BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trải qua q trình tiến hố lâu dài con người mới hồn thiện và phát triển
như ngày hơm nay. So với con vật, con người khác xa là nhờ ngơn ngữ, chính
ngơn ngữ là cơng cụ để con người thực hiện hoạt động trí tuệ là phương tiện để
trao đổi tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Nhờ có ngơn ngữ mà người ta có thể trao
đổi, chia sẻ những hiểu biết, những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nỗi
niềm thầm kín, dạy cho nhau cách làm mgười... Theo Vưgơtki – một nhà nghiên
cứu tâm lí người Nga cho rằng: “Ngơn ngữ rất quan trọng trong q trình tư
duy đặc biệt là tư duy bậc cao bởi ngôn ngữ là công cụ để truyền đạt kiến thức
đồng thời là phương tiện để con người thực hiện hoạt động tư duy”.
Lứa tuổi Mầm non là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ. Đối với trẻ ngôn ngữ
được coi là phương tiện để phát triển tồn diện, là cơng cụ để hình thành nhân
cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ tốt sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận được với
các môn học như: làm quen với MTXQ, tạo hình, âm nhạc, làm quen với
TPVH…Nhờ có ngơn ngữ mà khả năng trẻ em cảm thụ sâu sắc hơn cái hay cái
đẹp trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nhờ có ngơn ngữ mà trí tuệ của trẻ
phát triển vì: Ngơn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh,
ngôn ngữ là phương tiện để trẻ biểu hiện sự nhận thức của mình. Ngơn ngữ cịn
có một vai trị không nhỏ trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Ngơn ngữ góp
phần trang bị cho trẻ dồi dào những hiểu biết về những nguyên tắc và những
chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù
hợp với xã hội mà trẻ đang sống. Ngôn ngữ cũng là một một phương tiện để trẻ
thực hiện Hoạt động vui chơi - Hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo... Song ngôn
ngữ của trẻ đặc bịêt là khả năng phát âm còn chưa đúng hay nói cách khác là trẻ
chưa nói đúng chính âm (ngun tắc phát âm một cách chuẩn mực). Vốn từ của
trẻ cịn nghèo nàn, trẻ chưa nói đúng ngữ pháp, diễn đạt câu cịn lủng củng, chưa
mạch lạc... Để có thể phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non con đường thực hiện
là bắt trước và luyện tập dưới sự hướng dẫn của cơ giáo, của người lớn.Với một
vai trị quan trọng như vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhu cầu tất yếu.
Trường mầm non là nơi tạo điều kiện để trẻ phát triển toàn vẹn nhân cách
trong đó vai trị của nhà giáo duc - của các Cơ giáo mầm non có ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển của trẻ nói chung và sự phát triển ngơn ngữ nói riêng..Vì
vậy nên người lớn, cơ giáo Mầm non phải có một vốn từ phong phú, phát âm
chuẩn, lời nói mạch lạc phải là khn mẫu để trẻ noi theo. Đặc biệt trẻ em tuổi
mẫu giáo 4 -5 tuổi đang trong thời kì hồn thiện dần về ngơn ngữ. Làm thế nào
để dạy trẻ “ nói đúng ngơn ngữ tiếng Việt” là một yêu cầu vô cùng quan trọng.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tên sáng kiến
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi trường mầm
non”
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Bùi Thị Thu Nga
- Địa chỉ: Trường mầm non Thanh Vân
- Số điện thoại: 0982131657
- Gmail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng tạo
- Tác giả: Bùi Thị Thu Nga – Giáo viên trường mầm non Thanh Vân –
Tam Dương –Vĩnh Phúc
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Sáng kiến này được áp dụng vào lĩnh vực Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Mẫu giáo nhỡ 3-5 tuổi, từ đó tìm ra
được một số biện pháp Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu
Từ tháng 02 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019
7. Mô tả bản chất sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Cơ sở lý luận liên quan đến ván đề nghiên cứu
* Cơ sở lí luận:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam”. Dải đất Việt Nam hình chữ “S” trải dài từ Bắc vào Nam với rừng vàng,
biển bạc, đất phì nhiêu. Dân tộc ta từ ngày xưa đã xây dựng cho mình một nền
văn hố đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, ngơn ngữ đóng vai trị rất quan trọng
trong sự phát triển của xã hội loài người. Bác Hồ kính u đã dạy rằng “ Tiếng
nói là thứ của cải vơ cùng lâu đời và vơ cùng q báu của dân tộc. Chúng ta phải
giữ gìn nó, tơn trọng nó”. (Ngơn ngữ và lý luận văn học – Tài liệu dùng cho các
trường sư phạm mẫu giáo). Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất
nước, chúng ta càng thấy rõ vai trị của ngơn ngữ đối với giáo dục trẻ thơ. Ngơn
ngữ đã góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người toàn diện.
* Các lý thuyết liên quan:
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, đóng vai trị quan trọng trong việc phát
triển trí tuệ và các q trình tâm lý. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ được dựa trên
các lý thuyết sau:
* Lý thuyết hành vi chủ nghĩa về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em.
Lý thuyết này coi ngôn ngữ cũng như bất kỳ hoạt động nào được hình
thành do sự bắt chước, luyện tập. Điểm mạnh của lý thuyết này là đã chỉ ra cơ sở
tự nhiên của hoạt động ngơn ngữ.
* Lý thuyết tâm lý học Mác xít.
Tâm lý học Macxit đã nhận thấy sự phát triển tâm lý trẻ chịu sự quy định
của 4 yếu tố: yếu tố sinh lý; sự tích cực của cá nhân trẻ; môi trường và yếu tố
giáo dục.
- Tiền đề sinh lý:
Tâm lý học Mác xít đã chỉ ra rằng trong não của con người có vùng “
brock” ở bán cầu đại não, quyết định sự phát triển ngôn ngữ, vùng “Venicle” ở
thuỳ thái dương quyết định khả năng lĩnh hội ngơn ngữ. Trong tai con người có
hệ thống phân tích ngơn ngữ, trong miệng con người có cơ quan phát âm. Tiền
đề sinh lý là yếu tố quyết định đối với việc phát triển ngôn ngữ. Cô giáo cần
hướng dẫn trẻ bảo vệ các cơ quan này.
- Yếu tố giáo dục góp phần đẩy sự phát triển ngơn ngữ của trẻ.
- Yếu tố môi trường, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc vào yếu tốt
môi trường (môi trườn tự nhiên, môi trường xã hội). Trẻ sống trong môi trường
tốt thì ngơn ngữ của trẻ phát triển theo hướng tích cực và ngược lại.
- Sự tích cực của cá nhân trẻ.
* Lý thuyết to lớn của Vưgôtki về vai trị của ngơn ngữ trong sự phát
triển của tư duy. Vưgôtki cho rằng “Ngôn ngữ rất quan trọng trong quá trình tư
duy đặc biệt với hoạt động tư duy bậc cao của con người. Bởi lẽ ngôn ngữ là
công cụ để truyền đạt kiến thức đồng thời là phương tiện để con người thực hiện
hoạt động tư duy.” (Nguồn: Tâm lý học trẻ em)
* Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ 3-4 tuổi
Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
giáo dục mần non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi,
ngơn ngữ giữ vai trị quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ. Bên cạnh đó ngơn
ngữ cịn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển
về đạo đức và chuẩn mực văn hóa.
* Về mặt ngữ âm:
- Thời kì này trẻ đang hoàn thiện dần về mặt ngữ âm, các phụ âm đầu, âm
cuối, âm đệm, thanh điệu đang dần dần được định vị. Trẻ có thể phát âm gần
đúng hết các âm của tiếng mẹ đẻ.
- Tuy vậy, ở lứa tuổi này, trẻ nhỏ vẫn còn mắc một số lỗi sai về phát âm,
còn nhầm lẫn khi phát âm một vài phụ âm và nguyên âm( x-s, l-n,..uô,ie) và
thanh điệu (?, ~). Mỗi trẻ thường nói sai một âm hoặc một thanh riêng.
- Khi nói trẻ 3-4 tuổi vẫn còn âm ê..a trẻ vẫn phát âm sai thanh ngã và âm cuỗi
* Vốn từ:
PGS.TS Nguyễn Công Khanh, chuyên gia cao cấp của Trường mầm non
Hoàng Gia (Hà Nội) từng chia sẻ rằng khi trẻ lên ba tuổi, trẻ có một vốn từ vựng
khoảng trên một ngàn từ, một số chuyên gia ngôn ngữ khác cũng cho rằng vốn
từ của bé lúc này có thể dao động từ 500-900 từ, và trẻ đã biết dùng các cụm từ
và câu dài từ 7-8 từ.
* Về ngữ pháp:
Khi bước vào tuổi thứ ba, bé yêu của bạn có thể biết đặt câu hỏi và bày tỏ
ý kiến khiến bạn đôi lúc phải kinh ngạc như một người mẹ từng tâm sự rằng chị
chuẩn bị quần áo cho con đi học, cô bé nói “Theo con là, hơm nay con sẽ mặc
màu hồng”. Và lúc này, bé đã học cách yêu cầu, một cách lịch sự như nhờ bố
mẹ, anh chị lấy cái này cái kia đã biết dùng từ “làm ơn”. Chúng có thể nói về
những sự việc trong tương lai và nhắc lại những gì đã qua, chính vì vậy bạn sẽ
phải phá lên cười khi một buổi sáng bé tâm sự với bạn rằng mai này bé thích
làm bác sỹ, hay giáo viên bởi đơn giản bé thấy cô giáo thật xinh hay bác sỹ thì
sẽ chữa bệnh giúp mọi người. Lúc này trẻ đã có thể nói câu đầy đủ (có đủ chủ vị
ngữ và động từ), sau đó hồn thiện hơn với những câu kép, có thán từ rất ngộ
nghĩnh như bé có thể cầm chiếc điện thoại lên rồi nói dõng dạc “Alo….mẹ Na à,
về ngay nhé…ừ ừ ừ, sao, kẹt xe rồi à….nhanh lên nhé” như thật. Chúng cũng
biết “hứa hẹn” một cách rất người lớn như bạn yêu cầu bé thức dậy đến lớp, bé
sẽ nói gọn lỏn “con hứa 5 phút nữa con sẽ dậy”. Hơn nữa, bé yêu của bạn lúc
này đã biết đặt yêu cầu, nếu bạn dẫn bé vào hàng tạp hóa mua bim bim, bé sẽ chỉ
vào món snack khoai tây bé ưa thích và nói “Mua tây tây”(Mua khoai tây). Và
khơng đơn giản, bé đã bắt đầu biết nói dối, nếu bé gây ra một lỗi gì đó bé sẽ biết
cách đổ lỗi cho anh trai, hay những người xung quanh mà bé biết…
* Về ngôn ngữ mạch lạc:
- Trẻ mẫu giáo nhỡ có vốn từ phong phú hơn trẻ mẫu giáo bé về số lượng
cũng như từ loại. Trẻ sử dụng được nhiều loại mẫu câu khác nhau.
- Tư duy phát triển hơn, biết so sánh, nhận ra những điểm giống và khác
nhau của sự vật, hiện tượng. Ở trẻ bắt đầu xuất hiện khả năng tổng quát, đưa ra
kết luận. Ngơn ngữ của trẻ rõ ràng hơn, có nội dung hơn, người nghe dễ hiểu
hơn. Trong ngôn ngữ độc thoại trẻ thường dùng những câu, những đoạn ngắn.
Trẻ thích được trị chuyện với người lớn. Trẻ khơng chỉ đàm thoại về những gì
trẻ đang tri giác mà cịn biết đàm thoại về những nội dung mà trẻ đã biết và biết
đưa ra nhận định của mình. Mặc dù khơng phải lúc nào trẻ cũng đưa ra nhận
định đúng. Trẻ có thể kể lại một chuyện mà trẻ biết hoạc nghe kể, có thể kể theo
tranh hoặc đồ chơi, đồ vật (Kể theo mẫu của người lớn)
* Mục đích của xã hội hóa
Xã hội hóa giáo dục nhằm khuyến khích, huy độngvà tạo điều kiện toàn
diện xã hội tham gia phát triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người, mọi lứu
tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời; tiến tới một xã hội học
tập.
7.1.2. Thực trạng việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trường mầm non
Trong quá trình giảng dạy tại lớp 3 tuổi C của Trường mầm non Thanh
Vân và nghiên cứu đề tài này tơi gặp những điều kiện thuận lợi và khó khăn như sau:
a.Thuận lợi:
Năm 2018- 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3 tuổi c, với 27 cháu
trong đó 17 cháu nữ, 10 cháu nam độ tuổi đồng đều các cháu ngoan ngoãn,
mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, nhận thức, ngơn ngữ và
tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Đó là
một thuận lợi lớn để tôi rèn luyện việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Tôi được ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi xây dựng
môi trường văn học phong phú và có nội dung đa dạng về hình thức, hài hoà về
thẩm mỹ, phù hợp với khả năng nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chun mơn tìm
tịi nghiên cứu tài liệu pục vụ tiết dạy
Trẻ chăm đi lớp, tỷ lệ chuyên cần cao
Đối với phụ huynh: Nhiều phụ huynh quan tâm tới các cháu, ln thực
hiện tốt các phong trào đóng góp của nhà trường để phục phụ cho công tác giáo
dục trong trường.
Về đội ngũ giáo viên: Giáo viên đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, giáo
viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ. Có nhiều giáo viên giỏi các cấp.
Về đồ dùng, đồ chơi: Phong phú, đa dạng, có đồ chơi học tập, đồ chơi sân
khấu, tiện cho việc dạy trẻ.
b. Khó khăn:
Do trình độ nhận thức khơng đồng đều, nhiều trẻ là con em nơng thơn
nên cịn nặng nề bởi thổ ngữ địa phương. Lớp có một vài trẻ chậm nói so với độ
tuổi nên tơi gặp nhiều khó khăn trong việc dạy trẻ.
Hơn 30% trẻ chưa phân biệt sự khác nhau giữa các từ khi phát âm mà chỉ
tiếp nhận một cách chung chung.
Vốn sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức cịn hạn chế dẫn đến tình
trạng trẻ dùng từ khơng chính xác, câu lủng củng, trẻ phát âm sai do ảnh hưởng
của ngôn ngữ xung quanh. Trẻ nói câu chưa đủ thành phần chủ yếu là câu tỉnh
lược.
1/3 là con em công nhân, 2/3 là con em nơng dân nên phụ huynh cịn bận
nhiều cơng việc hoặc những lý do khách quan nào đó khơng trị chuyên với trẻ
hoặc trẻ nghe trẻ nói.
Nhiều khi những nhu cầu mà trẻ muốn trẻ chưa cần nói hoặc xin phép
phụ huynh đã đáp ứng ngay.
Khi nói trẻ hay nói chậm và kéo dài giọng, đơi kho cịn ậm ừ, e, a, khơng
nói liên tục mạch lạc.
Trẻ nói giọng, nói lắp nhiều, nhầm lẫn từ thanh điệu này sang thanh điệu
khác.
Ví dụ:
Ngã trẻ nói ngả (ngạ)
Ngủ
Ngụ.
c. Khảo sát trẻ trước khi áp dụng sáng kiến.
Tổng số trẻ được khảo sát: 27 trẻ.
Nội dung kiểm tra
Số trẻ đạt
Số
trẻ
Tỉ lệ
(%)
Số trẻ không
đạt
Số
trẻ
Tỉ lệ
(%)
Hiểu và làm theo được 2,3 yêu cầu liên tiếp
12
44
15
56
Phát âm rõ tiếng, phát âm các tiếng có chứa 13
các âm khó
48
14
52
Trả lời và đặt câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? 19
Khi nào? Để làm gì?
70
8
30
Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, phù 18
hợp với yêu cầu và hoàn cảnh giao tiếp bằng
câu đơn, câu ghép.
67
9
33
Làm quen với một số kí hiệu thơng thường 20
trong cuộc sống ( nhà vệ sinh, lối ra, biển
báo giao thông).
57
15
43
Đọc thuộc lòng và diễn cảm một bài thơ.
8
30
19
70
Kể lại truyện đã được nghe
3
11
24
89
Kể chuyện sáng tạo theo tranh, theo đồ chơi
13
48
14
52
Đóng kịch theo tác phẩm văn học
5
19
22
82
Dựa vào bảng điều tra thực tế trên tơi nhận thấy trẻ cịn hạn chế như:
Khả năng phát â còn chưa chuẩn; Việc sử dụng từ ngữ diễn đạt trong giao tiếp
với mọi người cịn hạn chế; Vốn từ cịn chưa phong phú, ngơn ngữ chưa mạch
lạc. Trẻ chưa tự tin khi kể chuyện, đọc thơ; chưa biết sử dụng ngữ điệu của nhân
vật khi kể chuyện hoặc đóng kịch theo tác phẩm văn học; chưa có tính sang tạo
khi kể chuyện theo đồ chơi, theo tranh.Tơi rất lo lắng mình phải dạy trẻ như thế
nào và bằng những biện pháp gì để trẻ lớp tôi phát triển ngôn ngữ một cách tốt
nhất. Qua qúa trình nghiên cứu Lĩnh vực phát triển ngơn ngữ cho trẻ và qua thực
tế dạy học tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp Phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 3- 4 tuổi” làm đề tài nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
7.2.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ
Mơi trường cho trẻ hoạt động có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của
trẻ nói chung và phát triển ngơn ngữ nói riêng. Vì vậy, để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ, ngay từ đầu năm học tôi đã chú ý xây dựng môi trường cho trẻ đặc biệt
là “ Góc thư viện sách, truyện”. Khu vực này có các loại sách, các bộ sưu tập
(các con vật, các loại cây, lá, các loại hạt, hoa, các loại ơ tơ hay đồ chơi…), tạp
chí, sách, truyện tranh, bộ tranh… được bày trên bàn, trên giá sách, để trẻ dễ
nhìn và dễ sử dụng. Ở đây trẻ có thể xem tranh mơ tả các đồ vật, kể về các con
vật trong tranh hoặc cắt, dán để làm truyện tranh… Qua đó, giáo viên gợi ý, tạo
điều kiện cho trẻ kể lại, trao đổ với nhau về những điều mà trẻ nhìn thấy, hoặc
kể chuyện sáng tạo. Khi xây dựng “ Góc thư viện sách, truyện” tơi muốn giới
thiệu thêm các tác phẩm văn học trong chương trình và ngồichương trình giáo
dục đến trẻ, bởi trong tiết học thì việc cho trẻ được tiếp xúc với các tác phẩm
văn học cũng có nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ham học hỏi của trẻ ở lứa tuổi
này.
Rối tay
Qua “Góc thư viện sách, truyện”. tơi cịn tổ chức các hoạt động đọc thơ, kể
chuyện, cho trẻ tập đóng kịch để trẻ được nói những ngơn ngữ của các nhân vật
trong truyện để từ đó trẻ làm giàu vốn từ của bản thân. Để gây được sự hứng thú
của trẻ khi tham gia vào các hoạt động đó thì việc tạo khơng gian mang đậm
tính văn học là rất cần thiết, ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh
đóng góp tranh thơ, truyện tranh ngồi chương trình để kể cho trẻ nghe vào các
hoạt động chiều và cho trẻ chơi trong các giờ hoạt động góc.
Bản thân tơi ln tìm tịi, sưu tầm sách truyện, các họa báo, tạp chí cũ,
tìm tịi cách làm rối từ các nguyên liệu bỏ đi như vỏ chai, lõi cuộn chỉ, các
mảnh vải vụn làm rối tay để làm các nhân vật trong truyện phục vụ cho tiết họ
Để tạo hứng thú cho trẻ khi tham học động văn học thì việc tạo môi
trường với các nhân vật ngộ nghĩnh cho trẻ được làm quen là rất cần thiết. Tôi
đã sử dụng vải vụn để khâu thành những chú rối tay ngộ nghĩnh.
Sân khấu được tận dụng từ mảng tường trong lớp học.
Để thu hút trẻ tham gia vào các hoạt động kể chuyện và tập đóng kịch
ngay từ đầu năm học tơi dùng một mảng tường để trang trí thành một sân khấu
sao cho phù hợp với từng cảnh trong truyện và sử dụng vào việc kể chuyện cho
trẻ nghe.
Qua việc tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học như vậy tôi thấy
được trẻ rất hào hứng tham gia các hoạt động đọc thơ, kể chuyện để từ đó ngôn
ngữ của trẻ được phát triển một cách tự nhiện mà có hiệu quả cao nhất.
7.2.2. Biện pháp 2: Phát triển khả năng nghe và nói qua các hoạt
đơng trị chuyện với trẻ và tổ chức trò chơi dân gian
a. Nghe.
Để trẻ nói được tốt, trẻ cần được nghe các âm thanh của ngôn ngữ như:
Nghe nhiều loại âm khác nhau trong các từ, các câu. Nghe ngữ điệu giọng nói
thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau. Trẻ 4-5 tuổi, cần cho trẻ nghe để
dần dần giúp trẻ phát âm đúng các âm khó như p, n, ls, x, tr, ch và các âm cuối
như ếch- ất, úc - út, ân - anh, ênh - ang....
Luyện nghe cho trẻ có thể được thực hiện qua nhiều hoạt động khác nhau.
Trong đó, tơi có tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian, trẻ vừa được chơi vừa
được đọc lời ca của bài đồng dao.
Ví dụ: Đồng dao “Dung dăng dung dẻ”
Dung dăng / dung dẻ
Dắt trẻ / đi chơi
Đến ngõ / nhà trời
Lạy cậu / lạy mợ
Cho cháu / về quê
Cho dê / đi học
Cho cóc / ở nhà
Cho gà / bới bếp
Xì xà / xì xụp
Ngồi thụp / xuống đây
- Tơi dạy trẻ đọc theo nhịp 2-2
- Cách chơi: Trẻ nắm tay nhau, vừa đi vừa đọc và tay vung theo nhịp của
của bài hát. Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” trẻ nắm tay nhau ngồi thụp xuống
sau đó đứng dậy lại đi tiếp.
b. Nghe hiểu:
Để giúp trẻ nghe và có thể làm theo 2, 3 hành động liên tiếp, khi tiến hành
các hoạt động sinh hoạt hàng ngày ở lớp, tôi yêu cầu trẻ nghe và thực hiện hai,
ba yêu cầu của cơ. Ví dụ: “ Tơ bài xong rồi, các con gấp sách lại, mang sáp màu
và sách lên đây cho cô”
- Để giúp trẻ nghe hiểu được tốt cơ có thể tổ chức các trị chơi học tập
như: “Chọn quà tặng bạn”, “ Tìm đồ vật cho đúng”, “Tơi có điều bí mật”
Ví dụ Trị chơi: “Tơi có điều bí mật”
- Mục đích giúp trẻ nhận biết và tả các nhân vật trong gia đình.
- Chuẩn bị: Tranh vẽ các vật tropng bìa cứng (động vật ni trong nhà,
thức ăn, đồchơi, đồ dùng, phương tiện đi lị của gia đình...)
- Cách chơi:
+ Khơng cho trẻ xem tranh trước.
+ Cơ mơ tả vật trên tranh ( Thuộc nhóm nào? Được sử dụng như thế nào?
Có thể tìm thấy ở đâu?..)
+ Cho trẻ đốn sau mỗi lần mơ tả.
Chẳng hạn: Đó là một lồi động vật có hai chân, đẻ trứng. Đấy là con gì? (
Con gà). Trẻ nào đốn đúng, cơ đưa bức tranh cho trẻ đó. Khi tất cả các bức
tranh đã đốn đúng, cơ hỏi từng trẻ xem bức tranh vẽ gì. Cơ u cầu trẻ miêu tả
đặc điểm của các con vật và nói câu đầy đủ.
c. Trò chuyện với trẻ
- Để luyện khả năng nghe và nói cho trẻ, người lớn cần dành thời gian trị
chuyện với trẻ. Trong q trình trẻ hoạt động có thể cung cấp từ mới cho trẻ, làm
phong phú vốn từ và giúp trẻ mở rộng sự hiểu biết về nghĩa của các từ. Đồng
thời sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp với trẻ mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ:
Khi quan sát thiên nhiên, cơ có thể hổi trẻ: “Các con thấy bầu trời hôm nay thế
nào?” Trẻ sẽ đưa ra nhận xét: “Trời xanh, trời rất đẹp...” Giáo viên hướng trẻ sử
dụng ngôn ngữ để thể hiện cảm xúc như: “ bầu trời hôm nay mới đẹp làm sao!
Thời tiết thật trong lành và ấm áp.”
- Trong q trình dạy trẻ, tơi cịn trị chuyện với trẻ qua tranh ảnh. Trị
chuyện qua tranh khơng chỉ giúp trẻ phát triển về ngơn ngữ mà cịn giúp trẻ phát
triển các kĩ năng quan sát, ghi nhớ có chủ đinh, tư duy logic. Khi Trò chuyện với
trẻ cần hướng dẫn trẻ cách quan sát tranh, miêu tả những chi tiết trong tranh, cho
trẻ sắp xếp thứ tự các bức tranh và kể câu chuyện theo ý của mình
Ví dụ: Trị chuyện “Cơng việc của mẹ trong ngày chủ nhật”
Mục đích
- Trẻ nghe, hiểu nội dung các câu nói khác nhau của cô với trẻ về công
việc của mẹ ở nhà trong ngày chủ nhật.
- Trẻ nghe, hiểu và trả lời được nhiều loại câu hỏi.
- Trẻ nói được công việc của mẹ ở nhà bằng câu đơn và câu phức.
Tiến hành:
- Cô cùng một số trẻ ngồi gần, thân mật. Cơ gợi mở để trẻ trị chuyện một
cách tự nhiên:
- Con nào có thể kể cho cơ nghe ngày chủ nhật ở nhà mẹ con làm những gì?
- Cơ để trẻ tự kể, sau đó cơ gợi ý để trẻ kể thêm được:
- Mẹ con đi chợ mua gì nào?
- Con giúp mẹ làm được những việc gì nào?
- Mẹ hay nấu cho con những món gì nào?
Trẻ kể xong, cơ sắp xếp theo trình tự thời gian các cơng việc của mẹ từ
sáng đến tối, sau đó cơ nói với các trẻ:
- Mẹ của con làm rất nhiều việc.
- Các con phải thương yêu và giúp đỡ mẹ.
Qua việc áp dụng biện pháp này, tôi thấy: Khả năng nghe, hiểu của trẻ
tăng lên; trẻ tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ nhiều hơn, trẻ
biết sử dụng ngơn ngữ biểu cảm khi nói.
7.2.3. Biện pháp 3: Luyện phát âm chuẩn cho trẻ.
Giáo dục chuẩn mực ngữ âm cho trẻ (luyện phát âm chuẩn cho trẻ) chính
là hướng dẫn trẻ phát âm đúng âm thanh ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ, phát âm rõ
ràng các từ, câu theo đúng qui định và luyện cho trẻ biết điều chỉnh giọng nói
của mình sao cho diễn cảm, phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp (điều chỉnh
cường độ giọng nói to, nhỏ, tốc độ nhanh hay chậm, nhịp độsao cho nhịp nhàng,
ngắt nghỉ đúng chỗvà nói có ngữ điệu, thể hiện sắc thái biểu cảm của lời nói).
Luyện phát âm cho trẻ cịn là phát triển khả năng nghe âm thanh ngôn ngữ, điều
khiển hơi thở đúng…
- Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ trong giai đoạn này trẻ thường mắc các lỗi
phát âm:
+ Lỗi về âm đầu.
+ Lỗi về âm đệm.
+ Lỗi về âm chính.
+ Lỗi về âm cuối.
+ Lỗi về thanh điệu.
- Nguyên nhân mắc lỗi:
+ Do bộmáy phát âm của trẻ chưa phát triển hoàn thiện.
+ Do đặc điểm phương ngữ, môi trường giao tiếp, sự nuông chiều của
người lớn...
+ Do một sốâm tiết tiếng Việt khó phát âm, khó định vị... (khuya khoắt,
loắt choắt…).
- Để sửa lỗi cho trẻ, tơi đã:
+ Kiểm tra tình hình phát âm của trẻ và thường xuyên vận dụng các
phương pháp, biện pháp để luyện phát âm cho trẻ phù hợp
+ Xác định đúng được các lỗi phát âm của trẻ, xác định được nguyên nhân
mắc lỗi và có biện pháp cụthể để sửa lỗi phát âm đó cho trẻ.
+ Tự rèn luyện bản thân để phát âm chuẩn theo qui định. Phát âm chuẩn
trong quá trình giao tiếp với trẻ.
+ Tổchức các hoạt động cho trẻ thực hành luyện phát âm…
Nắm được những đặc điểm phát âmcủa trẻ tôi đã áp dụng các biện pháp sau:
a. Rèn luyện phát âm theo mẫu.
- Dạy trẻ phát âm theo cô các âm to nhỏ nhanh chậm khác nhau bằng cách
cô phát âm mẫu và u cầu trẻ nói theo. Cơ phát âm trước mặt trẻ để trẻ có thể
quan sát sự chuyển động của cơ quan phát âm. Cơ có thể chỉ ra cho trẻ vị trí của
các cơ quan phát âm như: môi, răng, lưỡi, độ mở của miệng. Sau đó cho trẻ phát
âm lại.
Ví dụ 1: Con hãy nói theo cô nào: “Nu na nu nống”
b. Luyện phát âm qua trò chơi.
Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ Nhà trẻ song để có
bước chuyển từ hoạt động này sang Hoạt động vui chơi - Hoạt động chủ đạo
của trẻ Mẫu giáo thì trẻ cần phải phát âm đúng. Nắm được đặc điểm này nên tơi
đã vận dụng sáng tạo các trị chơi vào rèn luyện phát âm cho trẻ.
* Trò chơi luyện thở:
- Mục đích của trị chơi này giúp trẻ hít thở đều biết cách lấy hơi khi nói.
Rèn luyện cơ lưỡi, cơ mơi.
- Trị chơi: Thổi bóng bay, thổi nơ bay, thổi cốc nước nóng, gió thổi.
Ví dụ: Chơi thổi cốc nước nóng.
Có đưa ra một tình huống, cho trẻ tưởng tượng tay cơ cầm cốc nước nóng
rồi mới uống được cơ ra hiệu cho trẻ thổ từng hơi dài, sau đó khi nước nguội thì
trẻ uống nước (trẻ hít vào rồi hà ra một cái như vừa uống xong).
* Trò chơi luyện thính giác:
- Mục đích của trị chơi: rèn sự chú ý thính giác, chú ý lắng nghe sự thay
đổi trong tiếng, rèn khả năng ghi nhớ.
- Trò chơi: lắng nghe, tai ai tinh, ai giỏi hơn, đoán tiếng kêu của các con vật.
Ví dụ: Trị chơi lắng nghe.
Cách chơi: cho trẻ đứng thành vịng trịn.
Cơ nói: Lắng nghe, lắng nghe.
Trẻ: Nghe gì, nghe gì.
Cơ: Các con hãy lắng nghe và nhắc lại đúng những từ cô đã nói (cơ nói
những từ gần giống nhau chỉ khác rất ít). VD: chuối – chúi; ngoan – ngan; tay –
tai. Trẻ phải nhắc lại theo thứ tự lời cơ nói và xem từ nào nói đúng từ nào nói sau.
* Trị chơi luyện cơ quan phát âm:
- Mục đích: Rèn luyện cơ lưỡi, cơ mơi, hàm dưới.
- Trị chơi: gọi gà, bé phun mưa, cười, mèu liếm sữa. Chú lưỡi vui tính.
Ví dụ: Trị chơi, gọi gà.
Cách chơi:
Cơ nói “Khi cho gà ăn người ta thường gọi lại gần cho nó ăn cơm, ăn gạo.
Gọi như thế này này! “Cơ làm tiếng gọi gà cho trẻ xem “pập! pập!”. Bây giờ
các con gọi gà cùng với cơ nào!
Ví dụ: Trị chơi: Chú lưỡi vui tính.
Trẻ ngồi đối diện với cơ. Cơ kể “Có một chú lưỡi sống trong một ngơi
nhà nhỏ”. Ngủ dậy, lưỡi nhìn lên trần nhà, lưỡi ngó xuống đất, rồi lưỡi muốn ra
ngoài đường chơi, lưỡi ngõ bên phải, lưỡi ngó bên trái. Chơi chán lưỡi đói muốn
ăn, bèn liếm sữa. Ăn xong lưỡi lau mồm rồi đi ngủ. “Cơ làm mẫu sau đó kể lại,
kể đến đâu trẻ làm động tác đến đó”.
* Trị chơi luyện giọng:
- Mục đích: Luyện giọng cho trẻ.
- Trị chơi: Bắt chước tiếng kêu của con vật. Giả làm tiếng mưa rơi.
Giả làm tiếng cịi tàu.
Ví dụ: Trị chơi. Bắt chước tiếng kêu của con vật.
Gà gáy “ị ó o…”
Mèo kêu “meo meo…”
Chó sủa” gâu gâu gâu…”
- Để đạt được hiệu quả của biện pháp này, yêu cầu:
+ Cô giáo phải nắm được mục đích, yêu cầu, nội dung chơi, cách thức chơi
và chơi mẫu cho trẻ xem.
+ Trong quá trình trẻ chơi, cô phải luôn theo dõi, sửa sai cho trẻ.
c. Luyện phát âm qua xem tranh ảnh, vật thật đồ chơi, qua xem phim
video.
Trẻ em có tư duy trực quan hình ảnh nên luyện phát âm cho trẻ qua xem
vật thật, tranh ảnh, đồ chơi, qua xem phim video được trẻ rất hứng thú.
Thông qua các hoạt động của trẻ như: hoạt động có chủ đích, hoạt động
vui chơi tôi sử dụng các đồ dùng trực quan, các đoạn phim. Yêu cầu trẻ quan sát
, gọi tên, miêu tả về sự vật qua đó luyện phát âm cho trẻ.
Ví dụ: Dạy trẻ tên các loại hoa.Tơi cho trẻ xem video vườn hoa, có nhiều
loại hoa. Từ đó dạy trẻ phát âm: Hoa đào, hoa cúc, hoa mai, hoa lay ơn... Các bộ
phận của hoa: đài hoa, cánh hoa, nhụy hoa; Bông hoa, nụ hoa, lá hoa, cành
hoa...Màu hoa: đỏ, vàng, cam, tím, trắng.
Để tổ chức cho trẻ xem tivi có hiệu quả và góp phần phát triển lời nói tơi đã:
- Lựa chọn những chương trình phù hợp với sở thích, khả năng của trẻ. và
đáp ứng mục tiêu cần đạt ở trẻ do cô giáo đặt ra.
- Khi trẻ xem tivi, cô giáo hướng dẫn cho trẻ cách xem tivi: Chú ý quan
sát các chi tiết trọng tâm, theo dõi, bộc lộcảm xúc trước các sự kiện diễn ra trên
tivi, khơng nói chuyện, xơ đẩy bạn…
- Sau khi trẻ xem xong, cơ giáo tổchức trị chuyện, đàm thoại với trẻ về
các nội dung trẻ đã được xem.
- Giáo dục trẻ nếp sống văn hố trong q trình xem tivi.
Với biện pháp này, trẻ rất hứng thú. Trẻ khơng chỉ có thêm kiến thức về
các sự vật, hiện tượng được xem mà vốn từ của trẻ còn tăng lên nhanh chóng,
hành vi văn minh khi giao tiếp cũng được củng cố.
d. Luyện phát âm qua đọc thơ, ca dao, đồng dao, đọc câu nói có vần
Khi dạy trẻ phát âm, tôi sử dụng các bài thơ, ca dao, đồng dao, truyện kể
đọc cho trẻ nghe sau đó cho trẻ đọc thuộc lòng (thơ, ca dao, đồng dao) qua đó
rèn phát âm cho trẻ. Dạy trẻ phát âm hình thức này giúp trẻ say mê hào hứng tập
luyện vì vừa được học vừa được chơi (đối với ca dao, đồng dao trong các trị
chơi dân gian). Trẻ có điều kiện được nghe đọc, nghe đi, nghe lại nhiều lần, đọc
đi đọc lại bị nhiều lần.
Ví dụ: Chơi trị chơi Nu na nu nống trẻ vừa đọc đồng dao, vừa chơi.
Nu na nu nống
Cái trống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Bà mụ thổi xơi
Nhà tơi nấu chè
Tay xịe, chân rụt
Chẳng cụt mất chân.
* Cách chơi: Trẻ ngồi bệt, cùng chiều với nhau, sát cạnh nhau, 2 chân duỗi
thẳng , vừa đọc bài đồng dao , vừa lấy tay đập vào từng cẳng chân, mỗi từ
trong bài đồng dao được đập nhẹ vào một chân theo thứ tự từ đầu đến cuối
rồi lại ngược lại cho đến chữ “ rút” chân ai gặp từ “ rút” thì co chân lại cứ
như thế cho đến khi các chân co lại hết thì chơi lại từ đầu
* Cô đọc cho trẻ nghe các bài ca dao, đồng dao, câu nói có vần sau đó hướng
dẫn trẻ đọc để rèn luyện kỹ năng phát âm đúng, rõ ràng, có nhịp điệu...
Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng.
Qua các biện pháp rèn luyện phát âm cho trẻ, tôi thấy trẻ đã phát âm
chuẩn hơn các âm khó như: p, n, l, s, x, tr, ch và các âm cuối như ếch- ất, úc – út,
ân – anh, ênh – ang....Nói ngọng, nói lắp ở trẻ đã giảm đáng kể. Âm thanh khi
trẻ phát ra đều hơi, rõ tiếng hơn.
7.2.4. Biện pháp 4 : Phát triển vốn từ cho trẻ qua tiết học và các hoạt
động vui chơi.
Phát triển vốn từ cho trẻ được thông qua nhiều hoạt động khác nhau trong
ngày. Tôi đã sử dụng các biện pháp:
a. Qua tiết học “Làm quen, so sánh và phân loại sự vật hiện tượng”
Mục đích loại tiết học này là đưa vào ngơn ngữ của trẻ tên gọi của các sự
vật và một số hành động nói chung, làm sâu sắc thêm kiến thức về các đặc điểm,
tính chất của các sự vật, dạy trẻ biết lựa chọn từ chính xác để nhận xét, so sánh,
phân loại, hướng chú ý của trẻ vào sự vật và tích cực hoạt động với chúng, trên
cơ sở đó đưa vào những từ cần dạy. Nội dung dạy trên các tiết học cần phải được
củng cố trong giờ chơi, trong sinh hoạt hàng ngày.
Ví dụ: Hoạt động : Khám phá về các loại quả (quả xồi)
- Cơ có cầm quả gì đây?( cơ vừa hỏi vừa giơ quả xồi lên cho trẻ xem)
- Đúng rồi, quả xồi có đặc điểm gì? ( có màu gì? Hình dạng như thế nào?
Vỏ của nó ra sao: sần hay nhẵn…)
- Chúng mình cùng chú ý nhé? Bây giờ cơ sẽ dùng dao bổ đơi quả xồi ra
xem bên trong của nó có gì nào? (cơ bổ đơi quả xồi ra, cơ giơ lên và hỏi trẻ:
Cái gì đây?)
- Quả xồi có mấy hạt? Khi ăn chúng mình phải làm gì?
- Đúng rồi, khi ăn các con nhớ bỏ vỏ và bỏ hạt vào thùng rác.
b. Dạo chơi, tham quan
Dạo chơi, tham quan là loại tiết học đặc biệt nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
Trong giờ dạo chơi tham quan, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật hiện tượng
phong phú của cuộc sống. Mục đích của dạo chơi, tham quan là mở rộng tầm hiểu
biết cho trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho trẻ.
Để dạo chơi, tham quan có hiệu quả, cô giáo phải chuẩn bị tốt về nội dung
cần cho trẻ quan sát, những từ, câu...cần dạy trẻ. Những câu hỏi yêu câu trẻ trả
lời, những phương pháp, biện pháp nhằm hướng chú ý của trẻ vào sự vật, hiện
tượng cần quan sát và những phương pháp, biện pháp cần tích cực.
c. Giờ chơi và các trị chơi.
Một trong hình thức quan trọng, có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn
từ, đặc biệt là tích cực hố vốn từ cho trẻ là giờ chơi. Thời gian chơi của trẻ chiếm
nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ cũng như trường mẫu giáo, là thời gian trẻ
được thoải mái nhất, tự do nhất, trẻ nói được nhiều nhất. Trẻ có điều kiện sử dụng
các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ với nội dung rất khác
nhau (Phụ thuộc vào nôi dung chơi của trẻ). Những từ đó, nếu như khơng thơng
qua chơi, trong sinh hoạt hàng ngày trẻ rất khó dùng hoặc khơng dùng được. Vì vậy
cơ giáo cần phải chuẩn bị, tổ chức tốt giờ chơi nhằm đạt hiệu quả cao
Trong giờ chơi, trẻ chơi nhiều loại trò chơi khác nhau. Đối với những trò chơi
phản ánh sinh hoạt cô chú ý củng cố vốn từ cho trẻ, sửa những từ trẻ dùng chưa
chính xác, bằng những thủ thuật khéo léo, cô đưa thêm từ mới vào dạy trẻ (giới thiệu
thêm đồ chơi mới có tên gọi là từ cần dạy: trò chuyện với trẻ, nhận xét một hiện
tượng, một hành động nào đó, nhấn mạnh những từ cần cho trẻ làm quen…)
Ngồi trị chơi, phản ánh sinh hoạt, trong giờ chơi, có tổ chức cho trẻ chơi
những trị chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
7.2.5. Biện pháp 5: Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp qua việc xây dựng mẫu câu
và dạy trẻ nói theo mẫu.
a. Xây dựng mẫu câu:
Vịêc tiếp thu vốn từ ở trẻ khác với việc tiếp thu và sử dụng vốn ngữ pháp.
Khi học từ trẻ khác tiếp nhận ở người lớn từng đơn vị cụ thể (trẻ tiếp nhận ở
người lớn từng từ). Khi học câu, trẻ không thể học hết được các câu cụ thể, riêng
lẻ rồi vận dụng vào trong từng trường hợp giao tiếp vì nội dung những câu nói
cụ thể là vơ tận. Do vậy dạy trẻ nói đúng ngữ pháp là dạy trẻ nói được các mơ
hình câu các thành phần câu cũng như vị trí của các thành phần, mà phải bằng
cách cho trẻ thường xun được nghe, được nói theo các mơ hình câu chuẩn để
từ đó dần dần nắm được cách cấu tạo các loại câu của tiếng mẹ đẻ
Mẫu câu mà giáo viên cho trẻ tiếp nhận phải đạt được các yêu cầu:
- Câu phải có đầy đủ thành phần chính (chủ ngữ, vị ngữ).
- Từ ngữ trong câu phải chính xác, sắp xếp đúng trật tự từ của câu tiếng việt
- Nội dung thông báo của câu phải đơn giản, rõ ràng
- Mẫu câu đưa ra phải tử những mẫu đơn giản đến những mẫu phức tạp
( chú ý đến yêu cầu của từng độ tuổi )
Thí dụ: Mẫu có cấu trúc C-V
Gà gáy
Cờ bay
Thí dụ 2: Mẫu có cấu trúc C-V-B
Cháu ăn kem
C
V
B
Thí dụ 3: Mẫu câu có cấu trúc C1-C2-V
Bạn Lan, bạn Hà đang hát
Mơ hình sử dụng:
Bạn A
bạn B
đang
hát
Muốn giúp trẻ làm quen với các mơ hình câu, giáo viên phải thường
xuyên cho trẻ tập nói theo mẫu của mơ hình.
b. Dạy Trẻ tập nói theo mẫu.
Để hình thành các mẫu câu, giáo viên đặt các câu hỏi. Mơ hình câu hỏi sẽ
ứng với mơ hình câu cần dạy (câu hỏi của cô là sự định hưỡng về nội dung, định
hướng về mẫu câu)
Sau khi đặt câu hỏi, cô giáo trả lời mẫu một câu hoặc vài câu rồi giảng
giải hướng dẫn trẻ tập nói.
Ví dụ:
Cơ hỏi:Con gì nằm trên bàn?
Trẻ trả lời:Con mèo nằm trên bàn. (Câu đơn)
Cơ hỏi:Con gì nằm trên bàn kêu meo meo?
Trẻ trả lời: Con mèo nằm trên bàn kêu meo meo. (Câu phức)
- Để tạo thành câu ghép, cô giáo cần giảng giải để trẻ hiểu được mối liên
hệ giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh để trẻ liên kết các sự vật
đó trong câu. Điều quan trọng của việc dạy trẻ nói theo mẫu câu là giáo viên cần
trình bày lặp đi, lập lại một cách có ý thức những mơ hình câu. Trẻ nghe nhiều
lần sẽ bắt chước, ghi nhớ và khi cần giao tiếp trẻ sẽ vận dụng một cách tự nhiên.
- Thường xuyên trò chuyện với trẻ trong các sinh hoạt hằng ngày theo các
mơ hình câu
- Quan sát – đàm thoại với trẻ theo các chủ đề
- Cho trẻ em tranh ảnh, mơ hình, đồ dùng, đồ chơi rồi gợi ý cho trẻ trả lời
theo các kiểu câu
c. Sửa lỗi ngữ pháp
* Sửa lỗi dùng từ sai
Trong quá trình dùng từ để cấu tạo câu, trẻ thường mắc lỗi dùng từ thiếu
chính xác, trật tự từ trong câu sắp xếp khơng đúng với trật tự từ trong câu Tiếng
Việt. Để giúp trẻ sửa chữa những lỗi này, cô giáo cần giảng giải lại để trẻ hiểu đúng
nghĩa của từ trẻ cần dùng. Phân tích để trẻ hiểu được mối quan hệ giữa các hành
động, sự việc, trên cơ sở đó giúp trẻ biết cách xếp thứ tự các từ để diễn đạt nội dung
mình muốn thơng báo. Giáo viên nói mẫu câu đúng và u cầu trẻ nói lại.
Ví dụ : Cô hỏi: Ai đưa con đi học?
Trẻ trả lời: Mẹ. (Câu thiếu vị ngữ)
Cơ hỏi lại: Mẹ làm gì?
Trẻ trả lời: Mẹ đưa con đi học. (Câu đơn đầy đủthành phần)
* Sửa câu nói thiếu thành phần chính (C-V)
Khi trẻ nói câu thiếu thành phần chủ ngữ hoặc vị ngữ, giáo viên đặt câu hỏi
về thành phần thiếu, sau khi trẻ trả lời, giáo viên giúp trẻ nói câu đủ thành phần.
Ví dụ: Trẻ nói: Uống nước,
Cơ hỏi: Ai uống nước?
Trẻ trả lời: Cháu uống nước.
7.2.6. Biện pháp 6: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
Phát triển ngôn ngữ mach lạc là nhiệm vụquan trọng nhất trong các nhiệm
vụ phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non. Rèn luyện khảnăng nói mạch lạc cho
trẻ tức là giúp trẻ sử dụng ngơn ngữ giao tiếp một cách hồn chỉnh, lưu lốt. Sự
phát triển ngơn ngữ mạch lạc khơng tách rời với việc phát triển các nhiệm khác
của phát triển lời nói: giáo dục chuẩn mực âm thanh lời nói, làm giàu và tích cực
hóa vốn từ, hình thành cấu trúc ngữ pháp.
Để dạy trẻ Ngôn ngữ mạch lạc tôi đã sử dụng các biện pháp:
a. Dạy trẻ ngôn ngữ đối thoại
Ngôn ngữ đối thoại được dạy cho trẻ trong giao tiếp tự do dưới hình thức
trị chuyện với trẻ và trên tiết học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Trị chuyện với trẻ
Trị chuyện với trẻ là hình thức nói miệng đơn giản nhất được sử dụng để
trao đổi thơng tin, tình cảm, ý nghĩ...của người lớn (cơ giáo) với trẻ và trẻ với
người lớn trong sinh hoạt hàng ngày. Nói chuyện với trẻ mang xúc cảm hồn
cảnh lớn. Khi nói chuyện với trẻ, ngồi ngơn ngữ cịn sử dụng các phương tiện
biểu cảm khác nhau như: cử chỉ, nét mặt, giọng nói..., ngơn ngữ nói chuyện đơn
giản, thường là những câu đơn hoặc những câu không trọn vẹn (câu chỉ có chủ
ngữ hoặc vị ngữ). Trong giao tiếp tự do, trẻ tham gia vào trò chuyện với cô giáo,
với các bạn.
Đối với trẻ nhà trẻ và mẫu giáo nhỡ, trò chuyện phải được kết hợp với
trực quan, hướng chú ý của trẻ lên đối tượng, sau đó gợi cho trẻ nhớ lại bằng
những câu hỏi đơn giản. Ở lứa tuổi này, trò chuyện với trẻ còn dựa trên chính
hoạt động của trẻ hàng ngày. Cơ tổ chức trị chuyện với cá nhân trẻ là chủ yếu
hoặc có thể trị chuyện với một nhóm trẻ.
* Đàm thoại
Mở đầu tiết đàm thoại, cô hướng chú ý của trẻ vào đề tài đàm thoại. Có
nhiều cách: cơ có thể dùng câu hỏi, câu đố, đọc thơ, cho trẻ xem tranh, hoặc cơ
có thể kể một câu chuyện nhỏ, hoặc đọc một bức thư ngắn...Việc hướng sự chú ý
của trẻ vào đàm thoại phải thật hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút trẻ, giọng nói của cơ
phải thật truyền cảm, kích thích trẻ chuẩn bị suy nghĩ và phát biểu tích cực.
Phát triển đề tài đàm thoại là phần chính và là phần khó nhất. Trong phần này, cơ
sử dụng câu hỏi là chính. Câu hỏi phải có hệ thống, lơgíc, phải chính xác, rõ ràng.
Câu hỏi phải kích thích được trẻ trình bày sự hiểu biết, suy nghĩ của mình. Khơng
nên đặt quá nhiều câu hỏi vụn vặt nhưng cũng không nên gộp nhiều câu hỏi với
nhau. Một câu hỏi có thể hỏi nhiều trẻ. Trong q trình đàm thoại, cơ có thể sử
dụng trực quan nhưng chỉ sử dụng khi cần thiết với mục đích minh hoạ, gợi mở
cho đàm thoại. Không nên quá lạm dụng việc sử dụng trực quan. Phần kết thúc
đàm thoại, cô nhận xét động viên khuyến khích trẻ, nhác nhở những trẻ chưa tích
cực trên tiết học
Trẻ đọc thơ theo nhóm
b. Dạy trẻ ngơn ngữ độc thoại trong giao tiếp tự do
- Dạy trẻ kể lại thông báo của cô: Cô cần sắp xếp nội dung thơng báo
có trình tự, logic, súc tích... trước khi kể cho trẻ, sau đó trẻ sẽ kể lại cho
người khác nghe những điều được nghe cô kể.
- Đề nghị trẻ kể lại những gì trẻ đã gặp.
- Đề nghị cha mẹ trẻ lắng nghe con mình kể lại những gì trẻ đã gặp
dọc đường, trẻ được học, chơi ở trường. Gợi cho trẻ hứng thú kể lại chuyện.
7.2.7. Biện pháp 7: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cho
trẻ kể lại chuyện và tập đóng kịch.
a. Hình thức kể lại chuyện theo tranh
Trước khi cho trẻ kể lại chuyện theo tranh tôi cho trẻ làm quen với câu
chuyện qua các hoạt động góc, hoạt động chiều. Tơi kể cho trẻ nghe chuyện
bằng những quyển truyện tranh to với những hình ảnh của các nhân vật rõ ràng,
sống động, đẹp mắt, nội dung câu chuyện rõ ràng, ngắn gọn. Ngồi ra, tơi cịn
cho trẻ xem băng truyện trước giờ trả trẻ với mục đích giúp trẻ ghi nhớ nội dung
truyện, nhớ nhân vật truyện và lời thoại của các nhân vật trong truyện.
VD: Câu chuyện “ Chuyện của Dê con”
- Hình thức tổ chức hoạt động góc
- Chuẩn bị: Bàn nhỏ, truyện tranh to
- Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi ở góc văn học, trước khi tổ chức cho trẻ kể
lại câu chuyện “ Chuyện của Dê con” tôi kể cho trẻ nghe và cho trẻ xem băng
truyện ở hoạt động chiều. Mục đích để trẻ nhớ nội dung và các nhân vật trong
truyện. trước khi tiến hành cho trẻ kể lại truyện, tôi đàm thoại với trẻ về các
nhân vật và tính cách của các nhân vật trong truyện.
- Đàm thoại:
+ Cô vừa kể các con nghe truyện gì?
+ Trong chuyện có những nhân vật nào?
+ Dê mẹ bị ốm không đi kiếm ăn được Dê mẹ đã bảo gì Dê con? (Cho trẻ
nhắc lại lời của Dê mẹ)
+ Dê đã gặp ai đầu tiên?
+ Khi gặp Dê con thấy thế nào? Vì sao?
+ Hươu con dặn Dê con Chó Sói trơng như thế nào?
+ Dê con có lắng nghe bạn Hươu nói hết khơng?
+ Dê con đã nói gì?
+ Dê con gặp con vật gì có đi xù lơng?
+ Sóc dặn Dê con Chó sói trơng như thế nào?
+ Dê con trả lời Sóc ra sao?
+ Lần thứ 3 Dê con đã gặp con vật gì?
+ Con Sói có bộ lơng như thế nào?
+ Sói cho Dê con cái gì?
+ Tại sao Sói cho Dê con quà?
-> Nhắc nhở trẻ khi được người lạ mà khơng biết đó là ai cho q bánh
cũng khơng được nhận
+ Con vật gì đã xuất hiện và cứu Dê con?
+ Qua việc suýt bị Sói ăn thịt Dê con đã chừa tính vội Sau khi đàm thoại
xong, trẻ đã nhớ lại nội dung truyện, tôi tổ chức cho trẻ lên kể lại theo các hình
ảnh có trong truyện tranh, dạy trẻ khi kể đến nhân vật nào thì dùng que chỉ vào
từng hình ảnh trong truyện sao cho phù hợp với nội dung truyện. Khi trẻ kể
xong truyện, tơi cho các bạn trong nhóm nhận xét bạn kể. Kể truyện theo tranh
tổ chức ở hoạt động góc thì trẻ được thay nhau kể, trẻ được thoải mái thể hiện
giọng kể của mình, sử dụng ngơn ngữ sáng tạo trong khi kể khơng bị gị bó như
ở trong tiết học. Qua hoạt động ở góc văn học, trẻ được đàm thoại, tranh luận
trực tiếp với nhau để từ đó ngôn ngữ của trẻ được sử dụng linh hoạt hơn trong
cuộc sống.
c. Hình thức kể lại truyện theo rối tay
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ, tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối. Ngoài ra, việc sử dụng rối tay khi
cho trẻ kể lại truyện không chỉ phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc kể chuyện
mà còn giúp trẻ biết thể hiện các cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp để tăng tính linh
hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong giao tiếp.
VD: Với câu chuyện “ Sự tích Hoa mào gà”, tơi sử dụng mơ hình sân
khấu là một khu vườn, có hoa, cỏ, cây....nhân vật trong truyện được cách điệu
đầu chú gà mái mơ, tôi dùng vải để khâu, dùng len móc thành chiếc váy cho chú
gà thêm ngộ nghĩnh. Khi dạy trẻ kể chuyện bằng rối, trước tiên tôi cũng cung
cấp nội dung câu chuyện cho trẻ nghe vào hoạt động chiều, hoạt động góc. Bên
cạnh việc cung cấp nội dung truyện cho trẻ, tôi cịn hướng dẫn trẻ cách sử dung
rối tay, tơi dạy trẻ dùng cánh tay lồng vào con rối, điều khiển con rối bằng 3
ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) sao cho những cử chỉ phù hợp với lời
thoại trong truyện.
Thời gian đầu khi mới làm quen với rối tay, trẻ rất lóng ngóng, khó thực
hiện được các động tác theo ý muốn. Để khắc phục được điều này, tôi đã làm
thật nhiều những con rối tay đặt ở góc văn học, sắp xếp sao cho trẻ thấy dễ dàng.
Khi hoạt động ở góc văn học, trẻ thoải mái sử dụng rối tay. Ban đầu, trẻ sử dụng
rối tay theo ý thích của mình, có khi là dùng rối tay để nói chuyện với bạn, từ đó
việc sử dụng rối tay với trẻ trở nên dễ dàng hơn, dần dần, tôi yêu cầu trẻ sử dụng
rối tay vào từng câu chuyện.
Nhờ việc sử dụng rối tay trong tiết học mà số trẻ có khả năng cảm thụ văn
học đạt cao, đa số trẻ nhớ nội dung truyện, lời thoại của các nhân vật và qua đó,
trẻ biết dùng ngơn ngữ của mình để nhận xét đánh giá tính cách của nhân vật
trong truyện như: Ai là người xấu, ai là người tốt.
d. Trị chơi đóng kịch
Là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể.
Qua hoạt động đóng kịch, trẻ truyền đạt lại nội dung câu chuyện làm sống động
lại tâm trạng, hành động, ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng
thời thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch, trẻ
dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu
chuyện, điều này góp phần đẩy mạnh phát triển tư duy, cảm thụ các tác phẩm
văn học một cách sâu sắc ở trẻ. Để đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng
kịch, tơi cho trẻ ôn luyện lại nội dung câu chuyện, đàm thoại về các nhân vật
trong truyện để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ điệu, tính
cách, tâm trạng của các nhân vật trong truyện. Muốn trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời
thoại của các nhân vật trong truyện để đóng kịch thì trước hết cho trẻ nhớ lời
thoại của nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai theo tổ hoặc nhóm. VD: Trong truyện
“Ai đáng khen nhiều hơn”, tôi cho tổ 1 làmThỏ mẹ, tổ 2 làm Thỏ anh, tổ 3 làm
Thỏ em để trẻ tự thể hiện hành động điệu bộ của nhân vật cho quen, thành thạo.
Sau đó cho trẻ nhắc lại lời thoại của các nhân vật trong truyện mà trẻ sẽ đóng.
Nhiệm vụ của cô giáo lúc này là người dẫn chuyện và trẻ diễn theo nội dung câu
tuyện. Khi diễn xong tôi cho trẻ tự nhận xét vai chơi của mình, từ đó trẻ xác
định được thái độ của nhân vật trong truyện là u hay ghét.
Trị chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học và phát
triển ngôn ngữ một cách sâu sắc và để đạt được điều đó thì việc trang trí sân
khấu và hóa trang cho trẻ rất quan trọng, với câu truyện “Cây táo thần” tơi làm
sân khấu có màn che, rồi trang trí cảnh phù hợp. Bên cạnh việc làm mơ hình sân
khấu thì việc hóa trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết với nhân vật cậu bé,
cây trong câu truyện. Việc hóa trang và bố trí sân khấu phù hợp , trang phục đẹp
sẽ giúp trẻ tự tin nhập vai tạo cho trẻ hứng thú với từng vai diễn.
Trẻ tập đóng kịch
Việc xác định giọng nói của các nhân vật trong truyện có vai trị quan
trọng trong việc dạy trẻ tập đóng kịch, trẻ xác định được giọng của nhân vật thì
trẻ sẽ nhập được vào vai chơi một cách tốt nhất.Ví dụ : Trong truyện “ Cáo, thỏ,
gà trống”
+ Tôi hỏi trẻ giọng của Cáo khi sang nhà thỏ sưởi nhờ thì như thế nào?
(Giả vờ đau khổ)
+ Giọng của Cáo khi đã lấy được nhà của thỏ thì như thế nào? (Đắc trí)
+ Giọng của thỏ khi bị mất nhà như thế nào? (Buồn buồn và khóc)
+ Giọng của Gà trống khi cùng thỏ về nhà thỏ để địi lại nhà cho thỏ thì
như thế nào? (Cương quyết, dứt khốt)
Tơi cho trẻ đọc lời thoại trích dẫn của các nhân vật trong truyện
Thông qua việc tổ chức cho trẻ tập đóng kịch tơi thấy khả năng thể hiện ngôn
ngữ của trẻ trong giao tiếp tiến bộ rất nhiều trẻ tự nhiên, thoải mái hơn trong
giao tiếp bởi trong q trình trẻ đóng kịch trẻ được trực tiếp giao lưu , đối thoại
trực tiếp với bạn diễn từ đó ngơn ngữ của trẻ phát triển một cách linh hoạt và
khéo léo.
7.2.8. Biện pháp 8: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài
đồng dao, ca dao
Đồng dao, ca dao như một bức tranh với nhiều màu sắc thể hiện sự phong
phú, đa dạng của cuộc sống, từ đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần, tình cảm
của con người, nó có giá trị về mặt trí tuệ, tình cảm và ngơn ngữ, ảnh hưởng rất
lớn đến việc hình thành, phát triển nhân cách trẻ.
Các bài đồng dao có 2, 3, 4, 6 chữ... có vần, với lối ngắt nhịp 1-1 , 2-2,...
thường có lối kết cấu vịng trịn, trùng điệp. Ngơn ngữ trong đồng dao, ca dao là
ngơn ngữ hát, kể, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh, có sức tạo hình. Nó rất phù hợp
với việc rèn cho trẻ phát âm, tích lũy vốn từ, hiểu nghĩa từ, nắm ngữ pháp, lối
nói trơi trảy, uyển chuyển.
Để phát huy tính tích cực của ngơn ngữ qua các bài đồng dao, ca dao đối
với sự phát triển ngơn ngữ của trẻ thì việc tổ chức các hoạt động cho trẻ đọc
thuộc đồng dao, ca dao là rất quan trọng. Hiện nay, hoạt động dạy trẻ đọc đồng
dao, ca dao chưa có ở các hoạt động chung, chính vì vậy mà tơi lồng ghép hoạt
động đọc đồng dao, ca dao cho trẻ vào các hoạt động chơi trị chơi dân gian
được tổ chức ở hoạt động ngồi trời, hoạt động đón và trả trẻ, hoạt động sau khi
ngủ dậy.Bên cạnh việc dạy trẻ đọc thuộc những bài đồng dao, ca dao thì tơi ln
tìm tịi những bài đồng dao, ca dao có nội dung cảu các chủ điểm mà trẻ đang
học VD: Chủ đề “” Tết trung thu: dạy trẻ đọc bài ca dao
“ Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời,
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên
Ơng thì cầm bút, cầm nghiên
Ơng thì cầm tiền đi chuộc lá đa.”
Qua đó tơi thấy được hiệu quả rõ ràng, trẻ hào hứng tham gia trò chơi đọc
đồng dao, ca dao và nhớ bài lâu hơn.
* Tổ chức đọc đồng dao, ca dao cho trẻ ở hoạt động ngoài trời.
Sau mỗi giờ học ở trong trường mầm non là là hoạt động ngọài trời. Hoạt
động ngoài trời thường kéo dài từ 30- 35 phút chính vì vậy tơi đã tận dụng hoạt
động ngồi trời để phát triển ngơn ngữ cho trẻ thông qua việc cho trẻ đọc đồng
dao, ca dao. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc đồng dao ca dao tôi lồng ghép các bài
đồng dao vào các trò chơi dân gian để tạo hứng thú cho trẻ khi đọc nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.
*Tổ chức đọc đồng dao, ca dao cho trẻ trong giờ đón, trả trẻ
Khi dạy trẻ đọc thuộc đồng dao, ca dao tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần
để trẻ ghi nhớ, học thuộc sau đó tơi u cầu trẻ đọc nhanh dần lên, tổ chức thi
đua đọc nhanh giữa các tổ với nhau. Đó là cách làm cho trẻ rèn luyện bộ máy
phát âm, trau dồi ngôn ngữ, sự nhạy bén, linh hoạt của tư duy. VD: bài “Lúa ngơ
là cơ đậu nành”, “Chim ri là dì sáo sậu”, “Con kiến mà leo cành đa” là những
câu hát đồng dao mà trẻ rất thích đọc vì nó đem lại tiếng cười vui vẻ, tạo khơng
khí thi đua tự nhiên, cởi mở.
Ngoài những bài lựa chọn để giúp trẻ học đọc theo chủ đề, chủ điểm, tơi
cịn khích lệ trẻ thi đua đọc ra những câu đồng dao, ca dao trẻ đã thuộc từ cha
mẹ, anh chị, bạn bè trong xóm. Hình thức thi đua là động lực lơi cuốn, thúc đẩy
trẻ cố gắng nỗ lực, tích cực học tập. việc thi đua có thể kéo dài 1 tuần, sau 1 tuần
tôi kiểm tra số lượng bài trẻ thuộc, có tun dương, khen thưởng để khuyến
khích trẻ trong học tập.
*Tổ chức cho trẻ đọc đồng dao, ca dao sau khi trẻ ngủ dậy
Sau khi ngủ dậy, trẻ thường rất mệt mỏi, uể oải vì cịn ngái ngủ nên tôi
thường cho trẻ đọc các bài đồng dao, ca dao quen thuộc để trẻ lấy lại tinh thần
sảng khoái, đầu óc thỏai mái để bước vào giờ học buổi chiều đồng thời, giúp trẻ
phát triển thêm khả năng ngôn ngữ.
7.2.9. Biện pháp 9: Phát triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ đọc
thơ diễn cảm
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng
đầu ở các lứa tuổi, nó đặc biệt quan trọng trong quá trình tổ chức hoạt động dạy
trẻ đọc thơ diễn cảm cho trẻ em ở lứa tuổi mầm non. Đó là một trong những
phương pháp rèn luyện phát triển ngơn ngữ nói cho trẻ. Khi đọc thuộc lịng thơ
trẻ sẽ làm cho ngơn ngữ của mình thêm sinh động, uyển chuyển, biểu cảm giúp
trẻ thể hiện tình cảm, suy nghĩ của tác giả.
Nhận thấy rõ được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ thông qua
việc dạy trẻ đọc thơ diễn cảm tôi luôn tìm tịi những phương pháp biện pháp tốt
nhất để trẻ phát âm và diễn đạt được mạch lạc.
Với lứa tuổi này tơi chọn các bài thơ có sắc thái khác nhau: êm dịu, nhẹ
nhàng, vui vẻ hóm hỉnh...nhằm giúp trẻ cảm nhận cái hay, cái đẹp trong ngôn
ngữ tiếng việt và trong cuộc sống, giúp trẻ phát triển đời sống tình cảm.
Để trẻ cảm thụ tốt ngơn ngữ của câu thơ, điều quan trọng nhất là phải đọc
diễn cảm, thể hiện nhịp điệu, âm điệu và sắc thái của bài thơ. Tôi tập đọc diễn
cảm và thuộc bài thơ trước khi đọc cho trẻ nghe
Để trẻ cảm thụ tốt bài thơ, nên trò chuyện với trẻ về nội dung bài thơ, giải
thích nghĩa của mơt số từ, ý của các câu thơ, vẻ đẹp của các câu thơ mô tả, kết
hợp với tranh minh họa hoặc làm các động tác minh họa. Tôi đọc cho trẻ nghe
nhiều lần, đọc thơ theo cá nhân, theo nhóm, luyện tập cách đọc diễn cảm.
Để thu hút trẻ đọc thơ hơn thì việc chuẩn bị đồ dùng trực quuan trong dạy
học để gây hứng thú cho trẻ cũng rất quan trọng, trong quá trình dạy trẻ đọc thơ
diễn cảm tôi sử dụng các bức tranh thơ, sa bàn, con rối, vật thật
Để thu hút lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức phù
hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội thi “ Bé yêu thơ”, câu đố, tham quan và đặc
biệt là chọn những hình ảnh đẹp và nhân vật ngộ nghĩnh sáng tạo đưa vào công
nghệ thông tin để trẻ hịa nhập và hóa thân vào từng nhân vật.
Ví dụ: Dạy trẻ đọc thơ: Mèo đi câu cá
* Hoạt động 1: Gây hứng thú:
- Cô cùng hát bài “Vì sao con mèo rửa mặt”
- Cơ cùng trẻ đàm thoại:
+ Cô cùng các con vừa hát bài hát gì?
+ Trong bài hát nói về con gì?
=> Các con ạ có một bài thơ nói về anh em mèo …
* Hoạt động 2: Cô đọc diễn cảm:
- Cô đọc diễn cảm lần 1
- Cô đọc diễn cảm lần 2: Kết hợp hình ảnh trên máy chiếu
* Hoạt động 3: Giúp trẻ hiểu nội dung bài thơ:
- Các con vừa nghe cơ đọc bài thơ gì? Do ai sáng tác?
- Trong bài thơ nói về ai?
- Anh em mèo trắng đi đâu?
- Anh làm gì?
- Mèo em đã làm gì?
- Chiều tối anh em mèo về có gì?
- Các con thấy hai em mèo ntn?
=> Qua Bài thơ chúng mình thấy mèo anh và mèo em ntn?
* Hoạt động 4: Trẻ đọc thơ
- Cả lớp đọc 2
- Cho tổ đọc, cá nhân trẻ đọc (Cô bao quát sửa sai cho trẻ)
Cô hướng dẫn trẻ đọc sao cho đúng từ thể hiện được nhịp điệu của bài
thơ. Khi dạy trẻ đọc thơ giọng của cô phải chuẩn xác, diễn đạt trôi chảy phù hợp
với từng bài, cô phát âm không ngọng.
Khi dạy trẻ đọc thơ tôi chú ý nghe trẻ đọc và phát hiện ra trẻ nói ngọng,
đọc sai để sửa cho trẻ như tơi đọc lại để cho trẻ đọc theo nhiều lần và động viên
trẻ “ Con đọc gần giỏi rồi” thi đua giữa các tổ với nhau để phát hiện tổ nào đọc
tốt hơn để nhiều trẻ đọc tốt.
Dạy trẻ nói đủ câu, tơi nói trước trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác
giúp đỡ các bạn.
Trong giờ học tôi luôn chú ý bao quát chung để tìm hiểu đặc điểm của
từng trẻ để gần gũi động viên trẻ giúp đỡ những trẻ còn yếu kém, đưa trẻ vào
hoạt động với các bạn có nề nếp hơn, hứng thú hơn.
7.2.10. Biện pháp 10: Tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh trong
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và
nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình trong việc phát triển ngơn
ngữ cho trẻ là rất quan trọng. Trong cuộc họp đầu năm tôi nêu tầm quan trọng
của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là thông qua hoạt động dạy trẻ
đọc ca dao đồng dao, đọc thơ, kể truyện. Đặc biệt là vấn đề luyện phát âm chuẩn
ngôn ngữ cho trẻ. Tơi đã có kế hoạch cùng bàn bạc với phụ huynh nêu ra một số
đặc điểm phát âm của trẻ và những khó khăn khi dạy phát âm cho trẻ. Nhằm
mục đích giúp phụ huynh nắm bắt được và có cách dạy con phát âm đúng khi ở
nhà. Với những trẻ cá biệt về phát âm, tôi gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi
với họ. Để họ giao tiếp thường xuyên với trẻ khi ở nhà và sửa lỗi phát âm cho
trẻ. Vận động phụ huynh mua thêm sách tranh truyện về đọc cho trẻ nghe. Đặc
biệt khi giao tiếp với trẻ, phụ huynh cần nhẹ nhàng không quát trẻ mà ân cần sửa
lỗi cho trẻ. Ngoài ra, tơi cịn nhờ phụ huynh chú ý đến lời nói của mọi người
trong gia đình, bởi lời nói của người thân trong gia đình có ảnh hưởng rất nhiều
đến việc phát âm cho trẻ, nên mọi người trong gia đình cần phát âm chuẩn để trẻ
phát âm theo.
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh về các câu chuyện sáng tạo của
cơ và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy ngơn ngữ của trẻ được phát triển như thế nào
và có biện pháp kích thích sự phát triển ngơn ngữ cho trẻ tại gia đình.
Tơi sử dụng 1 mảng tường ở ngồi cửa lớp để làm bảng tuyên truyền với
phụ huynh về chương trình dạy trẻ theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ
huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm ở nhà.
Ví dụ; Tơi cung cấp một số bài đồng dao để các bậc phụ huynh cùng học với trẻ
để trẻ được đọc từ chính xác khơng bị nói ngọng.
Tơi trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện bài thơ trẻ được học ở
trường, yêu cầu phụ huynh về nhà cùng đọc với trẻ và cho trẻ kể lại câu chuyện
đó hoặc kích thích trẻ kể lại câu chuyện. Như vậy ngôn ngữ của trẻ phát triển
một cách phong phú và đa dạng.
Trong năm học tôi đã tổ chức 3 lần họp phụ huynh.
+ Lần thứ 2 tôi tổ chức 1 hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ để phụ
huynh được trực tiếp xem các cháu học. Qua cc họp đó tơi trao đổi với phụ
huynh những cháu nói ngọng như cháu Minh Hằng, cháu An Phước, cháu Trí
Hùng, cháu Thành Cơng....Để phối hợp cùng với gia đình giúp cháu phát âm
chuẩn hơn bên cạnh những cháu phát âm cịn ngọng thì tơi cũng nêu ra hhững
cháu mạnh dạn năng động trong các hoạt động như kể chuyện , đọc thơ như :
Cháu Phương Linh, cháu Hà Vi, cháu Thu Hường để phát huy tính tích cực của
các cháu
Bằng cách đó cơ giáo và phụ huynh ln có được thơng tin hai chiều của
trẻ ở nhà cũng như ở trường, trẻ lớp tôi được học và việc phát triển ngông ngữ
của trẻ cũng được củng cố và mở rộng.
8. Những thông tin cần được bảo mật
Không có
9. Các điều kiện áp dụng sáng kiến
- Các trường mầm non chuẩn quốc gia trong tồn tỉnh, có đủ cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác giảng dạy hoạt động phát triển ngôn ngữ như: đầu
đĩa, ti vi, băng, máy vi tính, đồ dung, đồ chơi.
- Đảm bảo môi trường lớp học vệ sinh sạch sẽ, ngăn nắp, hấp dẫn trẻ mầm
non.
- Giáo viên phải phát âm chuẩn ngơn ngữ Tiếng Việt.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được khi áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả.
Hiệu quả sáng kiến.
Theo tơi khơng có một phương pháp hay biện pháp nào là vạn năng. Vì
vậy, để phát triển ngơn ngữ cho trẻ tôi đã sử dụng phối hợp các biện pháp đồng
thời sử dụng các Phiếu đánh giá để kiểm tra, so sánh và đánh giá sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ thu được kết quả như sau:
Bảng 2: Khảo sát sau khi thực hiện các biện pháp Phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Số trẻ được khảo sát là 27 trẻ.