Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phân tích quy định về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.19 KB, 13 trang )

BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT HÌNH SỰ VN – FUWN – DTAP

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
----------

Mơn: Luật Hình Sự Việt Nam
Chủ đề:

PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH VỀ
NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : ĐINH THỊ ANH PHƯƠNG
Lớp

: K6B

Mã số sinh viên

: 183801010122

Hà Nội - 2020


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT HÌNH SỰ VN – FUWN – DTAP

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về đồng phạm.................................................................. 2
1. Dấu hiệu thuộc mặt khách quan .................................................................. 2


2. Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan ..................................................................... 2
II. Các quy định về những loại người đồng phạm .......................................... 3
1. Người thực hành......................................................................................... 3
2. Người tổ chức............................................................................................. 4
3. Người xúi giục ........................................................................................... 5
4. Người giúp sức ........................................................................................... 6
III. Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm .......................................... 7
1. Trường hợp có hành vi vượt quá của người thực hành................................ 7
2. Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm .............. 8
IV. Mở rộng một số vấn đề liên quan ............................................................... 8
1. Đánh giá các quy định về các loại người đồng phạm và thực tiễn áp dụng . 8
2. Kiến nghị, giải pháp hoàn thiện .................................................................. 9
C. KẾT LUẬN................................................................................................... 10


1

A. MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nên kinh tế hiện đại, các quan hệ xã hội nảy sinh
ngày càng đa dạng và phức tạp. Theo đó, các hành vi phạm tội ngày càng gia tăng
với tính chất nguy hiểm và tinh vi hơn rất nhiều so với trước đây. Một vụ án nhưng
có thể có nhiều hành vi xâm hại nhiều quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ; mỗi
vụ án có thể có rất nhiều bị cáo với nhiều loại hành vi khác nhau cùng tham gia,
thậm chí có nhiều loại hành vi rất khó đánh giá, nhận biết đã xâm hại mối quan
hệ nào, cấu thành tội phạm nào. Việc xử lý đối với những vụ án này cũng khó
khăn, phức tạp. Một loại người tham gia việc phạm tội nhưng có thể ở nhiều dạng
hành vi, ở nhiều giai đoạn phạm tội khác nhau tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể
nên rất khó nhận biết. Việc xác định các loại người đồng phạm theo đó càng trở
nên khó khăn hơn. Hơn thế nữa, so với tội phạm do một người thực hiện, tội phạm
có đồng phạm thực hiện thường mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn các vụ

án một người thực hiện.
Với thực tế phổ biến của vấn đề đồng phạm nói chung và liên quan đến những
người đồng phạm nói riêng tơi sẽ đi sâu phân tích đề tài “Phân tích quy định về
những loại người đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam”. Qua đó có thể nêu
lên quan điểm của bản thân về đề tài này, từ đó đánh giá thực trạng áp dụng các
quy định pháp luật hiện nay nhằm tìm ra những giải pháp cụ thể khắc phục những
hạn chế đó, góp phần hồn thiện khung pháp lý và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về các quy định về những loại người đồng phạm.


2

B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về đồng phạm
Trong khoa học pháp lý, đồng phạm được sử dụng để chỉ quy mô phạm tội
về mặt chủ thể. Tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 (BLHS 2015) quy định,
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm”. Theo đó, để xác định đồng phạm địi hỏi phải có những dấu hiệu pháp lý
về mặt khách quan và chủ quan như sau:
1. Dấu hiệu thuộc mặt khách quan
Khái niệm đồng phạm được hiểu là việc thực hiện hành vi phạm tội, thứ nhất
là phải có từ hai người trở lên. Những người này đều phải có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự (TNHS) và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ
luật Hình sự (BLHS). Đối với chủ thể là pháp nhân thương mại, cần thỏa mãn đủ
điều kiện theo quy định tại Điều 75 BLHS 2015.
Thứ hai là các chủ thể cùng nhau thực hiện tội phạm (tức là phải có sự liên
kết về khách quan giữa các hành vi của mỗi người trong đồng phạm). Tuy nhiên
với khái niệm “cùng nhau thực hiện tội phạm” có thể gây nhầm lẫn khi cho rằng
các chủ thể chỉ được xem là đồng phạm khi và chỉ khi cùng thực hiện một tội
phạm, trường hợp cùng thực hiện từ hai tội phạm trở lên thì khơng thỏa mãn yếu

tố đồng phạm. Giữa các hành vi của mỗi người trong đồng phạm có mối liên kết
với nhau, hành vi của người này quyết định hành vi của người khác và hành vi
mỗi người là điều kiện hỗ trợ cho hoạt động chung. Hành vi của tất cả những
người đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm,
không kể người này trực tiếp hay gián tiếp gây ra hậu quả tác hại.
2. Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan
Theo khái niệm trên về đồng phạm thì về hình thức lỗi trong mặt chủ quan
giữa những người trong đồng phạm phải là lỗi cố ý (tức là phải có sự liên kết về
mặt chủ quan giữa những người trong đồng phạm). Khơng phải cứ có nhiều người
tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một
tội phạm. Giữa những người phạm tội đó có sự bàn bạc, thống nhất trước khi thực
hiện tội phạm hoặc có sự tiếp nhận về mặt ý chí giữa những người phạm tội.


3

Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:
- Về lý trí: Mỗi người đồng phạm đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và nhận thức được có người khác cùng thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội với mình. Mỗi người trong đồng phạm đều phải thấy trước hậu
quả nguy hiểm cho xã hội từ hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội
phạm mà họ tham gia thực hiện.
- Về ý chí: Mỗi người đồng phạm đều mong muốn thực hiện hành vi phạm
tội chung với nhau. Giữa những người đồng phạm cùng mong muốn hậu quả
chung của tội phạm xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặt
cho hậu quả chung xảy ra.
II. Các quy định về những loại người đồng phạm
Tại khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 quy định về những loại người đồng phạm.
Trong vụ án đồng phạm, tuỳ thuộc vào quy mơ và tính chất mà có thể có những
người giữ những vai trò khác nhau gồm: người thực hành, người tổ chức, người

xúi giục, người giúp sức.
1. Người thực hành
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Theo đó, được coi là
“trực tiếp thực hiện tội phạm” khi thuộc một trong hai dạng trường hợp sau:
Một là, người thực hành tự mình thực hiện các hành vi khách quan được mô
tả trong cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể, nghĩa là thực hiện tội phạm không
thông qua hành vi của người khác. Đây là trường hợp trực tiếp thực hiện tội phạm
thông thường. Người phạm tội trong trường hợp này có thể khơng sử dụng hoặc
sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội kể cả sử dụng cơ thể người khác hoặc con
vật như là cơng cụ. Trong vụ án đồng phạm, có thể có nhiều người cùng tự mình
thực hiện hành vi được mơ tả trong CTTP, mà có thể mỗi người chỉ thực hiện một
phần hành vi đó, nhưng địi hỏi hành vi tổng hợp của họ phải là hành vi có đủ dấu
hiệu của CTTP. Ví dụ: Trong vụ đồng phạm hiếp dâm, A giữ tay chân, B bịt mồm
nạn nhân (A, B đều là nam), cịn C thì thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với
nạn nhân. Ở đây, tuy hành vi của từng người đồng phạm không thỏa mãn hết các
dấu hiệu của CTTP hiếp dâm nhưng hành vi tổng hợp của A, B và C lại thỏa mãn


4

các dấu hiệu đó. Như vậy, tất cả những người đồng phạm này đều được coi là
người thực hành phạm tội hiếp dâm.
Đối với những tội địi hỏi phải có dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì những người
đồng thực hành chỉ có thể là những người có đủ những dấu hiệu của chủ thể đặc
biệt. Nếu không, họ chỉ có thể là người giúp sức hoặc hành vi đó cấu thành một
tội phạm độc lập khác. Trong ví dụ trên, nếu B là nữ thì B chỉ có thể là người giúp
sức chứ không thể là người thực hành.
Hai là, người thực hành khơng trực tiếp tự đưa mình thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong CTTP mà lại có hành vi cố ý tác động đến người khác để
người này thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Song, bản thân những người

bị tác động mà đã thực hiện hành vi đó thì khơng phải chịu TNHS cùng với người
đã tác động vì họ thuộc một trong những trường hợp sau: (i) Họ là người khơng
có năng lực TNHS hoặc chưa đạt độ tuổi chịu TNHS theo luật định, ví dụ, do thù
ghét A nên B và C đã nhờ D – là một người bị bệnh tâm thần đi đốt nhà A, nhờ
đứa trẻ 10 tuổi đưa ma túy cho người khác,…; (ii) Họ khơng có lỗi hoặc chỉ có lỗi
vơ ý do sai lầm, ví dụ, trường hợp gửi q trong đó có ma túy mà người vận
chuyển khơng biết đó là ma túy; (iii) Họ được loại trừ TNHS theo quy định của
Bộ luật hình sự, ví dụ, một người cầm dao kè vào cổ một người thanh niên và yêu
cầu người đó hiếp dâm một phụ nữ (cưỡng bức về thân thể đến mức khơng cịn
sự lựa chọn nào khác).
Do có những đặc điểm riêng, người thực hành ở dạng thứ hai khơng thể xảy
ra ở những tội địi hỏi chủ thể phải tự mình thực hiện như tội giết hoặc vứt bỏ con
mới đẻ (Điều 124 BLHS 2015), hay các tội phạm tham nhũng,… Ở những tội
phạm này chỉ có thể có người trực tiếp thực hiện tội phạm ở dạng thứ nhất.
Như vậy, hành vi của người thực hành có vị trí trung tâm, giữ vai trị quan
trọng trong vụ án đồng phạm, tuy cũng có nhiều trường hợp người thực hành
khơng đóng vai trị chính. Việc căn cứ vào hành vi của người thực hành giúp giải
quyết nhiều vấn đề về định tội và quyết định hình phạt như việc định tội danh,
việc xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm,…
2. Người tổ chức


5

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
- Người chủ mưu là người chủ động về mặt tinh thần gây ra tội phạm, đề xuất
những âm mưu, vạch ra phương hướng, đường lối hoạt động chung cho nhóm
đồng phạm, kích động thúc đẩy đồng bọn phạm tội. Người chủ mưu có thể trực
tiếp điều khiển hoạt động của tổ chức nhưng cũng có thể khơng;
- Người cầm đầu là người đứng đầu tổ chức phạm tội, là người đứng ra thành

lập các băng nhóm phạm tội hoặc có hành vi tham gia vào việc lên kế hoạch,
phương hướng hoạt động chính của nhóm đồng phạm; phân cơng, giao trách
nhiệm và đơn đốc, điều khiển mọi hoạt động của nhóm đồng phạm;
- Người chỉ huy là người trực tiếp điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm
có vũ trang hoặc bán vũ trang.
Tóm lại, trong mối quan hệ với những người đồng phạm khác, người tổ chức
là người có sáng kiến thành lập hoặc đứng ra thành lập nhóm đồng phạm hoặc
điều kiển hoạt động của nhóm đó. Chính vì vậy, hành vi của người tổ chức được
xem là nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm. Do đó, nguyên tắc xử lý tại điểm c
khoản 1 Điều 3 BLHS 2015 đã quy định: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu,
chỉ huy…” nhằm phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội cao của người tổ chức. Và
khi quyết định hình phạt thì người tổ chức thường phải chịu mức hình phạt nặng
hơn so với các đồng phạm khác.
Ví dụ: “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (Điều 109) có quy
định: Người tổ chức, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì
bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; cịn Người đồng
phạm khác sẽ có mức phạt thấp hơn: bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
3. Người xúi giục
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm. Có thể thấy, đặc điểm chung của hành vi xúi giục thể hiện bằng tác động
tư tưởng, làm nảy sinh ý định phạm tội ở người khác khi họ chưa có ý định phạm
tội hoặc đã có ý định phạm tội nhưng chần chừ chưa muốn phạm tội trên thực tế.
Hành vi xúi giục được thực hiện trước khi người thực hiện hành vi bắt tay vào


6

việc phạm tội, là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của người thực hành. Thủ
đoạn xúi giục đa dạng như kích động, lơi kéo, dụ dỗ, lừa phỉnh, cưỡng ép…
Hành vi của người xúi giục có những đặc điểm sau: (i) Hành vi xúi giục phải

trực tiếp nhằm vào một hoặc một số người nhất định; (ii) Hành vi xúi giục phải
cụ thể, hướng tới việc thực hiện một tội phạm nhất định; (iii) Về mặt chủ quan,
lỗi của người xúi giục là lỗi cố ý trực tiếp.
Ví dụ: X là người thích xem phim điều tra nên X kể cho Y nghe về những
hành động tinh vi của kẻ trộm trong bộ phim. Sau đó Y ghi nhớ và Y đã thực hiện
hành vi phạm tội tương tự như trong phim. Khi bị bắt, Y khai mình phạm tội vì
được nghe X kể về bộ phim đó. Nhưng X được xác định khơng là người xúi giục
vì X khơng có lỗi cố ý trực tiếp, do đó khơng có đồng phạm xảy ra.
Thơng thường, hành vi của người xúi giục ít nguy hiểm hơn so với hành vi
của người tổ chức. Nhưng tùy vào trường hợp cụ thể mà nó có thể nguy hiểm hơn
hoặc ít nguy hiểm hơn hành vi của người thực hành, nên khi quyết định hình phạt
thì họ thường phải chịu mức hình phạt nhẹ hơn người tổ chức. Theo đó, lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, tơn giáo, tín ngưỡng, sự nhẹ dạ của những người dưới 18 tuổi
để thúc đẩy họ phạm tội là những trường hợp nghiêm trọng.
4. Người giúp sức
Người giúp sức là người tạo ra những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho
việc thực hiện tội phạm. Hành vi giúp sức căn cứ vào những dấu hiệu khách quan
gồm 2 loại: giúp sức về vật chất và giúp sức về tinh thần.
- Giúp sức về vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện, cung cấp
thông tin cần thiết, chỉ dẫn, góp ý kiến hoặc khắc phục những trở ngại thực tế…
để tạo điều kiện cho việc phạm tội được thể hiện thuận lợi, dễ dàng hơn. Ví dụ:
cung cấp xe máy làm phương tiện để thực hiện tội trộm cắp…
- Giúp sức về tinh thần là những hành vi cung cấp điều kiện khơng có tính
vật chất như chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình hoặc hứa hẹn trước sẽ che
giấu tội phạm hoặc hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ tang vật,… Ví dụ: gợi ý mức lợi
nhuận khổng lồ khi vận chuyển thành công heroin với số lượng lớn.


7


Có thể xem là người giúp sức trong trường hợp một người hứa hẹn sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện phạm tội, sau khi thực hiện tội phạm. Ví dụ,
hứa hẹn che giấu tội phạm, tiêu thụ tài sản sau khi phạm tội… Việc hứa hẹn có
tác động tích cực vào q trình thực hiện tội phạm, nó là điều kiện để củng cố
thêm quyết tâm phạm tội đã có sẵn trong ý chí của người thực hành, nhưng khơng
có ý nghĩa tạo ra ý định phạm tội hoặc thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành
vi của người giúp sức cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm
chứ không trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi giúp sức có thể xảy ra trước hoặc
trong khi, thậm chí là sau khi người thực hiện hành vi thực hiện tội phạm. Hành
vi này không trực tiếp gây thiệt hại cho khách thể mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi
cho tội phạm.
Hành vi giúp sức về tinh thần khác với hành vi xúi giục trong đồng phạm.
Hành vi giúp sức về tinh thần khơng có tính chất quyết định trong việc thúc đẩy
người khác phạm tội, mà chỉ “giúp” người khác đã có ý định phạm tội có thêm
điều kiện thuận lợi, yên tâm hơn khi thực hiện tội phạm.
III. Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
1. Trường hợp có hành vi vượt quá của người thực hành
Khoản 4 Điều 17 BLHS 2015 quy định như sau: “Người đồng phạm khơng
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”.
Hành vi vượt quá chỉ so sánh với hành vi của người thực hành, bởi trong vụ
án đồng phạm vai trò của người thực hành là rất quan trọng. Có thể hiểu “Hành
vi vượt quá trong đồng phạm chính là hành vi vượt ra khỏi dự tính, dự định ban
đầu của những người cùng thực hiện hành vi phạm tội”, đương nhiên, hành vi
vượt quá đó xuất phát từ trong ý thức của người thực hành mà những người đồng
phạm kia hoàn tồn khơng biết, cũng khơng mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả
xảy ra thì rõ ràng người có hành vi vượt quá đó phải gánh chịu hậu quả do hành
vi vượt quá của mình. Song, trường hợp nếu biết ý nghĩ vượt q đó mà họ cũng
đồng ý thì những đồng phạm này sẽ cùng chịu hậu quả giống nhau.



8

Hành vi vượt quá đó nếu đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác thì sẽ bị xử
lý về một tội khác, nếu không đủ yếu tố cấu thành tội khác thì bị xử lý về hành vi
vượt quá đó.
2. Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm
 Đối với người thực hành:
Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được xác định như trường
hợp phạm tội riêng lẻ. Người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
thì chỉ riêng họ được miễn TNHS. Những người đồng phạm khác vẫn phải chịu
TNHS về tội phạm họ đã tham gia ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội
chưa đạt tùy thuộc vào thời điểm người thực hành tự ý chấm dứt việc phạm tội.
 Đối với người tổ chức, người xúi giục, ngườu giúp sức:
Trường hợp người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức tự ý nửa chừng
chấm dứt hành vi phạm tội và đã áp dụng các biện pháp ngăn cản người thực hành
thực hiện tội phạm, việc người thực hành không thực hiện được hành vi nguy
hiểm đến người khác là do sự ngăn cản đó thì người tổ chức, người xúi giục, người
giúp sức được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 16 BLHS 2015 (quy định chi
tiết tại mục 1 phần I Nghị quyết 01-HĐTP/NQ).
Người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức có thể được miễn trách nhiệm
hình sự (theo quy định tại Điều 25 BLHS 2015) nếu trước khi hành vi phạm tội bị
phát giác mà họ đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện
và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.
Tuy nhiên, người thực hành, người giúp sức tự ý chấm dứt hành vi phạm tội
vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khơng tố giác tội phạm (Điều 390
BLHS 2015) nếu người đó biết về hành vi phạm tội của người đồng phạm khác
mà không tố giác (mục 1 và mục 3 phần I Nghị quyết 01-HĐTP/NQ).
IV. Mở rộng một số vấn đề liên quan
1. Đánh giá các quy định về các loại người đồng phạm và thực tiễn áp dụng

Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp vụ án có đồng phạm, Tồ án đã
xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành thành người giúp
sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội khơng chính xác.


9

Khoản 2 Điều 54 BLHS 2015 quy định: “Toà án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt … đối với người phạm tội lần đầu
là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trị khơng đáng kể”. Quy
định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án đồng
phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trị hạn chế nhất, do đó, họ có thể được
xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy
nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa
học luật hình sự, chứ khơng phải theo nhận thức cảm tính.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 17 BLHS 2015, so với quy định của đồng
phạm trong BLHS 1999 thì đây là quy định mới của BLHS 2015, phù hợp với đặc
điểm của tội phạm, bởi vì: Một trong những nguyên tắc quan trọng để xác định
TNHS là căn cứ vào lỗi của người phạm tội; đối với hành vi vượt quá của người
thực hành thì người đồng phạm khơng có lỗi, vì vậy họ khơng phải chịu TNHS,
nên quy định này là hoàn toàn hợp lý để khi quyết định hình phạt, tạo nên sự cơng
bằng của pháp luật.
Thực tế xử lý các vụ án đồng phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải
căn cứ vào tính chất, mức độ lỗi của từng người để xử lý nhằm đảm bảo tính cơng
bằng trong xác định TNHS, vì thế việc BLHS 2015 ghi nhận quy định tại khoản
4 Điều 17 khẳng định tính minh bạch của Bộ luật. Tuy nhiên, vấn đề xác định
hành vi vượt quá trong đồng phạm vì chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, nên đã
gây khó khăn và tạo nên nhiều tranh cãi trong các cơ quan áp dụng pháp luật.
2. Kiến nghị, giải pháp hoàn thiện
Thứ nhất, khái niệm người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người

giúp sức trong đồng phạm cần có sự bao qt theo mơ hình lý luận.
- Người thực hành cần nêu rõ các dạng trường hợp cụ thể như đã phân tích ở
trên như sau: Người thực hành là người trực tiếp tham gia thực hiện tội phạm hoặc
thực hiện tội phạm bằng thủ đoạn sử dụng người khác mà theo quy định của Bộ
luật này khơng phải chịu trách nhiệm hình sự như một cơng cụ phạm tội.
- Có thể đưa ra khái niệm người tổ chức như sau: Người tổ chức là người
đồng phạm thỏa mãn các dấu hiệu của người tổ chức thực hiện tội phạm. Người


10

tổ chức thực hiện tội phạm là người thành lập nhóm tội phạm hoặc điều khiển
nhóm tội phạm cụ thể dưới dạng chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy.
- Về khái niệm người xúi giục cần quy định đầy đủ hơn như sau: Người xúi
giục là người đồng phạm đã kích động, dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa hoặc bằng thủ
đoạn khác thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
- Khái niệm người giúp sức cần được cụ thể hóa hơn như sau: Người giúp
sức là người tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm bằng cách cung cấp các
thông tin, phương tiện hay công cụ thực hiện tội phạm hay các dấu vết của tội
phạm hoặc những tài sản hay đồ vật do phạm tội mà có, cũng như hứa hẹn trước
về việc mua, bán hoặc tiêu thụ những tài sản hay đồ vật đó.
Thứ hai, đối với trường hợp có hành vi vượt quá của người thực hành. Trước
hết cần đưa ra khái niệm về hành vi vượt quá của người thực hành trong Bộ luật
hình sự. Hành vi vượt quá của người thực hành cần được quy định như sau:
“Hành vi vượt quá của người thực hành tội phạm là hành vi họ tự thực hiện
tội phạm khơng có sự cố ý của những người đồng phạm khác.
Những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi vượt quá của người thực hành.”
C. KẾT LUẬN
Kể từ khi BLHS 2015 có hiệu lực thi hành, các quy định của pháp luật liên

quan đến vấn đề đồng phạm ngày càng được áp dụng một cách triệt để và phổ
biến hơn. Góp phần giải quyết một cách chính xác các vụ án đồng phạm và đặc
biệt là vụ án có nhiều người thực hành. Tuy nhiên, quan hệ xã hội mà Luật hình
sự bảo vệ khơng phải bất biến mà luôn thay đổi phức tạp theo hồn cảnh kinh tế,
chính trị, xã hội, do đó giữa vấn đề lý luận và việc áp dụng thực tiễn xét xử những
hành vi cụ thể của đồng phạm còn tồn tại nhiều bất cập.
Vì vậy nghiên cứu, hồn thiện những vấn đề liên quan đến đồng phạm nói
chung và các loại người đồng phạm nói riêng là rất cần thiết, góp phần to lớn vào
việc hồn thiện pháp luật nói chung đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp cũng
như phục vụ tốt nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia – sự thật, Hà Nội;
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội;
3. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
4. Bộ Luật hình sự năm 1999;
5. Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;
6. Nguyễn Ngọc Hịa (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
2015 (phần chung), Nxb. Tư pháp;
7. Đinh Văn Quế, Tìm hiểu chế định “hành vi vượt quá của người thực hành
trong vụ án có đồng phạm”, Tạp chí Kiểm sát, số 21/2017;
8. Trần Văn Hùng (2019), Hành vi vượt quá của người thực hành trong vụ án
đồng phạm, < />9. Kỳ Sơn (2017), Đề nghị giữ nguyên khoản 4 Điều 17 BLHS năm 2015,
< />10. Mai Lan Ngọc (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại
người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;

11. Nguyễn Thị Thu Hòa (2011), Người thực hành trong đồng phạm theo Luật
Hình sự Việt Nam, < />00050001153.pdf>, 2011;
12. />13. />14. />15. />16. />Cùng một số cơng trình nghiên cứu khoa học và trang thơng tin khác…



×