Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 23 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Giáo dục hướng nghiệp với bản chất là hệ thống các biện pháp tiến hành
trong và ngoài nhà trường để giúp học sinh phổ thơng có kiến thức về nghề nghiệp
và có khả năng lựa chọn về nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường
của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội, đóng vai trị quan trọng
trong q trình đạt được mục tiêu đó. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh phổ thông là giáo dục thái độ lao động và ý thức đúng đắn với nghề
nghiệp; cho học sinh làm quen với một số nghề phổ biến trong xã hội và các nghề
truyền thống của địa phương; tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của
tường học sinh để khuyến khích, hướng dẫn và bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp
thích hợp nhất; động viên học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần.
Hiện nay, do sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường, hầu hết mọi
nghề trong xã hội đều thay đổi và có nhiều nghề mới xuất hiện, muốn chọn một
nghề khơng cịn đơn giản như trước đây mà cần phải tìm hiểu kỹ những u cầu về
năng lực, tính cách, trình độ học vấn mà nghề đòi hỏi và phải đối chiếu với khả
năng của mình xem có phù hợp hay không, muốn vậy trước khi chọn ta phải định
hướng nghề. Chọn cho mình một nghề cũng có nghĩa là chọn cho mình một tương
lai. Việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn nghề sai lầm
dẫn đến mất thời gian và tốn kém kinh phí.
Cơng tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh nói chung và học sinh trung
học phổ thơng (THPT) nói riêng đang được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan
tâm. Nghị quyết TW8 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục – đào tạo nhấn mạnh
việc: “Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung
học phổ thơng”, “đảm bảo cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có
tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng phân luồng mạnh sau trung học cơ sở, trung học
phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thơng có
chất lượng”.
Điều 3 của Chỉ thị số 33-2003/CT – BGD & ĐT ngày 23/7/2003 cũng đã
chỉ rõ “Nghiêm túc triển khai thực hiện sinh hoạt hướng nghiệp ở các trường


THCS, THPT và trung tâm KTTH, theo tài liệu hướng dẫn của Bộ GD &ĐT, giúp
học sinh, đặc biệt là học sinh cuối cấp hiểu về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao
động và đánh giá năng lực bản thân, hướng dẫn học sinh lựa chọn nghề hoặc lựa

1


chọn trường học, ngành học phù hợp với năng lực cá nhân và yêu cầu của xây
dựng đất nước”.
Thông tư 31/TT ngày 17 tháng 8 năm 1981 của Bộ giáo dục: “Để giúp học
sinh hiểu biết các ngành nghề, các trường trung học sử dụng tạm thời mỗi tháng 1
buổi lao động để giới thiệu, tuyên truyền, giải thích ngành nghề”. Như vậy mỗi
năm học có 9 buổi sinh hoạt giới thiệu nghề được phân phối chương trình trong 9
tháng.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,X khẳng định: “Giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp
hố - hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Coi trọng công
tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu
niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong
cả nước và từng địa phương”
Tiếp tục việc triển khai Chỉ thị số 33/2003/TC-BGD&ĐT về tăng cường
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục
hướng nghiệp nâng cao chất lượng, định hướng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu
nhân lực của từng địa phương, góp phần tích cực vào việc phân luồng học sinh
cuối cấp THCS và THPT.
Nhận rõ tầm quan trọng việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, Thủ
tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng
nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn
2018 - 2025”. Đề án nhằm tạo bước đột phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp
trong giáo dục phổ thơng, góp phần chuyển biến mạnh mẽ cơng tác phân luồng học

sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thơng vào học các trình độ giáo dục
nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa
phương, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc gia, hội
nhập khu vực và quốc tế.
Trong những năm qua, các nhà trường nói chung và Trung tâm giáo dục
thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc (Trung tâm) đã triển khai tổ chức giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh và đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, hiệu quả của
việc giáo dục hướng nghiệp chưa cao, thể hiện ở việc nội dung giáo dục hướng
nghiệp chưa phù hợp, hình thức tổ chức chưa phong phú cịn mang tính hình thức,
cịn việc trường chưa chú trọng việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh…..
Nguyên nhân chủ quan là do nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và
học sinh về giáo dục hướng nghiệp và công tác phân luồng học sinh sau trung học

2


chưa được quán triệt đầy đủ; Mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức giáo
dục hướng nghiệp chưa đổi mới kịp thời theo yêu cầu đổi mới kinh tế - xã hội nói
chung và đổi mới giáo dục - đào tạo nói riêng; Cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên làm cơng tác giáo dục hướng nghiệp cịn
thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng. Nguyên nhân khách quan là hệ
thống giáo dục nghề nghiệp và thị trường lao động chưa phát triển lành mạnh; cơ
chế, chính sách về thực hiện giáo dục hướng nghiệp và công tác phân luồng học
sinh sau trung học còn bất cập, chậm đổi mới; nhận thức về tầm quan trọng của
giáo dục hướng nghiệp và công tác phân luồng học sinh sau trung học của các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể, cộng đồng xã hội và gia đình học sinh chưa được chú ý.
Từ thực tiễn giáo dục hiện nay cũng như thực tế công tác hướng nghiệp tại
các trường THPT nói chung và tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng,
chúng tơi nhận thấy cần thiết phải nâng cao hơn nữa công tác hướng nghiệp bằng
những biện pháp mang tính chất thực tiễn và cụ thể. Chính vì vậy, chúng tôi lựa

chọn nghiên cứu về “Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học
sinh THPT tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc”
2. Tên sáng kiến:
Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại
Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Phương Huyền
- Địa chỉ: Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0913913984 Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc về kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất – kĩ
thuật trong quá trình viết sáng kiến và thử nghiệm giải pháp
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục hướng nghiệp
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử : 10/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1 Nội dung của sáng kiến
Chương 1: Lý luận về hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp
1.1. Hướng nghiệp
1.1.1. Thế nào là hướng nghiệp?
Tại Điều 3- Nghị định 75/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều Luật Giáo dục chỉ rõ: “Hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống

3


các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp HS có kiến thức về
nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng,
sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội”
Như vậy, hướng nghiệp không phải là cung cấp cho các em quyết định lựa
chọn nghề mà là giúp các em có được những hiểu biết cần thiết về bản thân, về thế

giới nghề nghiệp xung quanh, về những yếu tố ảnh hưởng tới bản thân trong việc
chọn nghề để lựa chọn nghề phù hợp và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cá
nhân với nghề, giữa cá nhân với xã hội. Việc tổ chức hướng nghiệp khiến cho sự
lựa chọn nghề một cách có chủ đích nhằm đảm bảo cho các em hạnh phúc trong
lao động nghề nghiệp, lao động đạt hiệu suất cao và cống hiến được nhiều nhất cho
xã hội. Việc hướng nghiệp này không chỉ được thực hiện trong nhà trường bởi các
thầy, cô giáo mà hướng nghiệp được tiến hành ngoài nhà trường với sự tác động,
hỗ trợ của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đặc biệt là cha mẹ học sinh.
1.1.2. Tầm quan trọng của hướng nghiệp
Công tác hướng nghiệp cho thế hệ trẻ có tầm quan trọng đặc biệt khơng chỉ
cho tương lai các em mà cịn tác động đên gia đình và xã hội:
Đối với bản thân: sẽ giúp các em học sinh tự tin đưa ra quyết định lựa chọn
nghề, góp phần cho việc hoàn thiện nhân cách, năng lực học sinh theo định hướng
nghề đã chọn.
Đối với gia đình: Giúp tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của. Tránh những
mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong quá trình chọn nghề của con em.
Đối với xã hội: Giúp phân luồng hợp lý học sinh phổ thông sau khi tốt
nghiệm, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng và phù hợp.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay có một vấn đề nổi cộm dễ nhận thấy, đó là
hầu hết các gia đình có con đi học đều mong muốn con thi vào đại học ngay cả khi
khả năng học tập của các em còn chưa tốt. Rất nhiều em thi vào các ngành nghề
“thời thượng” đang được đánh giá cao trong khi hiểu biết về đầu ra của thị trường
lao động hầu như khơng có, khả năng của bản thân lại khơng phù hợp với ngành
nghề đã chọn. Hậu quả là nhiều em rất khó kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp
đại học, nhiều em phải xin làm những công việc trái ngành trái nghề hoặc khơng
cần phải có trình độ đại học. Việc này dẫn đến tốn thời gian, công sức và tiền của.
Vì vậy, cơng tác hướng nghiệp thực sự quan trọng địi hỏi phải được tổ chức
một cách có hệ thống và sự giúp sức của toàn xã hội.
1.2. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
1.2.1. Giáo dục hướng nghiệp là gì?


4


Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống bao gồm các tác động từ phía chủ
thể quản lý đến khách thể một cách có định hướng, có chủ đích rõ ràng thơng qua
cơng cụ quản lý (các chủ trương, chính sách, cơ chế...), phương tiện quản lý
(CSVC,trang thiết bị...) nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh.
Các thành phần của hoạt động GDHN: GDHN là hoạt động phức tạp bao
gồm nhiều thành phần, chịu tác động của nhiều yếu tố, nằm trong mối quan hệ chặt
chẽ giữa cá nhân người được HN với môi trường sống, môi trường lao động, môi
trường giáo dục, tác động của thị trường lao động cũng như tác động nhiều mặt
của tâm lý xã hội. Theo K.K Platônôv, các thành phần của hoạt động GDHN được
sơ đồ hóa thành tam giác HN thể hiện trên sơ đồ sau

Sơ đồ 1.11. Sơ đồ tam giác hướng nghiệp của K.K PLATÔNÔV
Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã ban hành chương trình giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh THPT, chỉ rõ việc GDHN bao gồm các thành tố sau:
Mục tiêu của GDHN ở THPT, học sinh cần đạt được:
- Về kiến thức: Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề
nghiệp tương lai; Biết được thông tin cơ bản về việc phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ
thống giáo dục nghề nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề), CĐ, ĐH ở địa
phương và cả nước.
- Về kĩ năng: Tự đánh giá được năng lực của bản thân và điều kiện gia đình
trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai; Tìm kiếm những thông tin về nghề

5



và thông tin cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề; Định
hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai.
- Về thái độ: Chủ động và tự tin trong việc chọn nghề phù hợp; Có hứng thú
và khuynh hướng chọn nghề đúng đắn.
* Nội dung GDHN ở THPT được tập trung ở 24 chủ đề và phân theo 3 khối.
1.2.2. Con đường giáo dục hướng nghiệp
Con đường GDHN gồm 5 con đường: thông qua dạy học các môn khoa học
cơ bản; thông qua việc tổ chức hoạt động GDHN chính khóa; thơng qua hoạt động
ngoại khóa; thơng qua hoạt động dạy và học mơn cơng nghệ; thông qua các buổi
sinh hoạt hướng nghiệp. Các con đường này được thực hiện dựa trên thông tư
31/TT ngày 17/8/1981 của Bộ GD&ĐT. Cụ thể là:
GDHN thông qua dạy học các môn khoa học cơ bản nhằm khai thác mối
liên hệ giữa kiến thức môn học với các ngành nghề, gắn nội dung của bài học với
cuộc sống sản xuất bằng cách tích hợp, lồng ghép những kiến thức môn học với
kiến thức nghề nghiệp giúp cho HS hiểu biết những vấn đề liên quan đến các
ngành nghề trong xã hội, phát triển và bồi dưỡng những năng khiếu của HS. Trên
cơ sở đó GV định hướng chọn nghề cho HS phù hợp với năng khiếu đó. Qua các
mơn văn hóa, GV có thể giới thiệu cho HS các nghề cơ bản có liên quan trực tiếp
tới mơn học, những khả năng và thành tựu cũng như sự phát triển của một số
ngành nghề chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và công
nghệ thông tin. Cũng qua các mơn văn hóa, GV có thể giúp HS biết được những
yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của một số ngành nghề trong các lĩnh vực liên
quan tới môn học như lĩnh vực sinh học, vật lý, hóa học, nghệ thuật, cơng nghệ…
Từ đó HS có thêm thông tin, cơ sở để lập kế hoạch chọn nghề tương lai sao cho
vừa phù hợp với khả năng học lực của bản thân vừa phù hợp với nhu cầu lao động
của một số ngành nghề chính trong xã hội. Hình thức hướng nghiệp qua các mơn
văn hóa được thực hiện chủ yếu theo phương thức tích hợp mội dung GDHN vào
môn học.
Thông qua việc tổ chức hoạt động dạy Nghề phổ thơng: Trong đó, nghề phổ

thơng được hiểu là những nghề phổ biến và thông dụng đang cần phát triển ở địa
phương. Nghề phổ thơng có kĩ thuật tương đối đơn giản, q trình dạy nghề khơng
địi hỏi phải có trang thiết bị phức tạp. Nguyên liệu dùng cho dạy nghề dễ kiếm,
phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng đầu tư của địa phương, nhà trường. Thời
gian học nghề ngắn. Mục đích chủ yếu của dạy nghề phổ thông là trang bị cho HS
những kiến thức, kĩ năng lao động cần thiết và tạo cơ hội cho HS củng cố nội dung

6


lí thuyết, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học ở môn Công nghệ vào thực tiễn đời
sống và sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và tin học.
Qua đó, giúp HS làm quen với hoạt động lao động nghề nghiệp, chuẩn bị tích cực
cho HS bước vào cuộc sống lao động và định hướng nghề nghiệp cho các em.
Hoạt động dạy nghề phổ thông được đưa vào các Trung Tâm KTTH – HN
và một số trường phổ thông cấp trung học từ những năm 80 theo phương thức HS
tự nguyện đăng kí học, khơng bắt buộc. Từ khi đổi mới chương trình GD năm
2000, dạy nghề PT được đổi tên thành hoạt động GDHN Phổ thông và được đưa
vào kế hoạch dạy học ở lớp 11 THPT với thời lượng 3 tiết/ tuần (105 tiết/ nghề/
năm học). Trong chương trình dạy nghề phổ thơng có 11 nghề thuộc các lĩnh vực
cơng nghiệp (4 nghề), nông nghiệp (3 nghề), dịch vụ (3 nghề) và tin học (1 nghề).
Mỗi HS được chọn học một nghề theo phương thức bắt buộc.
Chương trình hoạt động GDHN phổ thơng được xây dựng theo quan điểm:
“Chú trọng nguyên tắc kĩ thuật tổng hợp; tăng cường nội dung hướng nghiệp để
HS có điều kiện tìm hiểu nghề, làm quen với một nghề cụ thể và góp phần định
hướng nghề nghiệp; coi trọng thực hành và đa dạng hóa nội dung các nghề để HS
và các trường có điều kiện lựa chọn nghề phù hợp với phương hướng phát triển
kinh tế, điều kiện cơ sở vật chất, giáo viên của địa phương và đáp ứng nguyện
vọng của HS.
Tuy nhiên giáo dục nghề phổ thơng cịn hạn chế nhất định về chất lượng đào

tạo, số lượng ngành nghề cịn ít, thiếu các ngành truyền thống và hiện đại nên
không tạo được động lực cho học sinh lẫn các bậc phụ huynh.
Thông qua hoạt động ngoại khóa nhằm hỗ trợ cho các hoạt động GDHN
khác trong việc giới thiệu, tuyên truyền nghề cho HS. Ngoại khóa là hoạt động
được tổ chức cho HS học tập ngồi giờ học chính khóa. Hoạt động này được tiến
hành theo một kế hoạch nhất định dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV nhằm phát
hiện, bồi dưỡng, phát triển hứng thú, năng khiếu và khả năng sáng tạo của HS
trong một lĩnh vực nào đó như khoa học, kĩ thuật, nghệ thuật hoặc tin học… Qua
tham gia hoạt động ngoại khóa, HS có cơ hội để khám phá khả năng, sở thích, các
tính và giá trị sống của bản thân. Trong các trường THPT, tùy vào điều kiện và khả
năng có thể tổ chức các lớp ngoại khóa về công nghệ ( làm vườn, trồng cây cảnh,
điện tử, vẽ kĩ thuật, cơ khí…), tin học, nghệ thuật, hoạt động xã hội… để cho
những HS có xu hướng và năng khiếu trong từng lĩnh vực trên tham gia hoạt động.
Việc tổ chức cho HS tham quan các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các cơ
sở đào tạo nghề … tạo điều kiện cho HS được tận mắt quan sát cơ chế vận hành

7


trong sản xuất, thao tác của người lao động và các sản phẩm của q trình lao
động. Nhờ đó, HS hiểu rõ hơn đối tượng lao động cũng như yêu cầu lao động của
ngành nghề mà HS mới chỉ biết qua sách vở, đồng thười khơi dậy trong các em
hứng thú đối với nghề nghiệp.
Thông qua hoạt động dạy và học môn công nghệ nhằm cung cấp cho HS
những nguyên lí cơ bản về kĩ thuật, cơng nghệ khoa học, quy trình sản xuất trong
thực tế, làm cho HS hiểu được những ứng dụng của chúng trong hoạt động nghề
nghiệp khác nhau, giúp HS có những kiến thức cơ bản về ngành nghề trong xã hội
Thông qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp HS chia sẻ những hiểu biết của
mình với bạn bè về nghề nghiệp đồng thời biết thêm những kiến thức khác. Mỗi
buổi sinh hoạt là một chủ đề, mỗi chủ đề đều đem lại cho các em những kiến thức

mới, hình thành cho các em ý thức trong việc chọn nghề cho bản thân.
Các con đường GDHN nêu trên vừa có tính độc lập, vừa có mối quan hệ
tương tác, hỗ trợ cho nhau đảm bảo hiệu quả tôi ưu cho GDHN.
Trên đây là 5 con đường GDHN cho học sinh, tuy nhiên các con đường này tổ
chức đều mới giải quyết được cho tập thể, các con đường này chưa giải quyết được
vấn đề cho cá nhân học sinh, em đó có khả năng gì? Ngành nào là phù hợp với học
sinh đó…
1.2.3. Mối quan hệ giữa hoạt động GDHN và phân luồng HS sau THPT
Hai vấn đề GDHN và phân luồng học sinh có những đặc điểm và mục tiêu
riêng biệt, song lại quan hệ với nhau chặt chẽ và tạo điều kiện cho nhau thực hiện
mục tiêu chung của giáo dục và đào tạo là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” với yêu cầu cao về chất lượng và hiệu quả.
Khái niệm phân luồng trong giáo dục được hiểu là các hướng đi, các khả
năng để học sinh các cấp học, bậc học có thể tham gia. Phân luồng giúp cho học
sinh chủ động lựa chọn con đường tiếp tục học tập hoặc đi vào lĩnh vực nghề
nghiệp nào đó phù hợp với hồn cảnh, năng lực, hứng thú của các em và phù hợp
với yêu cầu của sự phát triển KT-XH. Phân luồng học sinh là yêu cầu khách quan,
là xu thế phát triển hệ thống giáo dục của mọi quốc gia. Tùy thuộc trình độ phát
triển giáo dục và các điều kiện thực tế của mỗi nước mà lựa chọn phân luồng từ
các cấp học, bậc học khác nhau. Phân luồng học sinh được hiểu là sau khi tốt
nghiệp mỗi cấp bậc học thuộc hệ thống giáo dục chính quy hoặc khơng chính quy,
học sinh lựa chọn những con đường khác nhau để đi tiếp, bao gồm: tiếp tục học lên
trong hệ thống giáo dục theo Luật Giáo dục năm 2006; hoặc không học tiếp trong

8


hệ thống đó, ra trường tìm kiếm việc làm; hoặc học nghề tại các trung tâm dạy
nghề.
Phân luồng học sinh nhằm phát triển cân đối, hợp lý hệ thống giáo dục phổ

thông, dạy nghề, tạo cơ hội cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ và những người lao
động có điều kiện được học tập nâng cao dân trí, đào tạo về nghề nghiệp để tham
gia có hiệu quả vào thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất
nước. Phân luồng học sinh sau THCS sẽ nâng cao chất lượng giáo dục THPT, đồng
thời tạo điều kiện phát triển các trường TCCN, dạy nghề. Hiện nay, cả nước đang
tiến hành công tác phổ cập giáo dục THCS, số học sinh sau bậc học THCS là rất
lớn, nếu khơng có phân luồng tốt sẽ dẫn đến q tải học sinh vào THPT về số
lượng, kéo theo khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, về đội ngũ giáo viên…
Phân luồng trong hệ thống giáo dục chủ yếu: Phân luồng học sinh sau tốt
nghiệp THCS: Lên THPT; Vào trung cấp chuyên nghiệp; Vào các trường đào tạo
nghề sơ cấp, nghề thường xuyên; Học nghề trung cấp; Học tại các trung tâm
GDTX; Tham gia vào thị trường lao động. Sau khi tốt nghiệp THPT học sinh phân
luồng theo các hướng sau:Đại học, cao đẳng; Trung cấp chuyên nghiệp; Đào tạo
nghề (cao đẳng nghề, trung cấp nghề...); Thị trường lao động.
1.3. Đặc điểm của học sinh THPT
Học sinh THPT bắt đầu từ 15 – 16 tuổi đến 17 – 18 tuổi. Đó là giai đoạn đầu
của tuổi thanh niên hay còn gọi là thời kỳ thanh niên mới lớn. Ở lứa tuổi này các
em đã có sự trưởng thành về tư tưởng, tâm lí, là thời kỳ tự xác định về mặt xã hội,
tích cực tham gia vào cuộc sống lao động, học tập để chuẩn bị cho tương lai. Đây
chính là thời kỳ nhân cách đang trưởng thành tiến tới ổn định.
Về thể chất: Ở các em đã có một cơ thể phát triển gần ngang bằng với cơ thể
trưởng thành, các chức năng sinh lí cũng đạt được độ phát triển cao. Cơ thể đã dần
được hoàn thiện. Thể lực của các em phát triển mạnh giúp cho việc thực hiện các
công việc nặng nhọc, các cơng việc có kỹ thuật tốt hơn. Sự phát triển của não, hệ
thần kinh trung ương và các giác quan giúp các em tiếp thu những kiến thức văn
hóa, khoa học kỹ thuật và thông tin mới của xã hội rất nhanh.
Về tâm lí: Hoạt động nhận thức của học sinh THPT được đặc trưng bởi sự
lĩnh hội và tiếp thu những kiến thức phổ thông để chuẩn bị cho lao động hướng
nghiệp sau này. Trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ phát triển mạnh. Đặc biệt là tư duy
phát triển mạnh, bền vững và hiệu quả hơn thể hiện khả năng tư duy lơgic, tư duy

lí luận và tư duy trừu tượng. Tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển ở mức cao,
có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm lí, đạo đức

9


theo quan điểm sống, ước mơ và hoài bão. Các em quan tâm sâu sắc đến đời sống
tâm lí riêng, đến những phẩm chất nhân cách và năng lực của mình. Các em
thường đặt mình vào tương lai vì vậy các em thường quan tâm đến cuộc sống sau
này, tình yêu, gia đình, và sự lựa chọn bạn đời trong tương lai. Ở học sinh THPT
có một số nét ý chí và tính cách nổi bật đó là: Tính độc lập, nghĩa là luôn muốn thể
hiện lập trường, quan điểm của mình, muốn tự phán đốn các hiện tượng, các tình
huống quyết định hành động của mình; Tính kiên quyết, dám nghĩ dám làm nhưng
đôi khi là sự hung hăng, liều lĩnh bất chấp hậu quả; Có lịng tự trọng cao, rất quan
tâm và nhạy cảm với sự đánh giá của người khác; Tích cực tham gia hoạt động tập
thể và nhờ những hoạt động này mà họ được thử thách lớn lên, phát triển phong
phú thêm nhân cách của mình.
Những đặc điểm tâm lí của học sinh THPT nêu trên chứng tỏ các em là
những người đã đạt tới trình độ có thể tự quyết định mọi cơng việc của mình và
nhất là có thể trực tiếp tham gia lao động. Việc giáo dục hướng nghiệp sẽ giúp các
em có hướng đi đúng đắn cho tương lai.
Chương 2: Biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại
Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
2.1. Thực trạng công tác hướng nghiệp cho học sinh tại Trung tâm GDTX tỉnh
Vĩnh Phúc
Dưới sự chỉ đạo của Sở giáo dục và đào tạo Vĩnh Phúc, theo các văn bản
hướng dẫn, Trung tâm GDTX tỉnh đã xây dựng được kế hoạch chương trình hoạt
động GDHN ngay từ đầu năm học, có quan tâm đến việc chỉ đạo tổ chức thực
hiện, duyệt kế hoạch theo thời gian cho từng khối lớp. Tuy nhiên, có biện pháp xử
lý những trường hợp khơng thực hiện đúng kế hoạch, chương trình hoạt động

GDHN của các nhà quản lý trường học ở một số trường còn mang tính hình thức.
Việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện hoạt động GDHN ở Trung tâm được Ban
giám đốc quan tâm thường xuyên trong việc hướng dẫn quy trình tổ chức hoạt
động GDHN, giao nhiệm vụ trực tiếp cho giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn
và đồn thanh niên nhà trường. Song, việc tổ chức chuyên đề, giao lưu, thảo luận,
trao đổi kinh nghiệm giữa các đơn vị trường học cịn ít. Ngồi ra, việc theo dõi,
kiểm tra đơn đốc hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa thực sự sâu sát, chưa kịp
thời, việc phối hợp giữa các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục hướng nghiệp
đôi lúc chưa thực sự đồng bộ.

10


Khâu kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp tuy đã cụ thể hóa
được quy định các tiêu chuẩn, phương pháp đánh giá một cách thường xuyên và
theo định kỳ, chú trọng đến đánh giá của giáo viên tham gia hoạt động giáo dục
hướng nghiệp nhưng có lúc việc phối hợp các phương pháp đánh giá hoạt động
này chưa phát huy hiệu quả, vẫn còn tư tưởng xem nhẹ hoạt động giáo dục hướng
nghiệp so với các bộ mơn văn hóa.
Vấn đề huy động, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất, các nguồn lực cho
việc tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cũng được Ban giám đốc quan tâm
nhưng vẫn chưa phát huy được hiệu quả, kết quả huy động nguồn kinh phí dành
cho hoạt động này cịn hạn chế, việc bố trí thời gian hoạt động giáo dục hướng
nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thực tế của từng trường, nhất là áp lực
nặng nề về phân phối chương trình và chất lượng giảng dạy ở các bộ mơn văn hóa
khác. Thêm vào đó, các điều kiện, trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động
giáo dục hướng nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hoạt
động giáo dục hướng nghiệp theo yêu cầu chung của Sở, của Ngành.
Mạng lưới tư vấn hướng nghiệp rất hạn chế, khơng có chun gia hoặc ít
mời chun gia nói chuyện thường giao cho GVCN hoặc tổ chức Đoàn thanh niên

nên việc tư vấn khơng có chiều sâu, khơng bài bản, hiệu quả thấp.
Như vậy cho thấy, việc thực hiện hoạt động giáo dục Hướng nghiệp thời
gian qua Trung tâm cịn gặp nhiều khó khăn chưa mang lại hiệu quả cao. Nguyên
nhân là thiếu giáo viên Hướng nghiệp chuyên trách và giáo dục Hướng nghiệp
chưa có nội dung, chương trình mang tính thực tiễn. Trung tâm mới chỉ quan tâm
đền phần hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ tuyển sinh mà ít chú trọng đến tư vấn tuyển
sinh. Giáo viên làm công tác hướng nghiệp chỉ được tập huấn vài buổi chưa có kỹ
năng về Hướng nghiệp, ít hiểu biết về hệ thống trường Đại học, Cao đẳng nhất là
những ngành học mới và những dự báo ngành nghề nào phù hợp với nhu cầu của
Tỉnh nhà trong tương lai. Bản thân giáo viên của Trung tâm cũng chưa nhận thức
rõ vai trị của cơng tác hướng nghiệp nên còn thờ ơ.
Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 3 khối lớp với số lượng học sinh
gần 100 em. Ở những năm học trước cũng có nhiều em có điểm thi đỗ vào các
trường ĐH, CĐ, nhưng đa số các em bỏ và làm tự do. Hiện nay, học sinh của
Trung tâm đa phần các em là học sinh học Văn hóa nghệ thuật hoặc thể dục thể
thao, một số em có thành tích tập luyện có định hướng theo nghề lâu dài nhưng đa
số chưa cho định hướng gì về nghề nghiệp tương lai. Nhiều em có khái niệm mơ

11


hồ về nghề, những phẩm chất, điều kiện của nghề, bản thân các em cũng chưa có
sự hứng thú đối với nghề nghiệp nào.

2.2. Biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung
tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
Trong quá trình điều tra thực trạng, cùng với việc nghiên cứu lý luận và các
điển hình tiên tiến, bản thân tôi đã tiến hành thực hiện một số biện pháp nâng cao
công tác hướng nghiệp, trên cơ sở các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ

- Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
- Nguyên tắc đảm bảo chất lượng và tính hiệu quả
- Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và phát triển
- Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi
2.2.1. Nâng cao nhận thức về giáo dục hướng nghiệp ở Trung tâm
Qua những buổi tập huấn chung của Ngành, của Sở cần có những buổi tập
huấn cho giáo viên của trung tâm, cần phải làm cho mọi người nhận thức rõ bản
chất của hoạt động này, các nội dung hướng nghiệp, các yêu cầu cần phải đạt được
và cách thức tổ chức các con đường hướng nghiệp; Làm cho họ hiểu rõ, hướng
nghiệp không phải là nhiệm vụ của những người có trách nhiệm mà là nhiệm vụ
chung của tất cả giáo viên trong nhà trường. Tác động đến gia đình về vấn đề ủng
hộ, tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai phù hợp với
năng lực, sở trường. Xác định mục tiêu, động cơ học tập và rèn luyện phẩm chất
đạo đức đối với học sinh. Các thầy cô cũng phải luôn cập nhật thông tin thông qua
các nguồn như sách báo, mạng internet, đài phát thanh, truyền hình... trong bài
giảng.
Về phía học sinh, việc nâng cao nhận thức của học sinh về GDHN chính là
tác động sao cho để các em hiểu và xác định được một tâm thế chuẩn bị sẵn sàng đi
vào lao động sản xuất, các em được làm quen với những nghề cơ bản trong xã hội
và hình thành được những biểu tượng đúng đắn về các nghề cần phát triển. Sau đó,
các em phải hình thành được hứng thú đối với nghề nghiệp, trên cơ sở hứng thú đó
hình thành năng lực tương ứng đối với nghề. Bên cạnh đó, nhà trường cũng phải
giáo dục cho các em thái độ với lao động. Việc nâng cao nhận thức cho học sinh có
thể nằm ở chính tinh thần yêu lao động, thái độ nghiêm túc đối với công việc, niềm

12


đam mê học hỏi, tìm tịi sáng tạo của thầy cô đối với ngành nghề sẽ là những ấn
tượng về nghề nghiệp không bao giờ phai đối với học sinh.

3.2.2. Thành lập bộ phận tư vấn hướng nghiệp
Hiện nay, Trung tâm có giáo viên Tâm lý giáo dục, đây là điều kiện cơ hội
tốt để thành lập bộ phận tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. Ngoài ra cần huy động
sự tham gia của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn, giáo viên kỹ thuật –
những người có những hiểu biết nhất định về tâm lý giáo dục, có năng lực giao tiếp
với học sinh và phụ huynh học sinh, các cựu học sinh hoặc phụ huynh học sinh am
hiểu về nghề. Cần xây dựng đội ngũ cộng tác viên tư vấn nghề nghiệp tham gia
tích cực vào hoạt động tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông. Tổ chức
công tác viên TVHN thu hút từ các trường THCN, TCN, các trường Cao đẳng, đại
học, các cơ quan, xí nghiệp, cơ sở sản xuất....
Việc tư vấn hướng nghiệp cần đảm bảo Quy trình hướng nghiệp gồm 3 bước:
Bước 1: Là bước đầu tiên, quan trọng nhất cần làm trong hướng nghiệp là
giúp cho học sinh trả lời được câu hỏi: Em là ai? trên cơ sở hướng dẫn học sinh
khám phá bản thân qua những bài tập suy ngẫm, các bài trắc nghiệm và tư vấn cá
nhân.
Bước 2: Giúp học sinh trả lời được câu hỏi: Em đang đi về đâu? trên cơ sở
hướng dẫn học sinh tìm hiểu thơng tin nghề nghiệp qua các bài tập tìm hiểu nghề,
qua trải nghiệm, qua các trang web, qua làm các bài tập phỏng vấn nghề nghiệp
và qua tư vấn cá nhân.
Bước 3: Giúp học sinh trả lời được câu hỏi: Làm sao để đi đến nơi em
muốn tới? trên cơ sở hướng dẫn, hỗ trợ học sinh lập kế hoạch nghề nghiệp để
theo đó thực hiện nhằm đạt được mục tiêu nghề nghiệp.
Quy trình hướng nghiệp có thể được lặp đi lặp lại trong những giai đoạn
khác nhau của cuộc đời mỗi người. Đặc điểm của quy trình hướng nghiệp là
bước 1, bước 2 và bước 3 có ảnh hưởng, tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Kết
quả thực hiện bước trước là cơ sở để thực hiện bước sau. Ngược lại, kết quả thực
hiện bước sau có thể giúp học sinh nhìn nhận, đánh giá lại kết quả thực hiện bước
đã thực hiện trước đó để có sự bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp. Ví dụ, sau khi
lập kế hoạch nghề nghiệp (bước 3), học sinh có thể nhận ra mình chưa hiểu rõ về
thị trường tuyển dụng lao động (bước 2) hoặc nhận ra mình chưa hiểu rõ về bản

thân (bước 1). Trong trường hợp này, học sinh có thể quay trở lại thực hiện bước
2 hoặc bước 1 trước khi hoàn tất bước 3. Các em cần lưu ý tránh sự ảnh hưởng có

13


thể của các yếu tố định kiến và khuôn mẫu giới khi thực hiện 3 bước trong quy
trình lập kế hoạch của bản thân.
Bản thân tơi, trong q trình thực hiện tư vấn hướng nghiệp cho học sinh,
việc đầu tiên là cho học sinh thực hiện trắc nghiệm sở thích và khả năng theo lý
thuyết mật mã Holland để biết xem học sinh thuộc nhóm tính cách nào? Và nghề
nghiệp nào là phù hợp với đặc điểm tính cách đó. Theo học thuyết Holand thì có
những nhóm đặc điểm tính cách như:

Học sinh thuộc nhóm kĩ thuật thì:
Đặc điểm: Những người ở nhóm kĩ thuật có sở thích và khả năng khám phá,
sử dụng máy móc, làm những cơng việc sử dụng thao tác tay chân như các ngành
nghề thuộc về cơ khí, ơ tơ, điện, tin học hoặc các ngành nghề đòi hỏi sự khéo léo
của tay chân như thể thao, nấu nướng, chăm sóc cây xanh, thủ cơng mĩ nghệ...

14


Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu
cầu: Thực tế - Cụ thể (Thể lực tốt suy nghĩ thực tế; Tư duy, trí nhớ tốt; Say mê,
nghiêm túc thực hiện các qui trình kĩ thuật; Sáng tạo, khéo tay, tỉ mỉ; Có năng lực
chú ý tốt; Thị lực tốt; Trí tưởng tượng khơng gian tốt; Phản ứng cảm giác/ vận
động nhanh, chính xác; Chịu đựng trạng thái căng thẳng; Kiên trì, nhạy cảm; Khí
chất thần kinh ổn định.
Môi trường làm việc tương ứng: Các cơng việc liên quan đến điều khiển

máy móc, đồ vật hoặc chăm sóc, bảo vệ vật ni, cây trồng; Làm việc ngồi trời,
địi hỏi sự khéo léo chân tay khi sử dụng các cơng cụ, máy móc hoặc trong hoạt
động thể thao.
Nghề phù hợp điển hình: Trồng trọt, chăn ni, trồng rừng, điện - điện tử,
cơ khí, điều khiển, sử dụng, sửa chữa máy móc, các nghề thủ cơng mĩ nghệ, vận
động viên, huấn luyện viên, cảnh sát, cứu hoả…
Các ngành nghề đào tạo: Vận hành máy, chế tạo máy, cơ khí ứng dụng, tự
động, bảo trì và sửa chữa ô tô, thiết bị điện, lắp đặt điện, bảo hành, sửa chữa điện điện tử, tin học, xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản,
mộc dân dụng, mộc mĩ nghệ, thể thao, nấu ăn, làm vườn và chăm sóc cây xanh,
thêu nghệ thuật, đan, móc, làm hoa, cắm hoa, điêu khắc, nhân viên kĩ thuật phịng
thí nghiệm, tài xế, lái tàu, công nghệ thông tin, nấu ăn, quản lí cảnh quan và mơi
trường, trồng hoa, cây cảnh, may dân dụng, may công nghiệp, làm vườn, nuôi
trồng thủy sản…Học sinh của Trung tâm GDTX tỉnh chủ yếu thuộc về nhóm này.
Có một số em thuộc về nhóm Nghệ thuật:
Đặc điểm: Những người ở nhóm nghệ thuật rất thích và có khả năng làm
việc thiên về tính chất nghệ thuật như viết văn, bình thơ, vẽ, thiết kế mĩ thuật, đạo diễn,
nghệ sĩ….Đây là dạng nghề đang phát triển mạnh theo nhu cầu xã hội. Cùng trong
nhóm này là các nhà văn, các biên kịch, nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ,…
Khả năng của người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu:
Sáng tạo - Tự do (Sáng tạo, linh hoạt và thông minh; Kiên trì, nhạy cảm; Tinh thần
phục vụ tự nguyện; Có tính tưởng tượng khơng gian và nhận biết tốt hình dạng vật
thể; Có khả năng sống thích ứng; Diễn tả ngơn từ lịch sự, rõ ràng; Hiểu biết về lịch
sử, văn hóa, chính trị.
Mơi trường làm việc tương ứng: Sáng tác trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật, kiến trúc, hội họa, thủ cơng mĩ nghệ; biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, dẫn chương
trình.

15



Nghề phù hợp điển hình: Sáng tác văn học, thơ ca, nghệ sĩ nhiếp ảnh,
nghệ sĩ biểu diễn (nhạc, kịch, hát múa..), hoạ sĩ, nhạc sĩ, điêu khắc, thiết kế thời
trang, thiết kế quảng cáo, giảng viên văn học…
Các ngành nghề đào tạo: Viết văn, kiến trúc sư, họa sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn
viên (điện ảnh, kịch, chèo, cải lương, tuồng…) thợ thủ công mĩ nghệ (chạm khắc
gỗ, thêu tranh, làm đồ gốm sứ, chạm bạc…), nhà báo, bình luận viên, dẫn chương
trình, người mẫu, nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ, đạo diễn, chuyên viên trang điểm,
thiết kế thời trang, thiết kế quảng cáo…
3.2.3. Tổ chức tư vấn cho học sinh theo nhóm nhỏ
Như đã phân tích ở phần thực trạng, việc giáo dục hướng nghiệp ở Trung
tâm GDTX tỉnh mới chỉ làm ở cấp lớp, cấp trường nên ý nghĩa của việc giáo dục
hướng nghiệp mới chung chung chứ chưa cụ thể ở mỗi học sinh. Việc tư vấn nhóm
nhỏ sẽ khắc phục được thực trạng đó. Tư vấn theo nhóm nhỏ sẽ giúp: Nâng cao
kiến thức hướng nghiệp và kiến thức tuyển sinh; Tạo nhu cầu tìm hiểu về hướng
nghiệp cho học sinh; Tạo cơ hội để nhà trường phối hợp với Hội cha mẹ học sinh
và/hoặc các doanh nghiệp để giúp nâng cao kiến thức hướng nghiệp cho học sinh.
Việc tư vấn cho học sinh theo nhóm nhỏ thuận lợi hơn so với buổi tư vấn
quy mơ tồn trường do số lượng học sinh ít hơn, hơn nữa những học sinh trong
cùng một nhóm được học cùng một chương trình, cùng lứa tuổi nên có nhận thức
và những vấn đề quan tâm tương tự nhau.
Sau khi đã thống nhất mục đích, nội dung và kế hoạch tư vấn, GVCN và các
tư vấn viên hướng dẫn học sinh làm phiếu trắc nghiệm sở thích và khả năng nghề
nghiệp theo mật mã Holland và điền vào phiếu khảo sát. Kết quả trắc nghiệm sẽ
giúp học sinh xác định được nhóm sở thích và khả năng nghề nghiệp của bản thân
để từ đó xác định nhóm trường hay loại ngành nghề có thể học hay đi làm sau khi tốt
nghiệp.

16



Buổi tư vấn tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc được tổ chức theo tiến
trình như sau:
STT
1

2

3

4

Nội dung
Khai mạc và giới thiệu ngắn gọn về
mục tiêu của buổi tư vấn (15’)
Giới thiệu Mơ hình lập kế hoạch
nghề và Mơ hình lí thuyết cây nghề
nghiệp (20’)
Lí thuyết Mật mã Holland (15’)
Chia học sinh theo các nhóm sở
thích (20’)
Liên kết mơ hình lập kế hoạch
nghề, Mơ hình lí thuyết cây nghề
nghiệp, và Lí thuyết Mật mã
Holland với mơ hình Lí thuyết hệ
thống (15’)

17

Người phụ trách
Phịng Dạy văn hóa


Người tư vấn

Người tư vấn

Người tư vấn

Ghi chú


5

6

7

Chia học sinh vào các nhóm khả
năng và kết quả học tập.
Chú ý chỉ nêu tên nhóm, khơng nêu
khả năng và kết quả học tập. Thảo
luận với học sinh (20’)
Trả lời câu hỏi đã thu thập trước
hay câu hỏi trực tiếp Giao lưu, kể
chuyện, chia sẻ kinh nghiệm từ các
học sinh khác trong quá khứ (40’)
Kết thúc: Chia tay và phát bản tóm
tắt nội dung; Cho thơng tin liên lạc
sau buổi tư vấn nếu có thể (5’)

Người tư vấn


Người tư vấn

Người tư vấn

Mơ hình Lí thuyết cây nghề nghiệp thuộc về phần “tìm hiểu bản thân”
trong 3 bước tìm hiểu của mơ hình lập kế họach nghề. Theo lí thuyếr “Cây nghề
nghiệp”, ai trong chúng ta cũng muốn có một công việc ổn định, lương cao, môi
trường làm việc tốt, được nhiều người tơn trọng, ví trị cơng tác cao, cơ hội thăng
tiến tốt, v.v… Tất cả những mong muốn trên là mong muốn chính đáng của mỗi
người và đó chính là “trái ngọt” trong lí thuyết cây nghề nghiệp. Để có được
những “trái ngọt” trong nghề nghiệp, việc chọn hướng học, ngành học và chọn
nghề phù hợp với sở thích, khả năng, cá tính, và giá trị nghề nghiệp của một
người rất quan trọng. Sở thích, khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp chính là
phần “rễ” của lí thuyết cây nghề nghiệp và cũng là những cơ sở khoa học để dựa
vào đó, các em có định hướng đúng đắn trong việc ra quyết định chọn hướng
học, chọn ngành học, chọn nghề tương lai cho phù hợp. Chúng ta cần nhận thức
được rằng thực tế quá trình hình thành và phát triển của 4 yếu tố: sở thích, khả
năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp ở mỗi người đều có thể chịu tác động của
khn mẫu và định kiến về giới.
Nhiều người chọn ngành hợp với “rễ” và chọn ngành không theo “rễ” của
cây nghề nghiệp. Chọn hướng học, chọn nghề có cơ sở khoa học là chọn hướng
học, chọn nghề theo “rễ”, tức là chọn nghề dựa vào khả năng, sở thích, cá tính và
giá trị nghề nghiệp và một số yếu tố khác như thể lực, sức khỏe… của bản thân.
Nói cách khác, cơ sở khoa học của việc chọn hướng học, chọn nghề chính là
những hiểu biết về bản thân của mỗi người. Đây là phần cơ bản nhất trong việc
chọn hướng học, chọn ngành học, chọn nghề tương lai. Nếu mỗi chúng ta biết

18



chọn hướng học, chọn ngành học, chọn nghề phù hợp với bản thân thì chúng ta sẽ
có được những thành quả mà chúng ta mong muốn như cơ hội việc làm tốt, cơ
hội thăng tiến cao, lương cao, công việc ổn định, được nhiều người tôn trọng,
v.v… Ngược lại, nếu ai đó chọn hướng học, chọn ngành học, chọn nghề khơng
phù hợp với bản thân thì rất khó để có những thành quả tốt trong con đường nghề
nghiệp sau này vì người đó sẽ thiếu sự u thích đối với công việc, thiếu động lực
để học và làm tốt, và thiếu cả những khả năng để phát triển trong học tập và nghề
nghiệp. Hơn nữa, người đó khó mà có được sự tự tin trong học tập, trong chun
mơn vì học hay làm việc trái với năng khiếu tự nhiên của bản thân.
Ngay từ khi cịn học phổ thơng, Hoa là học sinh nữ có khả năng học mơn
Tốn nổi trội, có cá tính ngăn nắp, hay để ý tới các chi tiết nhỏ, thích làm việc với
con số hơn làm việc với con người,và thích kiểm sốt tiền bạc. Vì vậy, Hoa tự nhận
thấy mình rất phù hợp với nghề kế toán. Trong lúc Hoa đang học nghề kế tốn thì
đã phát hiện ra mình rất thích hợp với ngành Ngân hàng, nên khi ra trường Hoa đã
xin vào làm việc tại một Ngân hàng ở tỉnh nhà. Sau một thời gian làm việc, Hoa đã
rất thành công trong cơng việc, được thăng chức, lên lương, và có một đời sống
khá thoái mái. Đây là trường hợp chọn nghề hợp với “rễ”.
Lí thuyết hệ thống thuộc về phần tìm hiểu những tác động/ảnh hưởng trong
3 bước tìm hiểu của mơ hình lập kế họach nghề. Theo lí thuyết hệ thống, trước tiên
mỗi học sinh cần hiểu rõ mình là ai, từ sở thích, khả năng, cá tính và giá trị nghề
nghiệp, giới tính đến quan điểm, niềm tin của mình. Lí thuyết hệ thống nhấn mạnh
rằng, mỗi người chúng ta khơng sống riêng lẻ một mình mà sống trong một hệ
thống, và chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi những yếu tố chủ quan bên trong như sở
thích, khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp và các yếu tố khách quan bên ngồi,
bao gồm: Gia đình, bạn bè, cộng đồng, quốc gia, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, hệ
thống giáo dục và nhiều yếu tố khác nữa. Trong đó, tác động có ảnh hưởng trực
tiếp tới việc chọn hướng học, chọn nghề của các em chính là truyền thống nghề
nghiệp, hồn cảnh gia đình và yếu tố kinh tế - xã hội ở nơi các em đang sinh sống.
Ngồi ra định kiến giới cũng có thể ảnh hưởng tới việc chọn ngành học, chọn nghề

của các em.
Việc các em hiểu rõ vai trị của mình trong hệ thống và những ảnh hưởng từ
bên ngồi đến chính bản thân các em sẽ giúp các em đưa ra quyết định thực tế,
giảm những mâu thuẫn bên trong nội tâm và tìm ra những giải pháp có thể giúp các
em thỏa mãn những trách nhiệm chung cũng như sở thích riêng.

19


Học sinh lớn lên ở vùng nông thôn Bắc Bộ sẽ có những điều kiện sống khác
với những em lớn lên ở đô thị miền Nam, dẫn đến quyết định chọn hướng học,
chọn nghề sẽ khác nhau. Hoặc, một số em sinh ra tại Việt Nam, nhưng theo cha mẹ
sống ở nhiều quốc gia khác nhau vì tính chất cơng việc của cha mẹ, em sẽ có quan
điểm sống khác với những em sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến
quyết định chọn hướng học, chọn nghề nghiệp tương lai khác nhau;
3.2.4. Tổ chức tốt các hoạt động khởi nghiệp, lớp dạy nghề cho học sinh
Ở nước ta, những năm qua sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra trường
khơng có việc làm chiếm một con số không nhỏ. Đứng trước thực trạng trên, Bộ
Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã có nhiều giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề
này, trong đó giải pháp trước hết là các nhà trường phổ thông là tốt công tác tư vấn
hướng nghiệp nghề cho học sinh. Điều này giúp cho học sinh
lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân, đáp ứng thị trường lao động. Cùng với
việc tư vấn định hướng nghề nghiệp cho học sinh, Bộ GD&ĐT đã triển khai
chương trình Giáo dục khởi nghiệp, giúp cho sinh viên ra trường biết cách tạo
dựng cơng việc, nghề nghiệp cho bản thân. Chương trình được thiết kế dựa trên
chương trình giáo dục kinh doanh (Know About Business/KAB) và chương trình
đào tạo khởi sự doanh nghiệp (Star your Business/SYB) của tổ chức Lao động
Quốc tế (International Labor Organization/ILO) - một cơ quan của Liên Hiệp
Quốc.
Năm 2014, sau khi được Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở GD&ĐT giao nhiệm vụ

“Hướng nghiệp nghề và bồi dưỡng giáo viên kỹ thuật” cho Trung tâm Giáo dục
thường xuyên (GDTX) tỉnh, Trung tâm nhanh chóng ổn định cơ cấu tổ chức đã
thành lập phòng Hướng nghiệp nghề và bồi dưỡng giáo viên kỹ thuật. Từ đó đơn vị
khẩn trương nắm bắt và đã triển khai các chương trình giáo dục hướng nghiệp,
khởi nghiệp. Mặc dù thời gian được giao và thực hiện nhiệm vụ chưa nhiều, nhưng
kết quả đạt được từ các chương trình giáo dục hướng nghiệp và khởi nghiệp của
Trung tâm GDTX tỉnh những năm qua rất đáng khích lệ.

20


Chương trình Giáo dục khởi nghiệp
Thực hiện nhiệm vụ được giao, trên cơ sở nghiên cứu các ngành, nghề được
đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng và thị trường lao động hiện nay, nhằm trang
bị cho học sinh những hiểu biết và kĩ năng nghề nghiệp cần thiết,
Hòa chung với chương trình Quốc gia khởi nghiệp, thực hiện chỉ đạo của Bộ
GD&ĐT khuyến khích giảng dạy chương trình Giáo dục khởi nghiệp trong hệ
thống giáo dục quốc dân, Trung tâm GDTX tỉnh đã phối hợp với Tổ chức Giáo dục
IIE Việt Nam tổ chức các chương trình giáo dục khởi nghiệp thiết thực đối với học
sinh, sinh viên, nhằm giúp thanh niên, học sinh, sinh viên và người lao động
nhận thức đúng đắn về khởi nghiệp, khơi dậy tinh thần tự tạo việc làm, tự thân
lập nghiệp. Chương trình giáo dục khởi nghiệp đầu tiên được tổ chức vào tháng 7
năm 2016 (lớp thí điểm) dành cho các đối tượng là đoàn viên, thanh niên trên địa
bàn thành phố Vĩnh Yên. Tại đây các bạn đoàn viên, thanh niên bước đầu xác định
được: Tính kinh doanh là gì và tại sao cần có tính kinh doanh; Những yếu tố cần
có cho một ý tưởng kinh doanh tốt; Những hoạt động tăng cường sự tự tin; Tầm
quan trọng của sáng tạo và các phương thức sáng tạo; Phân biệt được sự khác nhau
giữa mạo hiểm có tính tốn và mạo hiểm may rủi; Những phẩm chất của một
người bán hàng; Phát triển và ni được ít nhất một ý tưởng kinh doanh; Phát triển
kỹ năng trình bày, giao tiếp và phản biện… Tiếp đó Trung tâm tiếp tục nhân rộng,

phát triển chương trình tới các đối tượng như: học sinh lớp 12 các trường phổ
thông, học sinh học chương trình GDTX cấp trung học phổ thơng, sinh viên các
trường trung cấp, cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh và người lao động có niềm

21


đam mê khởi nghiệp. Nhờ những chương trình này đã làm thay đổi tư tưởng, định
hướng việc làm cho học sinh, sinh viên và những người lao động.
Nhằm tăng cường hoạt động giáo dục hướng nghiệp, khởi nghiệp, nhà
trường đã ra mắt Câu lạc bộ Khởi nghiệp. Tại đây các chương trình đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức, kỹ
năng, chuyển giao công nghệ cho cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh
viên, người lao động; nhiều chương trình tư vấn, hướng nghiệp nghề cho học sinh
được tổ chức, giúp học sinh có kiến thức về nghề nghiệp để tự lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp với bản thân và sự phát triển của xã hội

Lớp trung cấp nấu ăn mở tại trung tâm
Trong thời kỳ cách mạng 4.0, giáo dục hướng nghiệp, khởi nghiệp là vấn đề
cấp bách cần làm ngay. Hòa cùng quốc gia hướng nghiệp, khởi nghiệp, Trung tâm
GDTX tỉnh Vĩnh Phúc sẽ đẩy mạnh công tác hướng nghiệp đối với học sinh các
trường phổ thông, đồng thời kết nối chặt chẽ với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
các doanh nghiệp để tư vấn tuyển sinh, hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp, lập nghiệp.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Đối với Cán bộ quản lý: Cần có kế hoạch triển khai cụ thể hoạt động giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường. Đầu tư kinh phí cho hoạt động
giáo dục kĩ năng sống. Khuyến khích động viên giáo viên trong việc tổ chức hoạt
động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
- Đối với giáo viên: Cần tận tâm hơn nữa trong công tác giáo dục học sinh.

Luôn trau dồi kĩ năng, nghiệp vụ để có được kiến thức, kĩ năng giáo dục kĩ năng
22


sống cho học sinh. Bản thân mỗi giáo viên cũng phải luôn trau dồi đạo đức, kĩ
năng sống của bản thân mình để là tấm gương cho học sinh noi theo
- Đối với học sinh: Ln tích cực trong các hoạt động giáo dục của giáo
viên.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả.
Những biện pháp trên đây do sự tổng kết kinh nghiệm lí luận và thực tiễn
của bản thân. Tại TTGDTX tỉnh Vĩnh phúc, tác giả chưa có điều kiện tổ chức thực
nghiệm để đối chứng một cách bài bản nhưng bước đầu nhận định những biện
pháp trên đã đem lại hiệu quả nhất định cho việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh:
- Học sinh thêm gắn bó và đồn kết hơn
- Học sinh đã thu được những kiến thức, kĩ năng sống nhất định trong mỗi
giờ học kĩ năng sống mà bản thân tôi tổ chức cho học sinh.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu:
Học sinh lớp 10, 11,12 năm học 2017 – 2018

Vĩnh Phúc, ngày tháng
GIÁM ĐỐC

năm

Vĩnh Phúc, ngày 19 tháng 01 năm 2019
Tác giả sáng kiến


23



×