ừ đ ặt câu, s ử
dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết s ức
cần thiết.
Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ
phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù h ợp,
Chính vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn t ừ cho các em khi d ạy t ập
đọc, luyện từ và câu và cả trong khi dạy các môn khác hay trong nh ững

buổi nói chuyện trong các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em l ập s ổ tay văn
học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay các em
ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn có th ể sử d ụng một cách
dễ dàng.


Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu ch ỉ yêu
cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao h ơn là phải đặt câu có s ử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ng ữ g ợi t ả hình
ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
Ví dụ:
* Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo chúng ta cần miêu t ả:
- Chú ta có cái đi thon dài trơng thướt tha duyên dáng làm sao!
Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? H ọc sinh có th ể
nhận xét: bạn đã sử dụng biện pháp nhân hóa để ví đi mèo nh ư cơ gái
làm dun.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đơi tìm câu khác đ ể miêu t ả cái
đuôi của chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu
nhìn và nghe ngóng, cái đi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân
thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Với đoạn văn miêu tả chú gà trống một học sinh đã viết như sau :
Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Chú có thân hình ch ắc
nịch. Bộ lơng màu nâu đỏ óng ánh như có kim tuy ến. Nổi b ật nh ất là cái đ ầu
có cái mào đỏ rực. Đôi mắt sáng long lanh như hai gi ọt nước. Đuôi c ủa chú
là một túm lông gồm các màu đen và xanh pha tr ộn, cao v ống lên r ồi u ốn
cong xuống nom vừa mĩ miều vừa kiêu hãnh. Đơi chân chú cao, to,nom th ật
khoẻ và những móng nhọn là vũ khí tự vệ thật lợi hại.
Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo

nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng nh ững
từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác h ẳn, ta th ấy miêu t ả
như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đ ọc,
người nghe.


3.4- Tập làm văn và phân môn thực hành, tổng h ợp t ất c ả nh ững
phân môn thuộc mơn Tiếng Việt , vì vậy muốn dạy tốt t ập làm văn
cần dạy tốt những mơn cịn lại
Ví dụ: Khi học về câu kể Ai là gì ? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu
câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đ ặt câu
kể Ai là gì ? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một con người, một vật:
Chích bơng là con chim rất đáng u.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lơi cuốn đ ược ng ười đ ọc hay khơng
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngồi của nó, đó chính là
chữ viết. Vì vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng
viết cho học sinh trong các giờ chính tả. Chính tả giúp h ọc sinh vi ết đúng,
viết nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
- Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng
viết cho học sinh thì phân mơn kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói
khác là kỹ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của h ọc sinh. K ể chuy ện
vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán
cái xấu, vừa giúp học sinh học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong m ỗi
câu chuyện.
Tóm lại các phân mơn của Tiếng Việt tuy mỗi phân mơn có n ội dung riêng,
phương pháp riêng nhưng chúng khơng hồn tồn đ ộc l ập v ới nhau mà
luôn bổ sung cho nhau, kiến thức của phân môn này h ỗ trợ cho vi ệc h ọc
những phân môn khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn th ực hành

tổng hợp của những phân môn khác, muốn học tốt Tập làm văn h ọc sinh
cần học tốt các phân mơn cịn lại.
3.5- Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, nh ững ph ần này th ường
thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về


vấn đề mà người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luy ện cho h ọc sinh xây
dựng một đoạn văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
- Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là m ở bài
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Khơng nhất thiết phải gị bó học sinh làm m ở
bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài h ợp lý nh ất
và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có th ể xu ất phát t ừ
một vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng nh ững câu th ơ, nh ững
câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đ ề,
không rườm ra. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đôi ho ặc cá
nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nh ận xét. Ch ẳng
hạn với bài tả cái cặp một học sinh mở bài: “Ai là học sinh mà chẳng có cặp
sách! Thế mà suốt mấy năm nay em chỉ có một chiếc túi vải đơn s ơ mang
tới trường”
- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào? ( tr ực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách m ở bài khác sinh đ ộng
hơn:"Chủ nhật vừa qua mưa nặng hạt, em không đi qua thăm bà ngoại
được, ba bảo em giúp ba sắp xếp lại cái tủ ở trong buồng.Giữa đống đồ đạc
cũ ba dỡ từ trên nóc tủ xuống, chợt em gặp lại chiếc cặp nhỏ đã theo em đi
học suốt hai năm lớp một, lớp hai."
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh m ở bài nh ư
sau:
"Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng trăm năm tu ổi. C ả
làng gọi đó là cây đa ơng Chắt , vì ông Chắt là người trồng ra nó, nh ưng ông

Chắt là ai, sống và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả."
Học sinh khác lại viết: "Từ bến đị phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải
qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây s ố, em đã
nhìn thấy làng quê yêu dấu. Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu tr ời.
Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang gi ơ tay v ẫy
chào, đón đợi."
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay đ ể
mở bài một cách hợp lý nhất.


- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nh ưng
lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm
của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy h ọc sinh th ường
hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu
tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không m ở r ộng, k ết bài
như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc.Vì v ậy địi h ỏi
người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm ph ần k ết bài có m ở
rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thơng qua nh ững câu h ỏi
mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và ch ắt lọc đ ể có đ ược nh ững k ết
bài hay.
ê"Cây gạo có thể sống đến nghìn năm . Nó là nhân chứng thầm lặng c ủa
dịng đời .Cơ giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bên đị, hoặc đi xa về,
ngắm nhìn ba cây gạo, em thấy lịng bồn chồn xơn xao. Cây gạo là hồn q,
là tình q vơi đầy."
Văn chương khơng phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi ch ưa đủ ph ải
thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm khơng ph ải th ứ gị ép
bắt buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm
hồn các em. Bài văn khơng thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm
xúc khơng chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà cịn thể hiện ở t ừng câu, t ừng
đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc l ộ c ảm

xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của m ỗi
loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay
trong tiết trả bài nữa.
3.6- Chuẩn bị kỹ phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn :
Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong c ả tiết h ọc nh ưng
lại là lúc giáo viên tóm tắt tồn bộ nội dung kiến thức của bài và m ở ra
hướng kiến thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở ph ần c ủng c ố bài
hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của các em.
- Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nh ận m ọi s ự v ật ở nhi ều khía
cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em
nên ở phần củng cố bài, giáo viên không nên đ ưa ra nh ững bài văn m ẫu
hoàn chỉnh làm các em bắt trước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn
sáo rỗng, na ná như nhau mà nên đưa ra những đoạn văn miêu tả nh ững


tác giả khác nhau. Cùng trong một tiết học, có th ể đưa ra nhiều đo ạn văn
miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó các em sẽ biết ch ắt l ọc, tìm tịi
những chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách diễn đạt h ợp
lý cho bài làm của mình.
Chẳng hạn, trong tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con v ật, ph ần
củng cố bài, giáo viên có thể đọc cho các em nghe một vài đoạn nh ư sau:
"Con Milu sạch sẽ lắm. Mỗi lần mẹ gọi : "Milu đi tắm" là nó vẫy đi ch ạy
theo, ngoan ngỗn như một đứa bé được nng chiều. Thân hình nó khơng
hề có một con bọ, con rận nào cả. Không biết mẹ dạy con Milu từ bao giờ
mà nó biết đi vệ sinh vào một chỗ phía sau nhà. Nó r ất ý t ứ. Mỗi khi có
khách đến chơi nhà nó nằm im trên tấm đệm, đơi tai vểnh lên nghe bố m ẹ
và khách nói chuyện. Khách đứng dậy ra về, con Milu cũng theo b ố m ẹ đi
ra cửa như để tiễn chân khách…
Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay q ngắn vì n ếu dài q
học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo n ội dung. Đ ặc bi ệt

đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc đúng cấu trúc ngữ pháp, l ời văn
giản dị, câu văn giàu hình ảnh và phải mang tính mẫu m ực c ả về n ội dung
và hình thức.
- Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá đ ể h ọc sinh
thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp h ọc sinh nh ận rõ n ội
dung miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.
Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn " Những cánh bướm trên bờ
sơng" : "Ngồi giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi,
những con bướm đủ màu sắc, đủ hình dáng. Con xanh biếc pha đen nh ư
nhung, bay nhanh loang loáng. Con vàng sẫm nhiều hình m ặt nguy ệt, ven
cánh có răng cưa, lượn lờ đờ như trơi trong nắng. Con bướm qu ạ to b ằng
hai bàn tay người lớn, mầu nâu xỉn, có hình đơi mắt trịn, vẻ dữ tợn. B ướm
trắng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng. Loại bướm nhỏ đen kịt, là là theo
chiều gió hệt như tàn than của những đám đốt hương… "
Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh động vơ số lồi
bướm. Hình ảnh những chú bướm hiện lên qua con mắt của mấy cậu h ọc
trò vốn say mê với thiên nhiên. Một từ tha thẩn miêu tả các cậu ra bờ


sông bắt bướm, một từ chao ôi diễn tả cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các
cậu đến bật thành tiếng kêu chứng tỏ sự kinh ngạc và lòng say mê của các
cậu học trò đến tột độ, tạo nền cho bài miêu tả, tạo nền cho hình ảnh
những cánh bướm xuất hiện. Liên tiếp sau đó, mỗi câu văn được tác gi ả
dùng để nói tới một con bướm. Mỗi con bướm lại tả bằng các tính t ừ, các
hình ảnh so sánh gợi tả vẻ đẹp đầy hấp dẫn: Đen như nhung, loang loáng,
vàng sẫm, lượn lờ đờ như trơi trong nắng, líu ríu như hoa nắng…Tác giả đã
khéo chọn những hình ảnh mới mẻ, độc đáo để so sánh làm n ổi b ật dáng
bay của từng loại bướm. Nó làm nên vẻ đẹp hấp dẫn riêng của đo ạn văn
miêu tả này.
Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng nh ư v ậy sẽ giúp

học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách c ụ th ể, sinh động h ơn,
giúp học sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
3.7- Chuẩn bị chu đáo tiết trả bài:
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông th ường hàng ngày đ ến
việc nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất đ ịnh, bắt đ ầu t ừ
việc lập kế hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng
là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cu ối
cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so v ới kết qu ả b ỏ
qua bất cứ khâu nào trong các khâu trên, nhất là các khâu ki ểm tra, đánh
giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết được nh ững ưu, khuy ết đi ểm
trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo.
Dạy tập làm văn cũng khơng nằm ngồi chu trình chung đó. M ỗi lo ại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình
thực hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm th ật c ẩn th ận,
nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho h ọc sinh, t ổ ch ức
rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là th ực hiện khâu cu ối cùng
"kiểm tra, đánh giá "nhằm mục đích giúp học sinh hiểu đ ược nh ững nh ận
xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của c ả l ớp để liên h ệ v ới bài
làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đ ạt, chính
tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ đó học sinh có th ể h ọc h ỏi
những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với m ục đích nh ư v ậy thì ti ết tr ả
bài khơng thể làm qua loa đại khái, càng không th ể b ớt xén th ời l ượng.


Trong tiết trả bài, ngồi việc tiến hành các trình tự nh ư trong sách bài
soạn đã hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động đ ể học
sinh đỡ nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên c ần ch ữa
lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu
văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, giáo viên trả bài và có th ể t ổ
chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi v ới bạn về

cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu ho ặc giúp nhau s ửa l ỗi
trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của
mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn c ủa mình cho
đạt yêu cầu.Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh đ ược
những lỗi khơng đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp
hàng ngày.
3.8 - Chuẩn bị tốt kế hoạch bài học.
Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học sẽ góp phần làm nên 50% s ự thành
công trong dạy học. Trong bất kỳ hoạt động nào việc chu ẩn b ị cũng h ết
sức quan trọng, chuẩn bị cũng chính là kế hoạch cho cơng vi ệc mình đ ịnh
làm, đó là việc làm đầu tiên, tất yếu của mỗi hoạt đ ộng.So ạn bài là vi ệc
làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên, Bài soạn chính là bản k ế ho ạch
của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có ch ất l ượng, có tác d ụng
thiết thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa t ất
cả năng lực, phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế bi ến tài
liệu, năng lực hiểu học sinh, năng lực ngơn ngữ…lịng u ngh ề, niềm tin
sự nhiệt tình và lịng đam mê nghề nghiệp. Giáo án có ch ất l ượng ph ải
chuyển hoá được những kiến thức của sách vở đến với học sinh một cách
nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được thực hiện hoá qua bài gi ảng trên
lớp chứ không thể là giấy vô tri, vô giác chỉ để giám hiệu ký duyệt cho "đủ
thủ tục"
Mỗi giáo viên cần nhận xét sâu sắc tầm quan trọng của việc chu ẩn b ị k ế
hoạch bài học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn
thận trong giáo án, cũng có thể là tự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là
nó phải được thực hiện một cách nghiêm túc và hết s ức t ự giác. Có k ế
hoạch bài giảng chu đáo tức là giáo viên đã chuẩn bị tốt mọi nội dung th ực
hiện trên lớp, từ tiết lý thuyết đến các tiết thực hành xây d ựng đo ạn văn



và tiết trả bài, từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng cố bài học. Nh ư v ậy
giáo viên có thể thực hiện được bảy biện pháp trên một cách dễ dàng và
chất lượng dạy học chắc chắn sẽ được nâng cao.
Qua nghiên cứu thực tế tơi có thể mạnh dạn đưa ra các giai đoạn c ủa việc
soạn giáo án một bài cụ thể như sau:
¡ Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu bài học
¡ Giai đoạn 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học
¡ Giai đoạn 3: Lựa chọn phương pháp dạy học
¡ Giai đoạn 4: Thiết kế các hoạt động dạy học
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài giảng, th ực hiện đ ược
tốt các giai đoạn trên, người giáo viên cần không ngừng h ọc t ập nâng cao
trình độ, tham gia đủ các lớp học chun mơn, các buổi h ội th ảo do nhà
trường và các cấp quản lý triển khai, chịu khó s ưu tầm các loại sách v ở
liên quan đến chuyên môn, tự lập cho mình tủ sách riêng đ ể ti ện tra c ứu
khi cần thiết. Đặc biệt trong thời đại mà khoa học công nghệ thông tin đã
phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết phải là người đi đ ầu trong
việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin hiện đại ấy. Việc
tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn giản, lại khơng t ốn kém đáng
kể về kinh tế, ngồi giờ lên lớp, mỗi ngày ta có th ể dành m ột th ời gi ờ đ ể
lên mạng tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, nh ư v ậy vốn
kiến thức của chúng ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài gi ảng ch ắc ch ắn
sẽ hấp dẫn hơn, nhất là với việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần
thiết.
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc
thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ c ủa t ập th ể,
của bạn bè đồng nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nghiêm túc trao đổi cùng
bạn bè đồng nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt
chun mơn.
Mỗi buổi có thể trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có
thể cả tổ xây dựng mỗi tiết một giáo án mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ

tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh lớp mình mà cụ th ể hoá thành k ế ho ạch


của riêng mình. Như vậy sẽ phát huy được s ức mạnh c ủa tập th ể và m ỗi
chúng ta cũng học hỏi được từ đồng nghiệp rất nhiều.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách tr ở thành vốn tri th ức
phát triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, ng ười d ạy ph ải
gửi cả tâm hồn mình vào bài dạy, thầy trị phải cùng đ ắm mình vào đối
tượng miêu tả theo một dịng cảm xúc, cùng hồ chung tình c ảm đ ể cùng
tìm hiểu về cảm nhận với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy ng ười giáo
viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp. Chu ẩn b ị đ ầy đ ủ v ề
tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng, ph ương ti ện d ạy h ọc, m ục
tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh. Ph ải tìm tịi, nghiên
cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình đ ộ học sinh,
chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm
mẫu cho học sinh. Nó địi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong su ốt q
trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có đ ược nh ững
giờ dạy văn miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu khơng có những sáng tạo
mới trong dạy tập làm văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu t ả ch ỉ
là sự kiệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ g ượng ép, gị bó,
thiếu tâm hồn văn học.
D. HIỆU QUẢ
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn miêu tả ở l ớp
4 thì bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã bi ết viết văn miêu
tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các
biện pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ng ữ…bài
làm sinh động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn cịn một số ít bài viết khô c ứng,
liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng khơng có hiện t ượng sao
chép văn mẫu, khơng có bài làm na ná như nhau. Một điều đáng khen n ữa
là qua bài làm kiểm tra định kì lần I giáo viên ch ấm thi mơn T ập làm văn

đã có lời khen hầu hết các em làm bài rất tốt.Sau đây là bài làm c ủa m ột
học sinh với đề bài “Em hãy tả một đồ dùng học tập của em”: (h ọc sinh đã
chọn tả chiếc cặp sách)
Đã bước vào năm học mới, em khơng có diễm phúc có được chi ếc cặp mới
như các bạn bởi vì em phải dùng lại chiếc cặp của chị em. Nhưng không sao,
dù đã cũ nhưng em vẫn rất thích nó.


Trước kia nó có bộ xiêm y đỏ rực, nhưng theo thời gian nó ch ỉ cịn là màu
hồng nhạt. Cặp có hình chữ nhật, bề dài khoảng hơn hai gang tay, b ề r ộng
gần hai gang tay của em. Trên nắp cặp có quai xách cong cong, nó g ắn ch ặt
với nắp cặp bằng bốn con đinh tán như những con mắt đang mở.M ặt cặp có
hình hai chú nai dạo chơi bên bờ suối nhỏ. Ở dưới là hai chiếc khóa đã rỉ sét
vì năm tháng. Phía sau là hai chiếc quai đeo rất dài, nó có th ể thu ng ắn hay
kéo dài ra cho vừa tầm vóc của em. Khi bóp khóa, em nghe thấy ti ếng tách
tách nho nhỏ nghe rất vui tai. Nhìn bề ngồi nhỏ nhắn của chiếc cặp, ai
cũng nghĩ nó chỉ đựng được vài ba cuốn vở. Nhưng khơng, khi mở ra, nó lại
rất rộng, có ba ngăn to nhỏ khác nhau.Hai ngăn lớn, em đ ựng các “cô c ậu”
sách vở. Ngăn nhỏ em để đựng dụng cụ học tập. Những lúc soạn sách vở em
rất thích sờ vào “làn da” mịn màng của nó. Ơ kia! Sao nó b ị tr ầy x ước th ế
kia? Em hỏi mẹ thì mẹ nói là hồi nhỏ em tinh nghịch r ạch trên m ặt nó
những đường dài, ngắn khác nhau. Khi phát hiện, chị Lan đã khóc s ướt
mướt. Tuy mẹ đã cố gắng khâu vá lại, nhưng trên mặt nó vẫn cịn h ằn l ại
những kỉ niệm khó quên của thời thơ ấu.
Dù chiếc cặp đã cũ, nhưng nó vẫn cùng em sớm tối có nhau.Nó là ng ười b ạn
đồng hành cùng em học từ năm lớp một đến năm lớp bốn.Mỗi khi đi h ọc v ề,
em treo vào cái đinh trên tường.Em sẽ gìn giữ nó đề dùng được lâu hơn.
Bài làm của học sinh Nguyễn Thị Kim Chi lớp 4.1
Hay một bài làm khác của học sinh cũng tả chiếc cặp sách:
Để động viên em đã học tốt các năm học vừa qua. Bố đã mua tặng em m ột

chiếc cặp sách rất đẹp, nhân dịp sinh nhật lần thứ chín c ủa em. Em r ất
thích chiếc cặp sách đó.
Đó là một chiếc cặp màu hồng thắm, chỉ to hơn quyển sổ điểm c ủa cô giáo
một chút. Ở giữa cặp có hai cơ gái trơng rất xinh xắn. Cặp có hai chi ếc khóa
mạ kền giống như hai con mát sáng long lanh. Xung quanh c ặp có khâu các
đường viền màu hồng rất đẹp. Quai cặp làm bằng nhựa cứng không đứt
trông rất chắc chắn, hai dây đeo bằng vải sợi ni lông màu h ồng th ắm t ươi.
Bên trong có hai miếng xốp giúp em đeo cặp khơng bị đau vai. Em có th ể đeo
cặp sau lưng trông như đeo chiếc ba lô. Bên trái cặp có một cái lưới giúp em
để chai nước và em uống nước mỗi khi khát. Mở cặp ra, em thấy cặp có tới
ba ngăn được làm bằng vải ni lơnghoa – hai ngăn r ộng và m ột ngăn h ẹp.


Sách giáo khoa em xếp vào một ngăn, vở viết em xếp vào ngăn bên c ạnh.
Còn ngăn hẹp em để các đồ dùng học tập như bảng đẹp, h ộp đ ựng bút và
thước kẽ.
Đã mấy tháng rồi mà chiếc cặp của em vẫn còn mới. Đi hoc về, em liền treo
cặp vào cái đinh ở góc học tập của em. Em coi cặp như một người b ạn m ới
của em. Vài tuần trơi qua thì em lại lấy cặp ra giặt. Em sẽ giữ gìn chi ếc c ặp
sách của em thật cẩn thận ,để nó ln là người bạn tốt cùng em tới tr ường.
Lê Thị Quỳnh Anh
Học sinh lớp 41
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy tập làm văn,
người giáo viên cần:
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý c ủa h ọc sinh, hi ểu và
nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ
các đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Vì tập làm văn là phân mơn thực hành tổng hợp của tất c ả các phân môn
thuộc mơn Tiếng việt nên muốn dạy tập làm văn có chất l ượng cần thi ết
phải dạy tốt các phân mơn cịn lại.

- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, đ ể khi th ực hiện k ế ho ạch bài
học trên lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có
sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em nh ững đo ạn văn
mẫu…giúp các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và t ừ đó h ọc
tập vận dụng vào bài làm của mình.
- Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều th ời gian đ ể s ửa l ỗi cho
học sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót m ắc ph ải trong bài vi ết
để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.

KẾT LUẬN


Sau khi áp dụng các biện pháp dạy văn miêu tả ở trên thì kết quả học
tập phân mơn Tập làm văn nói và Tiếng việt nói chung, bài làm của các em
đã tiến bộ rõ rệt, cụ thể như sau : Hai học sinh Cao Thị Hoàng Anh và Lê
Thị Quỳnh Anh đã đạt giải nhất và giải nhì giải “Văn hay chữ tốt” do nhà
trường tổ chức vào ngày 15/ 12/2011 và hai giải ba do th ị xã tổ ch ức tháng
1/2012. Bài làm của học sinh lớp 4.1 thể hiện qua kì thi học kì I có th ể so
sánh như sau.
Kết quả kiểm tra đầu năm môn Tiếng Việt l ớp 4.1

Lớp

4.1

Số
HS

39


Điểm 9-10 Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới
TB

SL

TL%

SL

SL

7

17,9% 10

SL

TL%

25,6% 12

TL%

36,7% 10


TL%
25,6%

Đầu năm, số học sinh giỏi đầu năm có 7 học sinh, cuối kì I là 28 h ọc sinh.
Số học sinh trung bình đầu năm là 12 cuối kì I giảm xu ống ch ỉ cịn 1 h ọc
sinh. Số học sinh dưới trung bình đầu năm là 10 học sinh cuối kì I khơng
cịn học sinh nào. Kết quả cụ thể như sau:
Kết quả kiểm tra cuối kì I mơn Tiếng Việt lớp 4.1

Lớp

41

Số học Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm < 5
sinh

39

SL

%

SL

28

71,7% 10

%


SL

25,6% 1

%

SL

%

2,5% 0

Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, th ực hiện đổi
mới chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về ngu ồn nhân
lực trong công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay.Vi ệc nâng


cao chất lượng dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm c ủa chiến
lược phát triển giáo dục từ nay đến 2020. Một trong nh ững y ếu t ố quy ết
định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ giáo viên, đ ể đáp ứng nhu c ầu
đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng học h ỏi, sáng t ạo trong
giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lịng nhiệt tình cho cơng tác
thì mới có được những kết quả như mong muốn.
Khơng phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn ch ương
mà khả năng ấy phải được bồi đáp dần qua năm tháng, qua trang sách và
những bài giảng hàng ngày của thày cơ.Muốn có được kh ả năng ấy của
mỗi học sinh thì chính mỗi giáo viên phải định hướng, gợi m ở cho các em
phương pháp học tập như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con
người chăm sóc, vun xới thì nó sẽ trở nên tươi tốt. Với h ọc sinh l ớp 4, các
em không thể vừa bắt tay vào viết văn đã có được những dịng văn hay mà

văn hay là kết quả của một quá trình rèn luyện liên tục, bền b ỉ, d ẻo dai.
Văn hay không thể có được ở những học trị lơi là đèn sách.V ới tinh th ần
đó, việc rèn kỹ năng làm văn vừa để nhằm mục đích nâng cao năng l ực viết
văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện của học sinh. Đó chính là đ ộng
lực thúc đẩy tơi hồn thành đề tài Sáng kiến kinh nghiệm này.
v Hướng phát triển của đề tài:
Trong những buổi thảo luận chuyên môn của tổ, kh ối tôi sẽ ph ổ bi ến đ ề
tài Sáng kiến kinh nghiệm này để các thành viên trong t ổ h ọc h ỏi và v ận
dụng dần đưa chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao.
Trên đây là một số biện pháp đổi mới dạy văn miêu tả ở l ớp 4. Kính q
thầy cơ, các bạn đồng nghiệp bổ sung thêm ý kiến để đề tài đ ược hoàn
thiện hơn.Xin trân trọng cảm ơn.

An Bình, ngày 5 tháng 2 năm 2012
Người viết


Lê Thị Hường

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
TIỂU HỌC AN BÌNH B

TRƯỜNG


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO THỊ XÃ DĨ AN

PHÒNG



NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BÌNH DƯƠNG

SỞ


MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài.
2) Mục đích của đề tài.
3) Nhiệm vụ của đề tài.
4) Phương pháp nghiên cứu đề tài.
5) Phạm vi nghiên cứu đề tài.
6) Đối tượng nghiên cứu.
NỘI DUNG
A.

Cơ sở lí luận.


B.

Thực trạng của vấn đề.

1) Đặc điểm tình hình.
a) Thuận lợi.
b) Khó khăn.
2) Cấu trúc thể loại văn miêu tả ở lớp 4
C.


Nội dung

1) Những điểm cần chú ý khi dạy Tập làm văn miêu tả ở l ớp 4
2) Tình hình chất lượng học tập mơn Tiếng Việt và phân môn T ập
làm văn của học sinh.
3) Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy h ọc văn miêu
tả lớp 4.
3.1/ Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để
từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù h ợp khi
lên lớp.
3.2/ Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu
tả ngay từ tiết đầu tiên của thể loại này.
3.3/ Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng t ừ đăt câu, s ử
dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật.
3.4/ Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợ


×