Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEM Một số biện pháp nâng cao tỷ lệ chuyên cần cho trẻ mầm non vùng dân tộc thieur số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.91 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em – những chủ nhân tương lai của đất nước, là nguồn hạnh phúc lớn
lao của mỗi gia đình. Muốn có những chủ nhân, niềm hạnh phúc vẹn toàn về tài
và đức thì cần giáo dục trẻ ngay từ khi trẻ bắt đầu đến trường mầm non.
“ Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, học hành là ngoan “
Xuất phát từ những quan điểm trên, hiện nay trẻ em đã và đang được xã
hội quan tâm, đặc biệt về chất lượng chăm sóc và giáo dục. Như vậy muốn công
tác chăm sóc giáo dục đạt hiệu quả thì trước hết phải chú ý đến tỷ lệ chuyên cần
của trẻ vì trẻ có ra lớp đều thì việc tiếp thu bài mới tốt, mới hệ thống được kiến
thức liền mạch. Đó chính là nền tảng giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức một cách
đầy đủ nhất. Xong thực tế giáo dục ở các bậc học vùng cao nói chung đặc biệt là
giáo dục mầm non nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì và
đảm bảo sĩ số.
Năm học 2015-2016 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp Mẫu giáo lớn A2, đó là điểm phân hiệu của trường Mầm non Văn
Sơn, nằm tại thôn Văn Tiến là một thôn nghèo của xã Văn Sơn, huyện Văn Bàn.
Địa bàn hiểm trở, điểm trường được xây dựng trên đỉnh của một ngọn đồi,
đường đi nhiều dốc ngoằn ngoèo. Vào ngày nắng đã vậy ngày mưa khó khăn lại
tăng hơn gấp nhiều lần, chỉ còn cách đi bộ leo dốc mới có thể lên đến lớp.

Hình ảnh: Đường lên điểm trường phân hiệu Văn Tiến ngày mưa.
100% đồng bào nơi đây là người dân tộc thiểu số, nhận thức còn hạn chế,
đặc biệt là việc cho trẻ em đến trường, kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào trồng lúa,
trồng ngô, trồng sắn do địa bàn núi non hiểm trở nên đến mùa thu hoạch những
sản phẩm cũng không đáng là bao nhiêu vì vậy kinh tế nơi đây còn rất khó khăn,
những bữa cơm độn sắn đã quá quen thuộc với bà con cũng như các em học sinh
nơi đây.
Để khỏi bỡ ngỡ tôi đã hỏi từ những đồng nghiệp đi trước để lấy kinh
nghiệm thì nhận được lời chia sẻ hóm hỉnh như sau “ Muốn có học sinh để dạy
thì em phải mang thật nhiều kẹo và mua dép tàu mà đi “ Nhưng lúc đó tôi mới


1


chỉ nghe thôi chứ chưa thực sự hiểu hết được những lời các đồng nghiệp chia sẻ.
Khi lên công tác tôi mới thấy rằng nơi đây không chỉ khó khăn về đường đi, về
bất đồng ngôn ngữ mà thực tế còn phức tạp hơn những gì tôi nghĩ.
Đối tượng học sinh rất đa dạng, mỗi em có hoàn cảnh và điều kiện sống
khác nhau, nếu giáo viên không khéo léo thì khó mà duy trì sĩ số lớp mình đạt
như mong muốn. Việc nhận thức cho con em đến trường Mầm non của các bậc
phụ huynh nơi đây còn có hạn. Lớp tôi chủ nhiệm lại là lớp ghép 3 độ tuổi nên
các trẻ chưa quen với nề nếp thói quen ở lớp hơn nữa một số phụ huynh thường
cho con nghỉ học để lên nương cùng bố mẹ. Mặt khác một số phụ huynh kinh tế
khó khăn không muốn cho con trong độ tuổi mầm non đến lớp để đỡ phần tốn
kém. Chính vì vậy tỉ lệ chuyên cần của trẻ mầm non còn chưa cao, số trẻ nghỉ
học không lý do còn nhiều... Trẻ đi học không đều như thế không những ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả đào tạo của nhà trường cũng như ngành giáo dục của
huyện mà nó còn ảnh hưởng rất nhiều đến công tác phổ cập giáo dục mầm non
đúng độ tuổi.
Qua việc trực tiếp giảng dạy học sinh vùng dân tộc thiểu số, trước những
vấn đề nêu trên, tôi suy nghĩ rất nhiều: làm thế nào mà nâng cao hơn nữa được tỉ
lệ chuyên cần của trẻ. Nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Một số biện pháp
nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho trẻ vùng dân tộc thiểu số ”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
Chăm sóc giáo dục trẻ từ buổi ban đầu là rất cấp thiết, điều đó đã được
ông cha ta đúc kết nên câu ca dao:
“ Uốn cây từ thủa còn non
Dạy con từ thủa con còn thơ ngây “
Đối với trẻ em việc được uốn nắn, giáo dục ngay từ khi mới bắt đầu đến
trường Mầm non là một yêu cầu và là nhiệm vụ cấp thiết cho ngành giáo dục.

điều đó có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành
nhân cách cho trẻ em, bởi trường học Mầm non chính là nơi tổ chức một cách
tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các
kỹ năng học tập, rèn luyện của trẻ. Mục tiêu, nhiệm vụ của trường Mầm non là
đem đến cho trẻ em hạnh phúc được học tập, là làm cho trẻ em được hưởng thụ
một nền giáo dục tốt đẹp nhất ở trường Mầm non.
Việc duy trì sĩ số, nâng cao tỷ lệ chuyên cần trong các trường học, là một
chủ trương lớn của ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các
cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và
bồi dưỡng những tài năng của đất nước. Đảng ta đã có quan điểm chỉ đạo tại văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: “ Tạo điều kiện cho mọi người ở mọi
lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời “. Điều này nhằm ngăn chặn việc
học sinh bỏ học cũng như ra lớp không đúng độ tuổi ở các cấp học. Vì vậy, Bộ
trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành Quyết định số 329/QĐ-BGD&ĐT
ngày 31/3/1990 đã khẳng định điều quan trọng cần làm trong công tác duy trì sĩ
số học sinh: “ Duy trì sĩ số học sinh đang học, hạn chế đến mức thấp nhất học
sinh đang học tại lớp bỏ học “.
2


Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong phú, hài hoà có tính toàn diện
của nhân cách thì tài năng con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển một
cách cơ bản và bền vững. Ở những trường mầm non việc duy trì tốt sĩ số học
sinh, học sinh được giáo dục toàn diện, được học đủ các môn học theo quy định,
được thực hiện các hoạt động khác. Trong điều kiện đó, mỗi học sinh sẽ được
phát triển theo khả năng của mình để đạt chất lượng cao. Điều này thực sự quan
trọng và mang lại lợi ích sau này cho trẻ ở những lớp mẫu giáo kế tiếp đặc biệt
là sự chuyển biến lên cấp học tiểu học. Vì vậy nếu trẻ đi học đều, thường xuyên
không chỉ giúp trẻ hệ thống được kiến thức một cách liền mạch mà còn giúp trẻ
mạnh dạn tự tin hơn khi giao tiếp cùng cô, các bạn và mọi người xung quanh….

Từ đó thấy được việc nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho trẻ là yếu tố cơ bản trong để
xây dựng nề nếp, thói quen và cách tổ chức thực hiện các hoạt động học tập
trong ngày của trẻ tại trường mầm non.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Lớp học tôi được phân công công tác cách trung tâm xã Văn Sơn hơn
4km, có địa hình phức tạp, dân cư phân bố không đồng đều. giao thông đi lại
khó khăn nhất là về mùa mưa. Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng tỉ lệ chuyên
cần của trẻ vùng dân tộc thiểu số tại điểm trường phân hiệu Mầm non Văn Sơn,
khi nghiên cứu đề tài này tôi đã gặp một số những thuận lợi và khó khăn sau:
1, Thuận lợi :
Được sự quan tâm tạo điều kiện từ Ban giám hiệu luôn tạo mọi điều kiện
tốt nhất về cơ sở vật chất, các phương tiện dạy học hiện đại, luôn chỉ đạo sát sao
trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Lớp học được xây dựng kiên cố khang
trang, có lắp đặt các hệ thống điện, nước.
Giáo viên đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình tâm huyết với
nghề, luôn luôn tích cực học hỏi bồi dưỡng chuyên môn. Năng động sáng tạo,
gần gũi với trẻ, với bà con nơi công tác.
Luôn luôn được sự quan tâm, chia sẻ và ủng hộ, giúp đỡ, nhiệt tình của
các đồng nghiệp. Đặc biệt là giáo viên cùng nhóm lớp, Các đồng nghiệp luôn chỉ
ra những yếu kém, khó khăn cùng nhau tháo gỡ và giải quyết những vướng mắc.
Nhận được sự ủng hộ, nhiệt tình của thôn trưởng nơi tôi công tác về việc
tuyên truyền giúp người dân nhận thức tốt hơn về việc cho trẻ đến trường, về
công tác vận động, thăm gặp gia đình trẻ.
2, Khó khăn
Khuôn viên lớp học còn chung với tiểu học nên vẫn thường xuyên xảy ra
tình trạng một số em học sinh tiểu học nghịch phá đồ dùng đồ chơi ngoài trời,
các góc ngoài lớp như : Khu vận động, góc khám phá khoa học, mô hình vườn
rau …
Ý thức của một số hộ gia đình gần khu vực trường học còn chưa cao, vẫn
xảy ra tình trạng trâu, bò vào dẫm phá vườn, mô hình…rất khó khăn cho việc

trồng cây xanh ảnh hưởng không nhỏ đến việc thi đua xây dựng phong trào
“Xây dựng trường sạch – xanh – đẹp ”.
Các bậc phụ huynh ở đây còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi các phong tục tập
quán lạc hậu của đồng bào vùng dân tộc thiểu số: Vào những ngày kiêng của
dân tộc Dao thì các bậc phụ huynh không cho trẻ đến trường…, trình độ dân trí
3


còn thấp có những gia đình bắt trẻ nghỉ học để chăn trâu, tra ngô… vì hầu hết bà
con chỉ sống dựa vào nông nghiệp, nương rẫy nên kinh tế khá hạn hẹp, Chính vì
vậy các bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc cần thiết cho trẻ đến
trường, đặc biệt là độ tuổi mầm non vì vậy đã gây nhiều trở ngại cho giáo viên
trong công tác vận động đưa trẻ đến trường cũng như duy trì tỷ lệ chuyên cần
cho trẻ.
Học sinh đa số dùng tiếng mẹ đẻ, ít được giao tiếp bằng tiếng kinh. Các
trẻ ngại ngần, sợ sệt và ít giao tiếp khi gặp cô giáo. Dẫn đến tình trạng bất đồng
ngôn ngữ, cô không hiểu trẻ và trẻ cũng không hiểu lời cô nói. Trẻ ít được quan
tâm đến vấn để giữ gìn vệ sinh cơ thể cũng như ăn uống cho trẻ.
Giáo viên còn trẻ, ít kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục. Là
một giáo viên vùng thấp lên vùng cao còn bỡ ngỡ nhiều về phong tục tập quan
của đồng bào nơi công tác.
3. Khảo sát đầu năm
Từ thực tế trên tôi đã tiến hành khảo sát tỉ lệ chuyên cần của trẻ tại nhóm
lớp Mẫu giáo lớn A2, điểm trường phân hiệu và khảo sát ý kiến các bậc phụ
huynh về nhận thức cho con ra lớp.
Tổng số học sinh: 13 trẻ ( trong đó trẻ 5 tuổi : 6 cháu; trẻ 4 tuổi : 3 cháu;
trẻ 3 tuổi : 4 cháu )
Qua việc khảo sát đầu năm học tôi thu được kết quả sau:
Bảng 1: Khảo sát về tỉ lệ chuyên cần của học sinh tại nhóm/lớp:
Nội dung khảo sát


Số trẻ

%

Đi học đều

5

38.5

Đi học chưa đều

6

46.2

Nghỉ học không lý do

2

15.3

Tổng

13

100

Bảng 2: Khảo sát về nhận thức của các bậc phụ huynh trong việc cho

con ra lớp (Tổng số phụ huynh được khảo sát: 13/13 phụ huynh )
Phụ huynh tán thành

Phụ huynh chưa tán
thành

Tổng số

Tỷ lệ %

Tổng số

Tỷ lệ %

9

69.3

4

30.7

10

77

3

23


12

92.1

1

0.9

Nội dung khảo sát
Con còn nhỏ không cho
đi học
Khi có sự thay đổi về
thời tiết cho con nghỉ
học
Chưa có điều kiện đóng
góp

4


Trước thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và áp dụng: “ Một số biện pháp nâng
cao tỉ lệ chuyên cần cho trẻ vùng dân tộc thiểu số “ với mong muốn được thấy
một sự thay đổi về nhận thức của các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của việc
đưa trẻ đến trường cũng như các trẻ ở lớp mình chủ nhiệm được lĩnh hội những
kiến thức một cách xuyên suốt và đầy đủ nhất. Giúp trẻ ở vùng dân tộc thiểu số
của xã nhà được phát triển hơn và hơn nữa tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình
vào sự phát triển toàn diện của trẻ.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Tìm hiểu hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh:
Nhằm muốn hiểu rõ hơn về học sinh cũng như đồng bào nơi đây. Sau ngày

tập trung học sinh, tôi đã đến nhà trưởng thôn với danh sách trích ngang ghi rõ
họ tên, nghề nghiệp cha mẹ, hoàn cảnh sinh sống của gia đình: tìm hiểu về hoàn
cảnh của từng gia đình ? bao nhiêu em nằm trong hộ khó khăn? bao nhiêu em có
sổ hộ nghèo, cận nghèo? Công việc thường ngày của trẻ ở nhà và là đứa con thứ
mấy ?. thông qua việc trò truyện với cha mẹ trẻ và những đồ dùng vật dụng
trong gia đình trẻ tôi đã phần nào nhận thấy được các trẻ của lớp mình đang
được sống trong hoàn cảnh như thế nào.
Thông qua các buổi họp phụ huynh đầu năm được tôi ghi chép tỉ mỉ những
phụ huynh nào tham gia họp và không họp. Trao đổi với phụ huynh về hoàn
cảnh của từng trẻ. Thăm dò ý kiến của phụ huynh này về phụ huynh khác để có
cái nhìn chính xác nhất về từng phụ huynh của lớp mình. Từ đó các phụ huynh
nêu ra, gia đình này hay cho con nghỉ học, gia đình kia còn khó khăn nên không
muốn cho con đi học … các ý kiến được tôi ghi chép kỹ càng để tìm hướng giải
quyết và biện pháp khắc phục.
Với sự giúp đỡ tận tình của trưởng thôn, người có kinh nghiệm và gần gũi
với dân bản nơi đây nhất, tôi cũng đã lấy được những thông tin về tính tình, về
kinh tế cũng như điều kiện sống của từng hộ gia đình có trẻ ở lớp.
Ngoài ra, tôi còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp năm trước để
nắm rõ hơn về hoàn cảnh gia đình và tính cách của từng trẻ. Sau đó tôi tập hợp
thành một quyển sổ theo dõi, phân loại đối tượng trẻ, đặc biệt trẻ có hoàn cảnh
khó khăn. Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp
giáo dục thích hợp. Sau đó tôi theo dõi sĩ số học sinh hằng ngày, đặc biệt là
những em hay nghỉ học không có lý do.
Tìm hiểu hoàn cảnh học sinh trực tiếp bằng cách: đến tại gia đình các em ,
tiếp xúc với bố mẹ các em để biết cụ thể hoàn cảnh của những học sinh này và
trao đổi tình hình học tập cũng như tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường.
Tìm hiểu tính cách các em qua việc quan sát, trò chuyện cùng trẻ trên lớp,
để hiểu rõ hơn tính tình cũng như nhận thức của trẻ.
Tôi lập kế hoạch đến thăm gặp từng gia đình trẻ làm thành một thời gian
biểu những việc cần làm của bản thân. Ngoài ra khi theo dõi, thấy những học

sinh nào nghỉ học từ 2 buổi trở lên , tôi đến ngay gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh
của các em, rồi kết hợp với trưởng thôn đến nhà vận động các em đi học lại. Lập
danh sách những học sinh có nguy cơ bỏ học báo ngay với Ban giám hiệu và
trưởng thôn. Để trưởng thôn nắm được và vận động bố mẹ nhắc nhở các em đi
5


học. Đồng thời tôi đưa ra biện pháp giáo dục trực tiếp, gần gũi, an ủi động viên
và khích lệ kịp thời những kết quả đạt được, từ những ưu điểm nhỏ nhất.
2. Nắm chất lượng của học sinh từ những năm học trước:
Với phương châm muốn trẻ của mình tốt thì phải hiểu trẻ, nghĩa là biết
được trẻ nào giỏi, trẻ nào yếu để có những biện pháp giáo dục rèn dưỡng được
tốt hơn. Tôi tìm những thông tin đánh giá trẻ qua các lĩnh vực: Thể chất, nhận
thức, thẩm mỹ, kỹ năng xã hội và đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Vì
với trẻ vùng cao ngôn ngữ có tốt thì trẻ mới có thể phát triển tốt được ở các lĩnh
vực khác, điều này khiến trẻ nghe, hiểu và giao tiếp với cô những điều trẻ muốn.
Trẻ có thể nói được, hiểu được lời cô nói thì trẻ mới có thể lĩnh hội được những
kiến thức mà cô truyền tải.
Trong tuần đầu đến trường tôi đã trao đổi kết quả học tập của các trẻ từ
những năm trước từ giáo viên cũ, qua đó tôi cũng cho các trẻ làm quen dần với
các nề nếp, thói quen , tăng cường tiếng việt cho trẻ. Quan sát sự hoạt động của
từng trẻ. Việc làm này đã giúp tôi lựa chọn biện pháp kèm cặp, uốn nắn phù hợp
không để cho các trẻ chán nản, tự ti,sợ hãi khi gặp người lạ.
Vào đầu năm học tôi cũng hệ thống lên những câu hỏi nhằm khảo sát chất
lượng cũng như kỹ năng, ý thích của trẻ ở lớp để nhận định rõ nét hơn những
vấn đề mà trẻ đang vướng mắc.
Nắm được tình hình của trẻ từ những năm trước khiến cho bản thân tôi rất
dễ gần gũi cũng như đưa ra những phương pháp để giáo dục cho từng trẻ.
3. Tạo những môi trường thân thiện để thu hút trẻ đến lớp:
Với phương châm “ Cô giáo phải thực sự là người để học sinh tin tưởng “

vậy nên mỗi khi trẻ đến lớp tôi luôn nhẹ nhàng, gần gũi hỏi han trẻ để trẻ không
còn lo sợ hay tự ti mỗi khi gần người lạ. Trong mỗi cử chỉ, hành động tôi luôn
ân cần thực hiện cùng trẻ như : Sửa lại quai dép giúp trẻ, buộc tóc cho trẻ và gội
đầu cho trẻ … Cứ như vậy lâu dần trẻ chủ động giao tiếp với tôi, gần gũi tôi hơn
mà không hề e ngại.

Hình ảnh: Trao thưởng cho học sinh chăm học
6


Để thu hút trẻ đi học đều, thường xuyên tôi tạo sự hứng thú cho trẻ bằng
nhiều hình thức như: tăng cường trang trí lớp với những hình ảnh ngộ nghĩnh,
bắt mắt theo từng chủ đề nhằm thu hút trẻ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Với những
trẻ đó tôi luôn quan tâm nhiều đến cảm xúc hành vi, thái độ trong ngày của
trẻkhi ở lớp.
Để tạo sự hào hứng đến lớp tôi đã hướng trẻ cùng làm với mình bảng
chuyên cần, với mỗi biểu tượng gắn cho từng trẻ và ra một thông điệp thi đua
nhau xem ống cờ của bạn nào có nhiều lá cờ nhất, mỗi ngày đi học là được một
lá cờ cắm vào ống cờ của mình. Cuối tuần tôi và trẻ cùng kiểm tra số cờ trong
mỗi biểu tượng của mình, bạn nào có nhiều lá cờ nhất sẽ nhận được phần thưởng
của cô, phần thưởng đôi khi chỉ là cây bút, thẻ chữ, bút màu hay chỉ là vài chiếc
kẹo để động viên trẻ.
Tôi đã khuyến khích trẻ của mình đến lớp bằng các phong trào thi đua có
khen và có thưởng. Từ những việc làm đó tôi thấy trẻ của mình thích thú đến lớp
hơn, tranh luận với nhau nhiều hơn về ống cờ của mình, điều này không những
thu hút được trẻ ham đến lớp mà còn khuyến khích được trẻ giao tiếp được tốt
làm tiền đề để phát triển hơn ở các lĩnh vực khác.
4. Tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục theo hướng tích hợp
“Học mà chơi - chơi mà học”:
Công tác chăm sóc trẻ

Công tác tổ chức cho trẻ ăn bán trú là một hình thức tương đối có hiệu quả
để đảm bảo tỉ lệ chuyên cần của trẻ tại nhóm lớp. Nắm bắt được hoàn cảnh kinh
tế của từng gia đình các cháu tôi tiến hành tuyên truyền tới các bậc phụ huynh
cho con ăn cơm trưa theo các hình thức ăn cơm nấu tại trường đến nay tỉ lệ học
sinh ăn bán trú tại lớp tương đối cao.
Về giấc ngủ của trẻ đều đảm bảo về chăn ấm và phản ngủ, tôi đã đi xin các
lớp ở trung tâm những miếng xốp ngủ, chăn cũ, quần áo cũ sau đó về vệ sinh
sạch sẽ đem cho trẻ trên phân hiệu để đảm bảo cho trẻ về mùa đông không bị
rét.
Hàng ngày tôi dạy trẻ cách giữ gìn vệ sinh cơ thể, dạy trẻ một số kỹ năng tự
phục vụ bản thân như: rửa tay, rửa mặt, vệ sinh đúng nơi quy định …
Phối hợp với y tế nhà trường theo dõi và đánh giá sức khỏe của trẻ, để từ
đó có hướng điều chỉnh dinh dưỡng phù hợp với từng trẻ.
Trẻ khỏe, sạch sẽ, ngoan ngoãn và hoạt bát thì bất cứ phụ huynh nào cũng
thích cũng muốn cho con đi học, từ đó giúp tôi gây dựng được lòng tin từ phụ
huynh và sự tin tưởng của trẻ.
Công tác giáo dục trẻ
Cùng với việc duy trì đảm bảo tỉ lệ chuyên cần của trẻ tại nhóm/lớp thì mục
tiêu chính của việc huy động trẻ ra lớp là thực hiện công tác chăm sóc giáo dục
trẻ theo các lĩnh vực phát triển trong chương trình Giáo dục mầm non. Trẻ ở độ
tuổi này rất thích những hình ảnh sinh động, màu sắc sặc sỡ nên trong các hoạt
7


động giáo dục tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng, đồ chơi phong phú như: đồ chơi
rau củ, quả, các viên gạch nhỏ, quả bóng, bông hoa nhiều màu sắc ....và tranh
ảnh, mô hình theo chủ đề và hướng trẻ “Học mà chơi- chơi mà học” với những
đồ chơi đó.
Để trẻ tiếp thu kiến thức phù hợp với vùng miền tôi luôn chú trọng công tác
tăng cường tiếng Việt cho trẻ qua hình thức kết hợp song ngữ: tiếng Dao - tiếng

Việt bằng cách sử dụng những câu hỏi đơn giản, dễ hiểu để khuyến khích trẻ trả
lời được các câu hỏi của cô thông qua các hoạt động như trò chuyện sáng, tăng
cường tiếng việt. Tôi luôn tìm tòi những hình thức dạy học sôi động và thu hút
trẻ tham gia cùng mình, tạo sự hấp dẫn trẻ với mỗi môn học.
Trong quá trình giảng bài bản thân tôi luôn nghiên cứu kỹ và truyền đạt đến
trẻ một cách ngắn gọn, chi tiết và dễ hiểu nhất. Tôi thường tổ chức nhiều hoạt
động học tập trên lớp và ngoài giờ để thu hút trẻ đến trường: Ví dụ: Trong chủ
điểm “ Một số nghề phổ biến “ tôi khích lệ học sinh đến thăm quan gia đình một
trẻ trong lớp với thời lượng thời gian cân chỉnh hợp lý … tạo sự hứng khởi và
mong muốn được trải nghiệm, trẻ của tôi rất hào hứng với mỗi ngày đến lớp.
Ngoài ra tôi luôn khích lệ trẻ bằng những món quà nhỏ để trẻ hứng thú tiếp
thu bài hơn và mong chờ đến hôm sau để được học và được nhận quà.
Từ những công tác chăm sóc và giáo dục đó tôi đã nhận được nhiều sự ủng
hộ từ phụ huynh, trẻ thì yêu quý trường lớp, thích đi học, phụ huynh tin tưởng.
5. Làm tốt công tác tuyên truyền mọi lúc mọi nơi, tham mưu phối kết
hợp.
Tuyên truyền với phụ huynh học sinh:
Khi trẻ tiếp thu được các kiến thức cơ bản, tôi sử dụng hình thức tích hợp
tuyên truyền tới các bậc phụ huynh qua chính con em của mình bằng cách trước
khi trẻ đi học về tôi dặn dò trẻ về nhà múa hát, đọc thơ…. cho ông bà, bố mẹ
cùng nghe. Qua việc làm đơn giản trên tôi thấy phụ huynh rất vui vẻ và yên tâm
với công tác chăm sóc giáo dục của tôi, thường xuyên cho con đi học.
Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học. Ở tuần đầu
tiên, tôi tổ chức họp lớp và phụ huynh trong lớp tôi nói rất kĩ về nội quy nhà
trường, lớp về thời gian đón trẻ và trả trẻ theo mùa, trong đó có phần quy định: “
Học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ
xin phép” và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở. Đồng thời tuyên
truyền về tầm quan trọng của việc cho con em ra lớp đều, đúng độ tuổi. Tầm
quan trọng của việc duy trì và đảm bảo tỷ lệ chuyên cần. Cùng phụ huynh trao
đổi và thảo luận về một số cách thức vệ sinh, phòng chống rét, bệnh tật…

Thường xuyên trao đổi thông tin với các bậc phụ huynh về tình hình sức khoẻ
của trẻ hàng ngày qua giờ đón, trả trẻ để có biện pháp chăm sóc phù hợp.
Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học ( vì cha mẹ đi làm không
có ở nhà) , hết giờ dạy, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ huynh
tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi cách khắc phục. Có những gia đình phải đến
tìm hai đến ba lần mới có thể gặp được và đôi khi phải nhờ đến thôn trưởng đi
cùng.
8


Đối với những phụ huynh đi làm ít gặp, tôi thường xuyên gọi điện thoại
trao đổi về tình hình của trẻ trên lớp cũng như động viên gia đình quan tâm tới
con trẻ và cho trẻ đến trường. Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ
nhiệm chỉ nghỉ học một đến hai ngày không phép thì đến hôm sau đi học lại
bình thường.
Hơn nữa tôi cũng phổ biến cho phụ huynh hiểu được những chế độ mà trẻ
nhận được từ nguồn hỗ trợ của nhà nước khi trẻ đi học như: Chế độ ăn trưa, chế
độ miễn giảm học phí và một số chế độ khác mà các học sinh vùng dân tộc thiểu
số được hưởng… để phụ huynh yên tâm hơn khi cho trẻ đến lớp.
Tham mưu phối kết hợp với Ban giám hiệu nhà trường.
Với những hộ gia đình chưa cho con đi học thường xuyên, các cháu còn
hay nghỉ để đi nương cùng bố mẹ tôi thường xuyên tới tận gia đình để vận động
cho cháu về học. Mặt khác tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường báo cáo với
chính quyền xã danh sách tên trẻ, tên bố hoặc mẹ, điểm bản của những trẻ đi học
chưa đều đề nghị UBND xã có biện pháp chỉ đạo kịp thời.
Để khắc phục thời tiết những ngày mưa, rét đậm rét hại tôi đã vận động
các bậc phụ huynh tại điểm trường trung tâm quyên góp, quần áo ấm , tất cũ..
sau đó vệ sinh sạch sẽ và phát cho các trẻ.
Qua thực thế vận dụng hình thức trên tôi thấy đa số các bậc phụ huynh đã
yên tâm hơn khi cho con đến lớp vào những ngày thời tiết xấu, các cháu đã nắm

bắt được kiến thức cơ bản trong chủ đề, lình hội được những kiến thức mà tôi
cần trẻ đạt được…
Tuyên truyền Giáo dục duy trì tỷ lệ chuyên cần ở mọi lúc mọi nơi.
Với trẻ : Trong những giờ trên lớp và trong các hoạt động hàng ngày của
trẻ trên lớp, tôi luôn lồng ghép đan xen giáo dục vào các môn học về chuyên
cần, giúp trẻ nhớ lâu và ý thức thấm dần.
Ví dụ: Trong giờ đón trẻ: Tôi hướng dẫn trẻ cách chào hỏi, cất đồ dùng và
không quên khen trẻ đi học đều, đi học đúng giờ, cho trẻ lấy cờ … để tạo cảm
giác thoải mái phấn chấn khi trẻ tới lớp.
Trong giờ học: Với chủ điểm trường mầm non, tôi giới thiệu những điều
trẻ được học, được làm tại trường như: được chơi đồ chơi, được hoạt động trải
nghiệm cùng tưới nước cho hoa, chăm sóc hoa… và khơi gợi trí tò mò của trẻ
theo mỗi chủ điểm, tạo cho trẻ cảm giác mong chờ tìm hiểu.
Cuối ngày: tôi cùng trẻ đánh giá lại hoạt động của một ngày
Với phụ huynh: Ngoài trong các buổi họp thì tôi luôn tranh thủ thời gian
lúc đến thăm gặp gia đình, trong các buổi lao động, các buổi họp thôn có mặt
của trưởng thôn, hay chỉ là những cuộc gặp gỡ ở dọc đường tôi đã trao đổi và
động viên các gia đình cho trẻ đi học đều và tầm quan trọng của việc cho trẻ đến
trường.

9


6. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa.
Nhằm mục đích xây dựng cơ sở vật chất và cảnh quan trường học cho trẻ
vì trẻ ở vùng dân tộc thiểu số đã khó khăn điều kiện kinh tế không có, những đồ
dùng, đồ chơi ngoài trời của trẻ còn sơ sài và thiếu thốn. Tôi đã họp phụ huynh
bày tỏ quan điểm về sự thiếu thốn và kêu gọi sự ủng hộ ngày công và góp vật
liệu của các bậc phụ huynh để tự làm nên những đồ dùng, đồ chơi cho trẻ. Nói đi
đôi với làm và làm cùng phụ huynh nên chúng tôi đã có những sản phẩm như:

chiếc bập bênh được làm từ cây tre, cây vầu. bập bênh làm từ lốp xe bỏ đi mà
chúng tôi xin về…
Để học sinh có cơ hội trải nghiệm hơn về kỹ năng sống tôi nhờ sự giúp đỡ
của phụ huynh, của đoàn thanh niên để san đất và lấy đá về làm vườn rau, vườn
hoa, khu vận động cho trẻ.
Để cảnh quan trường học thêm xanh – sạch tôi đã nhờ phụ huynh góp một
số cây bóng mát và đào hố trồng cây quanh khu vực sân trường.
Ngoài ra tôi còn kêu gọi sự ủng hộ của tất cả các bậc phụ huynh ở trường
trung tâm hỗ trợ về một số những vật liệu mà trên phân hiệu không có được như:
một số hộp sơn, lõi gỗ, lốp xe, quần, áo, mũ tất …
Những đồ dùng đồ chơi do chính bàn tay người dân làm ra nên việc sử
dụng cũng có ý thức hơn rất nhiều, các em học sinh tiểu học không còn nghịch
phá các đồ chơi, mô hình, nếu có thì chỉ còn một phần nhỏ.
Với những việc làm đó giúp một phân hiệu vùng cao tuy không được lộng
lẫy như trường trung tâm, nhưng ở đây với sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, sự
góp sức nhiệt tình của bà con, sự đóng góp từ bản thân tôi và giáo viên cùng
nhóm lớp cũng đã làm nên một nơi gọi là “ Khu vườn cổ tích của trẻ “ điều này
cũng phần nào góp sức vào việc kích thích trẻ đến trường.
7. Thái độ, Tinh thần tích cực học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn.
Luôn chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Tuân thủ theo quy định của ngành, chấp hành tốt mọi quy định của
thôn bản nơi công tác.
Luôn có thái độ hòa nhập, gần gũi và chia sẻ với bà con dân bản, Có thái
độ cư xử đúng mực. Tôi luôn tham gia nhiệt tình các phong trào, phong tục tập
quán của bà con như : Cùng hướng dẫn bà con tập một vài tiết mục văn nghệ
trong ngày hội đại đoàn kết dân tộc. Cùng bà con lao động giữ sạch thôn buôn,
ra suối nhặt đá xếp vườn hoa cho trẻ … Tôi tham gia tất cả các hoạt động cùng
bà con khi có thể.
Ví dụ: Trong phong trào tình nguyện xây dựng sân trường cho trẻ vào
ngày thứ bảy và chủ nhật tôi cũng đã phối kết hợp với câu lạc bộ Airblade, đoàn

viên thanh niên trong thôn và bà con thôn bản góp công sức để cùng san đất,
trộn bê tông và đổ sân trường cho trẻ. Mỗi hoạt động như vậy tôi có cơ hội gần
gũi và hòa nhập hơn với bà con nơi mình công tác.
10


Chăm lo đến đời sống của trẻ một cách thật tâm nhất. Trẻ rét thì tôi đi xin
chăn, xin dép, xin tất… trẻ bẩn thì tôi gội đầu tắm rửa cho trẻ và chỉ dẫn trẻ thực
hiện một số thao tác tự vệ sinh, giũ gìn vệ sinh. Để tạo sự tin tưởng, yên tâm của
bà con khi giao con mình cho cô giáo.

Hình ảnh: Tặng tất đeo chân cho học sinh mùa lạnh
Luôn công bằng đối với trẻ và có tình yêu thương trẻ, đánh giá trẻ một
cách công bằng nhất, không đối xử phân biệt, cách hình thức đánh giá luôn có
chiều hướng mở khuyến khích để trẻ cố gắng chứ không tạo áp lực khiến trẻ lo
sợ, tự ti.
Vui chơi, học tập cùng trẻ đặc biệt là tăng cường tiếng việt cho trẻ tạo cho
trẻ cảm giác an toàn thân thiết để trẻ không tự ti khi tiêp xúc với người lạ. Cùng
trẻ khám phá, tìm hiểu … giúp trẻ thoải mái và dễ dàng lĩnh hội kiến thức cũng
như mong muốn đến trường.
Chủ động học vốn từ cơ bản tiếng dân tộc của trẻ thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, qua sách báo và qua chính các trẻ để hiểu trẻ hơn, dễ
dàng tiếp xúc, giao tiếp và gần gũi trẻ hơn.
Tích cực học hỏi, tìm hiểu các biện pháp nâng cao tỉ lệ chuyên cần. Luôn
tích cực học hỏi các đồng nghiệp về các biện pháp nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho
trẻ thông qua kinh nghiệm của các đồng nghiệp trước, qua các phương tiện
thông tin đại chúng, internet…
Tham gia nhiệt tình các phong trào, trải nghiệm các hoạt động thực tế về
việc huy động trẻ mầm non ra lớp.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN

Qua một thời gian thực hiện các biện pháp nhằm nâng cap tỉ lệ chuyên cần
cho trẻ tôi đã đạt được những hiệu quả rõ rệt. Đề tài nghiên cứu giúp tôi có
những định hướng phù hợp trong công tác nâng cao sĩ số cho trẻ em vùng dân
tộc thiểu số . Sau khi vận dụng đề tài đã góp phần nâng cao ý thức của phụ
huynh học sinh, góp phần đắc lực cho quá trình hình thành thói quen nề nếp đi
học cho trẻ.
11


Qua các biện pháp trên và cùng với thời gian thực nghiệm tại nhóm lớp tôi
nghiệm thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Khảo sát về tỉ lệ chuyên cần của học sinh tại nhóm/lớp:
Nội dung khảo sát

Số trẻ

%

Đi học đều

12

92,3

Đi học chưa đều

1

7,7


Nghỉ học không lý do

0

0

Tổng

13

100

Bảng 2: Khảo sát về nhận thức của các bậc phụ huynh trong việc cho
con ra lớp (Tổng số phụ huynh được khảo sát: 13/13 phụ huynh )
Phụ huynh tán thành

Phụ huynh
thành

chưa tán

Tổng số

%

Tổng số

%

7,7


12

92,3

15,3

11

84,6

7,7

13

100

Nội dung khảo sát
Con còn nhỏ không cho
1
đi học
Khi có sự thay đổi về
thời tiết cho con nghỉ 2
học
Chưa có điều kiện đóng
0
góp

Qua kết quả kiểm tra trên tôi nhận thấy tỉ lệ chuyên cần của trẻ tăng lên
đáng kể so với thời điểm khảo sát, đặc biệt nhận thức của phụ huynh đã thay đổi

rõ rệt, cụ thể, trẻ ra lớp đều dặn chỉ có 1 trẻ 3 tuổi do nhà xa, bố mẹ đi làm xa ở
nhà với bà nên đi học đôi khi còn chưa đều nhưng phụ huynh đều gọi điện xin
nghỉ chứ không nghỉ không lý do như trước đây. Nhiều phụ huynh còn mang
đóng góp cho nhà trường những nguyên vật liệu như tre, nứa, cát, sỏi và đến làm
các công trình giúp trường như làm sân chơi, vườn hoa, vườn rau cho trẻ.
C. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa - bài học kinh nghiệm:
a. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Sáng kiến kinh nghiệm“Một số biện pháp nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho
trẻ vùng dân tộc thiểu số” giúp giáo viên công tác tại vùng dân tộc thiểu số có
những định hướng phù hợp trong việc vận động và duy trì sĩ số lớp. Qua đó góp
phần nâng cao ý thức của phụ huynh học sinh trong việc cho con em đến trường
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
b, Bài học kinh nghiệm.
12


Qua nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm trên bản thân tôi đã đúc kết ra một
số kinh nghiệm sau:
Làm tốt công tác dân vận, xã hội hoá giáo dục.
Yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề và gắn bó với sự nghiệp giáo dục
vùng cao.
Tích cực học tiếng địa phương và tích cực tìm hiểu những phong tục tập
quán của dân tộc ở địa phương nơi công tác. Mặt khác không ngừng học tập để
nâng cao trình độ chuyên môn.
Tham mưu phối kết hợp với Ban giám hiệu nhà trường, cấp uỷ chính
quyền địa phương trong việc vận động nhân dân ủng hộ, thường xuyên tu bổ cơ
sở vật chất, đảm bảo công tác an ninh cho lớp học.
Chân thành cởi mở, hoà đồng với nhân dân và phụ huynh tại địa phương.
3. Ý kiến đề xuất:

Để thực hiện tốt các biện pháp nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho trẻ cần có sự
đầu tư về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị dạy học để thu hút trẻ tới trường,
lớp.
Kiến nghị với Phòng Giáo Dục và Đào Tạo Văn Bàn thường xuyên tổ chức
các lớp tập huấn xây dựng môi trường lớp học, làm đồ dùng đồ chơi … để giáo
viên nâng cao kỹ năng xây dựng môi trường lớp học phù hợp tại địa phương.
Kiến nghị với các cấp chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức các
buổi giao ban, họp bản để trao đổi các vấn đề về giáo dục vùng cao đặc biệt là
giáo dục mầm non.
Kiến nghị với Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp liên quan
có nhiều chế độ hỗ trợ học tập cho trẻ .
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về việc xây dựng “Một số biện
pháp nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho trẻ vùng dân tộc thiểu số ”. Đây là những
suy nghĩ của bản thân tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Nên không thể tránh
khỏi sự thiếu sót, song tôi mong rằng đề tài này sẽ góp phần nào vào việc nâng
cao tỉ lệ chuyên cần cho trẻ vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Kính mong hội
đồng khoa học xem xét và bổ sung những vấn đề còn thiếu, còn yếu hoặc chưa
phù hợp để tôi tiếp tục rèn luyện và điều chỉnh để góp phần vào việc nâng cao tỉ
lệ chuyên cần cho trẻ vùng dân tộc thiểu số nhằm chăm sóc và giáo dục trẻ đạt
kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn. !
Xác nhận của nhà trường

Văn Sơn, ngày 27 tháng 12 năm 2015.
Người viết

Phạm Thị Hải
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13



1. Hướng dẫn thực hiện Chương trình chăm sóc giáo dục MN đổi mới dành cho
các độ tuổi - Tác giả: TS. Trần Thị Ngọc Trâm - TS. Lê Thu Hương - PGS.TS.
Lê Thị Ánh Tuyết - NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2012.
2. Giáo dục học mầm non -Tác giả Phạm Thị Châu,- Nguyễn Thị Oanh, Trần
Thị Sinh - NXB ĐHQG Hà Nội4. Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho trẻ
mầm non - NXB ĐHQGHN, năm 2010.
3. Những hoạt động vui chơi dành cho trẻ vùng cao ( sưu tầm )
4. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non các lớp mẫu giáo ghép.
Biên soạn Lý Thị Hằng, Phan Lan Anh ( đồng chủ biên )
5. Cách thức tạo lòng tin ở trẻ và phụ huynh vùng cao ( sưu tầm )

14


MỤC LỤC
Tên mục
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Trang
1
2-5

I. Cơ sở lý luận

2

II. Thực trạng của vấn đề


3

1. Thuận lợi

4

2. Khó khăn

4

3. Khảo sát đầu năm

5

III. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề.

5

1. Tìm hiểu hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh.

5-6

2. Nắm chất lượng của học sinh từ những năm học trước.

6

3. Tạo những môi trường thân thiện để thu hút trẻ đến lớp.

6-7


4. Tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục theo hướng tích hợp " học
mà chơi, chơi mà học ".

7-8

5. Làm tốt công tác tuyên truyền mọi lúc mọi nơi, tham mưu phối kết hợp.

8-9

6. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa.

9-10

7. Thái độ tinh thần tích cực học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn.

11

IV. Hiệu quả của sáng kiến

11

C. KẾT LUẬN

12

15


1. Bài học kinh nghiệm


12

2. Ý kiến đề xuất

13

16



×