Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 qua môn tiếng việt 1 – CGD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.4 KB, 19 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC
SINH LỚP 1 QUA MÔN TIẾNG VIỆT 1- CGD
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển những cơ sở ban đầu về nhân cách con người. Kỹ năng đọc là sự khởi
đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập
và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất
trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng khơng
thiếu được trong chương trình mơn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các
em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết
các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa,
sách tham khảo... từ đó có điều kiện học tốt các mơn học học khác có trong
chương trình.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc,
viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt,
hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các
em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được
nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc ... Mặt khác ở lớp
Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trơi chảy thì khi lên các
lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Các em sẽ ham học, tích cực
trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt mức Hồn thành tốt.
Hơn nữa thơng thạo giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm
bắt các mơn học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh
được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần hình thành


nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển tồn diện
về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh. Chính vì những lý do
trên mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh


lớp 1 qua môn Tiếng Việt 1 – CGD” .

1.2. Điểm mới của đề tài :
Giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn do sự phát triển tâm lý chưa đầy
đủ để có phương pháp luyện đọc, chiếm lĩnh tri thức một cách có hệ thống,
khoa học, phát triển năng lực trí tuệ. Giúp cho học sinh nắm chắc chắn hơn
về phần ngữ âm, cách đọc mơ hình tiếng Ngun, phân tích tiếng trong mơ
hình, biết đọc và phân biệt đúng các kiểu vần như: Vần chỉ có âm chính, vần
có âm đệm và âm chính, vần có âm chính và âm cuối .... Từ đó tạo hứng
thú học tập từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay,
đọc diễn cảm của mỗi học sinh. Bên cạnh đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn Tiếng Việt 1 – CGD.

1.3. Phạm vi sử dụng đề tài :
Đề tài mà tôi nghiên cứu này áp dụng cho giáo viên giảng dạy lớp 1 –
CGD bậc Tiểu học .

II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Thực trạng dạy và học Tiếng Việt 1 - CGD ở trường Tiểu học
tôi đang dạy .
Đầu năm 2019 – 2020 tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm
lớp 1C với sĩ số lớp 25 em gồm 13 nam, 12 nữ và trực tiếp dạy phân môn
Tiếng Việt 1 – CGD. Từ khi nhận lớp tháng 8 năm 2019 đến tháng 1 năm
2020 tôi thường xuyên nghiên cứu thiết kế, tài liệu, tạp chí,... để tìm hiểu
và thấy được một số thực trạng như sau:
1. Về giáo viên:


* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm , chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo về chuyên

môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên. Tổ trưởng chuyên môn và cán bộ quản lý
...cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường tổ chức sinh hoạt
chuyên môn hàng tuần, hàng tháng, thao giảng dự giờ thảo luận theo chuyên
đề từ đó rút ra những ý kiến hay, những bài học bổ ích vận dụng vào trong
quá trình giảng dạy hằng ngày.
- Số giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp nắm bắt phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học mới tạo điều kiện cho học sinh tích cực khám phá,
chiếm lĩnh kiến thứ có hệ thống.
- Giáo viên có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ, tay nghề và luôn trăn trở về phương pháp dạy học
Tiếng Việt 1 – CGD.
- Giáo viên nắm chắc tiến trình tiết học, đi đúng mục tiêu của bài dạy.
- Giáo viên đi đúng phương pháp, sách thiết kế.
- Đội ngũ giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy
nhiệt tình, tâm huyết với nghề dạy học.
- Giáo viên ln có ý thức vận dụng linh hoạt về đổi mới phương pháp
dạy học.
* Khó khăn:
- Sách thiết kế phục vụ cho giáo viên giảng dạy gồm 3 quyển với ba
quy trình khác nhau vì vậy rất mất thời gian cho giáo viên nghiên cứu đi
đúng tiến trình.
- Có giáo viên cịn nóng vội trong giảng dạy.
2. Về học sinh:
* Thuận lợi


- Ở độ 6-7 tuổi học sinh lớp 1 các em cịn rất ngoan, dễ vâng lời thầy
cơ giáo, người lớn, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động
viên khen thưởng,...

- Nhiều phụ huynh quan tâm, có trách nhiệm cao về việc học tập của
con cái mình. Biết phối hợp chặt chẽ với nhà trường, giáo viên để mua sách
vở, đồ dùng học tập phục vụ cho việc học tập đạt kết quả cao...
* Khó khăn:
- Nhiều em chưa đọc thuộc 29 chữ cái
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh các em phát
triển học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn
bạn bình thường, kèm theo sự phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên
sau, chậm tiến .
- Vốn từ của các em cịn q ít .
- Kĩ năng nói , giao tiếp còn hạn chế.
- Do ảnh hưởng phương ngữ theo vùng miền các em phát âm sai s/x;
d /gi /r...
- Nhiều em đọc còn ngọn , đọc sai dấu thanh hỏi, thanh ngã...
- Học sinh đọc , phát âm sai vần : anh /ân; ong, ông; âc/ưc; inh/ ênh;
at/ât/ ăt...
- Một số em yếu khi học sang phần nguyên âm đơi hoặc âm đệm ( vì
một kiểu vần lại có cách đánh vần riêng) cịn nắm chưa chắc nên gặp khơng
ít khó khăn.
- Một số em nhà ở xa trường, bố mẹ làm nghề nơng ít có thời gian
quan tâm đến việc học tập của con cái.
3. Về chương trình Tiếng Việt 1 – CGD


- Phương pháp dạy học mới khơi gợi tính sáng tạo, tự giác tiếp thu
bài, tạo sự hứng thú giúp học sinh hoạt động tích cực, khám phá và chiếm
lĩnh kiến thức mới.
- Dạy phương pháp mới giúp học sinh nắm chắc kiến thức ngữ âm,
chất lượng môn học Tiếng Việt của học sinh đã có sự chuyển biến rõ rệt hơn
nhiều so với trước.

- Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên,
nhiều học sinh chưa biết hết các chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính
tả. Trong q trình học, các em cịn phải phân biệt được tiếng có âm đầu;
tiếng có âm chính; tiếng có âm đệm, âm chính; tiếng có âm đệm, âm chính
và âm cuối, … Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có
thể ghép âm thành vần, tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh đã phải đọc những
bài dài 30 - 33 tiếng, có bài học bốn vần , có khi học sáu vần một ngày đối
với HS lớp một là quá nhiều)
- Nhiều bài đọc không gần gũi với học sinh nên học sinh khó nhớ.
4. Những lỗi về phát âm thường thấy của học sinh lớp 1 khi học
Tiếng Việt.
4.1. Sai về phụ âm đầu
- Đây là lỗi mà nhiều em mắc phải, nguyên nhân này có thể do ảnh
hưởng của tiếng địa phương, do nói theo bạn nhiều thành quen( bạn phát âm
sai), do bản thân các em chưa kiên trì luyện tập, do bộ phận phát âm chưa
hồn chỉnh vì vậy dẫn đến phát âm khơng chuẩn từ đó làm cho người nghe
hiểu sai ý muốn nói.
VD: “sáo sậu” ý muốn nói đến con chim “sáo sậu” nhưng lại phát âm
là “xáo xậu ” làm cho người nghe hiểu sai ý muốn nói.
4.2. Sai về dấu thanh


- Lỗi về dấu thanh là lỗi HS thường xuyên bị mắc phải và lỗi về dấu
thanh rất khó sửa, cần nhiều thời gian và kiên trì luyện tập.
VD: “ củ sả” ý muốn nói đến củ sả để nấu ăn, nhưng HS phát âm
thành “ cụ sạ” dẫn đến người nghe khơng hiểu được nghĩa muốn nói.
4.3. Sai về vần
Lỗi này thường mắc ở một số em do thói quen sử dụng từ ngữ
của vùng miền (gấc – gức, cong – công, bệnh – bạnh , rượu –
riệu, thanh - thân,...)

VD: “ cơ Thanh” ý muốn nói đến cơ tên Thanh nhưng HS lại phát âm
lại đọc là “ cô Thân” làm cho người nghe hiểu lầm sang tên cô là Thân.
Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh
đầu năm kết quả như sau: ( Tháng 9/2019)
TSHS Hoàn thành tốt
25
3

Hoàn thành
20

Chưa hoàn thành
0

II.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đọc sai của học sinh tiểu học hiện
nay là:
Từ việc điều tra, tìm hiểu, tôi thấy việc đọc sai của học sinh lớp 1 chủ
yếu tập trung ở một số nguyên nhân sau:
Một là: Do ảnh hưởng của phương ngữ
Hai là:

Các em chưa hiểu một cách sâu sắc, cặn kẽ về nghĩa của

tiếng, của từ, của câu.
Ba là: Chưa ý thức được phải phát âm chuẩn thì người nghe mới hiểu
hết nghĩa mà mình muốn diễn đạt.
Bốn là: Do bản thân các em đọc sai lại chưa kiên trì, tự giác tập luyện
để sửa sai.



II.3. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua phân môn
Tiếng Việt 1 - CGD
Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến đọc sai của học sinh
lớp 1 theo tôi để khắc phục những hạn chế trên cần chú ý đến một số biện
pháp sau:
Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh phát âm
Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng
hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết,
kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học
sinh phát âm, cần dùng lời nói rõ ràng, mạch lạc, đơn giản để
học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng.
Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên
cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi – răng
– lưỡi, độ mở khẩu miệng, tự phát âm và cảm nhận bằng
luồng hơi đi ra, …)
VD: Khi học sinh sai lẫn âm s /x giáo viên cần hướng
dẫn:
+ Âm s: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh,
dứt khoát.
+ Âm x: Lưỡi thẳng, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở
miệng cho hơi thốt ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo
dài. Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên có
thể yêu cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để đọc
âm s
rõ).

(đối với âm x, khi bóp mũi lại sẽ khơng thể đọc được


VD: HS sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac”

đọc thành “at”:, giáo viên cần hướng dẫn:
+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên
mặt lưỡi.
VD: HS sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ
thống bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần
hướng dẫn:
- Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ - đi ngụ, cử
tạ - cự tạ, củ sả - cụ sạ…)
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh
phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể
kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt
khốt (khơng kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật
đầu.
- Những tiếng có thanh hỏi – thanh ngã (em bé ngã – em bé
ngả, lọ mỡ - lọ mở, ghế gỗ - ghế gổ…)
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài,
luyến giọng, lên cao giọng. ( VD: ngã ba ; hướng dẫn, đưa
võng,....)
+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có
thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, khơng kéo dài. ( VD: gói
bánh, Thánh Gióng, chóng lớn,....) học sinh có thể dễ dàng
phát âm và đạt hiệu quả cao.
Biện pháp 2: Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn


Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cơ
giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí
của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo.

Các em thích mình giống như thầy cơ và người lớn. Các em
thường “bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời
nói, cử chỉ, chữ viết …Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ
yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố gắng
cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai,
viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm
tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác.
Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không
khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở
nên nhàm chán và khơng phát huy được tính tích cực, chủ
động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương
pháp này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh
dù qua hướng dẫn, không thể tự mình phát âm đúng. Khi vận
dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn
luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe
tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế
học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Người giáo viên
khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần
biết phối hợp với thuật “hình mơi” nhằm hướng dẫn các em
phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà khơng
nhìn miệng cơ đọc thì việc phát âm sẽ khơng đạt hiệu quả
cao, vì trong mơn Tiếng Việt 1- CGD việc quan sát môi cô khi
phát âm âm mới là rất quan trọng.


Biện pháp 3: Khuyến khích học sinh phát hiện và
điều chỉnh lẫn nhau
Hoạt động dạy – học luôn luôn được thực hiện trong mối
quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo
viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự

tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên
đơn điệu, khơng phát huy được tích cực, chủ động của học
sinh, đồng thời bầu khơng khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng,
tự nhiên; người giáo viên cũng khơng thể hiện rõ được vai trị
là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tịi, lĩnh hội kiến thức
mà trong mơn Tiếng Việt 1 – CGD thì phương châm là “ thầy
thiết kế - trị thi cơng”. Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm
cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan
hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú
trọng việc rèn cho các em có kĩ năng nghe – nhận xét – sửa
sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ
năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói
quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận
xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai
cho mình. Đồng thời cịn rèn luyện cho các em tác phong
mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp
phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế
sẽ tạo được bầu khơng khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện,
đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực.
Biện pháp 4: Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh


Rèn cho học sinh có tính kiên trì là nhiệm vụ quan
trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình
thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lịng kiên trì,
học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao
nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm
chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu
cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy,

giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh
phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh
bằng những lời khen “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cố gắng
thêm tí nữa nhé”, “em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên
nhé”…được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lịng
vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được
thì mình cũng sẽ làm được…từ đó học sinh sẽ quyêt tâm hơn.
Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học
sinh do lười biếng, khơng muốn rèn luyện mình nên chỉ phát
âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành
quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những đối tượng
này, giáo viên phải thật nghiêm khắc, khen – chê đúng mực
để các em thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt, mình
cần phải thể hiện hết khả năng của mình.
Biện pháp 5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi
nơi, mọi lúc
Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ
hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng việt
mà cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết


học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì
những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự
nhiên nhất. Người giáo viên cần chú ý quan sát để phát hiện
những lỗi phát âm của các em và kịp thời sửa chữa, đồng
thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ
nơi đâu.
Biện pháp 6. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát
âm cho học sinh
Giáo viên có thể cùng bàn bạc và thảo luận với phụ

huynh nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm
bắt được, từ đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho các em
khi ở nhà. Với một số em cá biệt về phát âm, giáo viên có
thể gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên họ nên
chọn mua những quyển truyện tranh trong đó có lời đối thoại
nhiều phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn và dành thời gian
đọc, kể cho các em nghe, dạy em kể lại chuyện. Ngoài ra cần
nhắc nhở phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách
phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ
huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là mơi
trường giáo dục cho các em khi ở nhà. Như vậy việc phối hợp
giữa gia đình và nhà trường đều tạo mơi trường phát âm
chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc
phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai
không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hồn
chỉnh, cũng khơng phải do các em chưa hiểu cách phát âm
mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu).


Đối với những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ
ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các
em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa
của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh
phát âm sai theo cách nói của địa phương. Ngồi ra, người
giáo viên hồn tồn có thể thơng qua họp phụ huynh học
sinh, qua phiếu phối hợp giáo dục giữa giáo viên và gia đình
để hướng cho phụ huynh học sinh có cách dùng từ đúng để
sửa đổi.
Biện pháp 7. Tuyên dương, khuyến khích học sinh.
Tơi đã áp dụng các biện pháp nêu ở trên để áp dụng rèn đọc cho các

em đồng thời cũng thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện pháp
tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo
được khơng khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa
chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tơi
cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em ( VD: “ em đã phát
âm chuẩn hơn hôm qua rồi, cố lên em nhé”, “ em đã có tiến bộ nhiều hơn
rồi, cơ khen em”...), cũng có thể bằng hình thức nhận xét vào vở của các em
khi chấm vở chính tả, với em hay viết sai lỗi s/ x mà bây giờ đã viết sai ít
hơn tơi cũng vẫn khen em đó (VD: “em viết bài có tiến bộ, đã ít sai lỗi s/x
hơn rồi, em cần phát huy” ....). Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà
tơi cịn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có
động lực giúp bạn hơn, hừng thú với cơng việc đó hơn.
II.4. Kết quả nghiên cứu
Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp
về việc rèn đọc cho HS lớp 1 qua phân môn Tiếng Việt 1 – CGD. Để biết
được kết quả bước đầu cả những phương pháp mình thực nghiệm thực tế, tơi


đã cho học sinh của lớp mình thực hành đọc một số bài bất kỳ, em sau không
đọc trùng bài của em trước.
- Điểm 9, 10: Đảm bảo đọc to rõ ràng, lưu lốt, khơng có lỗi về phát
âm.
- Điểm 7, 8: Đọc to, rõ ràng. Phát âm đôi chỗ chưa thật chính xác . Sai
khơng q 3 lỗi chính tả/bài.
- Điểm 5, 6: Đọc còn nhỏ, đọc chậm và cịn sai q 5 lỗi chính tả/bài
- Dưới điểm 5 : chưa đọc được hết bài. Sai nhiều lỗi phát âm.
Sau khi kiểm tra có kết quả như sau:
95% các em đã đọc được hết bài. Tuy nhiên vẫn có em đọc nhỏ, đọc
chậm và có em vẫn sai lỗi phát âm, nhưng nhiều em đã có sự tiến bộ rõ rệt
trong cách đọc cũng như trong số lượng mắc lỗi phát âm của các em đã giảm

rất nhiều.
Cụ thể là:
Căn cứ vào bài chấm tôi thống kê điểm bài đọc của học sinh như sau:
TSHS

25

Điểm 9,10

Điểm 7,8

Điểm 5,6

13

9

3

Dưới điểm 5
0

Từ kết quả đạt được cuối năm học, tôi thấy khả năng đọc cũng như lỗi
phát âm của các em được cải thiện đáng kể, tình trạng đọc ngọng khơng
cịn , chất lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng thú học tập, tạo khơng
khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi mà học. Kết quả cuối học kì I năm
học 2019- 2020 như sau:


TSHS Hoàn thành tốt

25
15

Hoàn thành
10

Chưa hoàn thành
0

Nhận xét
Bằng sự nhiệt tình trong cơng tác nghiên cứu giảng dạy, tơi đã vận
dụng sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng
học sinh lớp 1 để giúp các em đọc tốt, đọc chuẩn, đọc không sai lỗi.
Tuy rằng số lượng các em đọc tốt vẫn còn hạn chế nhưng những biện
pháp mà tôi đưa ra để giúp em đọc tốt hơn phần nào đã giúp các em học sinh
lớp 1B nhìn nhận ra lỗi phát âm của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý.
II.5. Một số bài học kinh nghiệm:
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội càng phát triển càng đòi hỏi con
người khả năng giao tiếp tốt hơn trong mọi hoàn cảnh, mọi mơi trường.
Trong hoạt động giao tiếp, vì vậy phát âm đúng được coi là yếu tố khơng thể
thiếu. Vì vậy, sửa lỗi phát âm cho học sinh là một việc làm thường xuyên và
liên tục trong dạy học. Và cũng là để thực hiện nhiệm vụ “giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt”, để “nói và viết Tiếng Việt sao cho đúng, cho hay”.
Chính vì tầm quan trọng như vậy nên tôi rất trăn trở về đề tài “ Một số biện
pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 qua mơn Tiếng Việt 1 - CGD”
để tìm ra nguyên nhân và đề ra những giải pháp có hiệu quả phục vụ cho
nghiên cứu và giảng dạy.
Ở đề tài này tơi đã tìm hiểu các lỗi về phát âm mà học sinh lớp 1
trường Tiểu học thường mắc phải để từ đó tìm hiểu ngun nhân và tìm ra
những biện pháp khắc phục mang tính khả thi. Hơn nữa tôi cũng mạnh dạn

đề xuất một số biện pháp để hạn chế lỗi sai về phát âm, để rèn kĩ năng đọc


đúng cho học sinh lớp 1. Qua đó, tơi rút ra được một số bài học cho bản thân
như sau:
1. Phải nâng cao nhận thức của giáo viên là biện pháp đầu tiên nhằm
nâng cao chất lượng dạy học.
2. Giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, đi sâu nghiên cứu thiết
kế.
3. Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian
nghiên cứu cho mỗi bài giảng, có kế hoạch và phương pháp giảng dạy theo
từng đối tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp, tạo ra
những giờ dạy gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả học tập cao.
4. Giáo viên phải thực sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy.
5. Mở đầu tiết học cần giới thiệu bài một cách tự nhiên bằng một trò
chơi vừa để củng cố kiến thức cũ vừa để gây hứng thú học tập cho học sinh
nhằm lôi cuốn các em vào nội dung bài mới.
6. Câu lệnh của giáo viên cần ngắn gọn , dứt khoát.
7. Khi đọc mẫu giáo viên cần phát âm chuẩn vì ở lứa tuổi các em bắt
chước rất tốt tránh để tiếng địa phương làm ảnh hưởng đến các em.
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Ý nghĩa của đề tài :
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế tơi thấy người giáo viên
muốn thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì phải miệt mài nghiên cứu tài liệu
và điều quan trọng là phải đi sâu vào thâm nhập đối tượng học sinh để có thể
tìm ra phương pháp giảng dạy tốt nhất giúp cho học sinh hiểu và nắm được
nội dung của vấn đề.
Qua thực tế giảng dạy, qua nghiên cứu chương trình Tiếng việt 1 CGD, trao đổi với giáo viên giảng dạy cùng khối, dự giờ, dạy thử nghiệm,



tiến hành tìm hiểu nguyên nhân việc đọc sai của học sinh và đề ra một số
biện pháp sửa chữa, xem xét kết quả thu được… Tôi đã tự rút ra bài học cho
bản thân về phương pháp, trình độ, năng lực truyền đạt kiến thức cho học
sinh, nhất là việc sửa lỗi phát âm cho học sinh khi đọc, cụ thể là học sinh
lớp 1 là vô cùng cần thiết và cấp bách. Tuy các em học sinh có rất nhiều tiến
bộ song tôi không phải đã thật sự n tâm, bởi vì liệu các em có sửa chữa
khắc phục thường xuyên hay không? Nhưng tôi tin rằng các em sẽ tiếp tục
sửa chữa trong quá trình học tập thường xuyên ở tất cả các môn học.
Từ thực tế giảng dạy cùng với việc nghiên cứu đề tài này, tơi thấy
mình vẫn cịn một số hạn chế, đó là chưa phát huy được tuyệt đối biện pháp
của mình đưa ra cho nên kết quả của việc sửa chữa cách phát âm sai của học
sinh chưa đạt 100%.
Qua đây tôi thấy người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tự rèn
luyện, tự bồi dưỡng cho mình tất cả các kiến thức của mọi môn học để phục
vụ cho việc giảng dạy ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn.
Đối với bản thân tôi sẽ thường xuyên học hỏi, trau dồi kinh nghiệm ,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để vân dụng vào quá trình giảng dạy
nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác.
2. Kiến nghị:
2.1. Đối với nhà trường:
- Khuyến khích giáo viên đầu tư trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống
nhất cách dạy để thực hiện có hiệu quả môn học mới nhưng cũng không hẳn
là mới này.
- Thường xuyên cho giáo viên đi học hỏi, trao đổi cách dạy hay của
các trường bạn trong huyện, trong tỉnh.
2.2. Đối với Phòng GD&ĐT:


- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề và bố trí giáo

viên trực tiếp dạy mơn Tiếng Việt 1 trong huyện tham gia giảng dạy luân
phiên để các trường về dự và cùng nhau thống nhất cách dạy sao cho đạt
hiệu quả cao nhất.
- Cần tạo mọi điều kiện có thể cho các giáo viên trực tiếp dạy Tiếng
Việt 1 có cơ hội nhiều nhất để học tập ở các trường ngoài huyện cũng đang
thực hiện chương trình Tiếng Việt 1- CGD.
- Cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn ở các cấp cao hơn.
Trên đây là một số việc mà bản thân tôi đã thực hiện để rèn kỹ năng
đọc đúng cho học sinh lớp 1 qua môn Tiếng Việt 1 - CGD. Trong điều kiện
còn hạn chế, đề tài này chỉ đề cập đối tượng học sinh Tiểu học thuộc lớp 1 ở
Trường Tiểu học tôi đang dạy. Tôi rất mong được sự giúp đỡ góp ý của các
cấp quản lý, các anh chị em đồng nghiệp để bản thân tơi có những biện pháp
phù hợp hơn trong giảng dạy cho học sinh trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!




×