Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một vài giải pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.44 KB, 15 trang )

Mã số

- Tên sáng kiến: Một vài giải pháp rèn kĩ năng viết văn
biểu cảm cho học sinh THCS
- Lĩnh vực áp dụng: Học sinh lớp 7;
Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS
- Họ tên tác giả: VŨ THỊ TUYẾN
- Đơn vị công tác: Trường THCS Gia khánh

Gia Khánh, tháng 01/2019


Họ tên, chữ ký người chấm điểm

Điểm

Mã số

Người số 1:……………………………………….
Người số 2:……………………………………….
- Tên sáng kiến sáng kiến: Một vài giải pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm
cho học sinh THCS.
1. Nội dung của sáng kiến
1.1 Nhận diện đặc điểm kiểu bài biểu cảm
a. Khái niệm:
Văn biểu cảm( còn gọi là văn trữ tình) là kiểu bài có nội dung biểu đạt tư
tưởng, tình cảm, bộc lộ những cảm xúc của người viết- thường là những ấn tượng
thầm kín, sâu sắc về con người, về sự vật, về những kỉ niệm, những hồi ức khó
quên trong cuộc đời mỗi con người.Vì vậy văn biểu cảm có khả năng khơi gợi
những cảm xúc chân thành nơi người đọc, tạo sự đồng cảm giữa người đọc và
người viết. Như vậy văn biểu cảm ra đời là để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con


người. Khi vui, khi buồn, khi hạnh phúc hay khổ đau, bao giờ con người cũng
muốn được thổ lộ, giãi bày, chia sẻ.
So với khái niệm văn phát biểu cảm nghĩ (về tác phẩm văn học, về nhân vật
văn học) trước đây thì khái niệm văn biểu cảm rộng hơn nhiều bởi nó gắn liến với
tồn bộ đời sống tình cảm vốn rất phong phú và đa dạng của con người. Một bài
thơ trữ tình, một trang tùy bút, những cảm xúc khi đọc một tác phẩm văn học hay
khi đứng trước một cảnh đẹp thiên nhiên,…đều có thể là những văn bản biểu cảm.
b. Các dạng bài văn biểu cảm thường gặp.
Bài văn biểu cảm về một đối tượng trong cuộc sống: nghĩa là bày tỏ cảm
xúc, suy nghĩ…của người viết về một con người, một đồ vật, một loài vật, một loài
cây, một phong cảnh…Cuộc sống vô cùng phong phú, đa dạng và ẩn chứa trong đó
biết bao điều kì diệu; chính điều đó sẽ dánh thức những tình cảm phong phú và vơ
cùng đa dạng trong tâm hồn chúng ta.
Biểu cảm về một tác phẩm văn học: là trình bày những suy nghĩ, cảm xúc,
thái độ, đánh giá của mình về tác phẩm văn học: một bài thơ, một câu chuyện…
Những cảm xúc ấy có thể là: cảm xúc về cảnh, về người trong tác phẩm; cảm xúc
về vẻ đẹp ngôn từ trong tác phẩm văn học; cảm xúc về tư tưởng của tác phẩm.
Điều cốt yếu đối với việc phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học là học sinh phải
có ấn tượng tổng thể về tác phẩm, về nhân vật chính hoặc về phong cảnh, tình
huống để nói lên ấn tượng ấy, cảm xúc và suy nghĩ trên cơ sở ấn tượng ấy.
1.2 Yêu cầu của kiểu bài văn biểu cảm


a. Về kiến thức:
Học sinh hiểu được mục đích của văn biểu cảm, đặc điểm của văn biểu cảm
Hiểu được ý nghĩa quan trọng của văn biểu cảm trong cuộc sống con người.
b. Về kĩ năng:
Biết phân biệt được biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp cũng như phân
biệt được các yếu tố đó trong văn bản.
Biết cách tìm ý, lập ý cho bài văn biểu cảm nói chung

Biết cách tạo lập văn bản biểu cảm về về một đối tượng trong cuộc sống và
biểu cảm về một tác phẩm văn học
Biết cách viết đúng kiểu bài biểu cảm từ đó hướng tới viết hay những bài
văn biểu cảm trong cuộc sống
2. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến được áp dụng cho các giáo vên giảng dạy bộ môn Ngữ văn trường
THCS và áp dụng cho các đối tượng học sinh lớp 7, các đội tuyển học sinh giỏi
môn Ngữ văn 8,9; học sinh giỏi môn KHXH lớp 8.
Trong thời gian thực hiện sáng kiến bản thân tôi đã trực tiếp vận dụng một
số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao kĩ năg viết văn biểu cảm qua một số dạng bài
thường gặp như:
2.1. Giải pháp 1:
*Coi trọng giờ dạy lý thuyết
Trong các giờ dạy lý thuyết về văn biểu cảm tôi đã tập trung khắc sâu kiến
thức cho học sinh từ việc hình thành khái niệm thế nào là văn biểu cảm, đặc điểm
văn bản biểu cảm, đề văn biểu cảm, cách làm bài văn biểu cảm, cách lập ý của bài
văn biểu cảm, các yếu tố tự sự miêu tả trong văn biểu cảm, nắm được cách làm bài
văn biểu cảm về tác phẩm văn học. Cách thực hiện rất đa dạng, song nổi bật là sử
dụng câu hỏi trắc nghiệm buộc học sinh suy nghĩ, động viên học sinh hào hứng trả
lời, qua đó nắm vững kiến thức. Cách làm này huy động được tất cả học sinh tham
gia vào quá trình lĩnh hội, củng cố kiến thức, bởi tất cả đều được suy nghĩ, một số
trả lời, một số khác nhận xét đánh giá bổ sung hoặc sửa chữa.
Sau đây là một bài tập đã áp dụng khi giảng dạy (đáp án đúng)
Bài 1: Thế nào là một văn bản biểu cảm?
A. Kể lại một câu chuyện cảm động
B. Bàn luận về một câu chuyện cảm động trong cuộc sống
C. Là những văn bản được viết bằng thơ
D. Bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con người trước những sự vật hiện tượng
trong đời sống
Bài 2: Dịng nào sau đây nói đúng về văn biểu cảm:

A. Chỉ thể hiện cảm xúc, không có yếu tố miêu tả và tự sự.
B. Khơng có lý lẽ, lập luận.
C. Cảm xúc chỉ thể hiện trực tiếp
D. Cảm xúc có thể được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp


( Hai bài trên được áp dụng cho tiết 20: Tìm hiểu chung về văn biểu cảm)
Bài 3: Cho đoạn văn sau: “ Hồ Chí Minh là cái sản phẩm trong sáng nhất
của giống nòi. Cụ Hồ là tinh hoa của mn đời để lại. Vì sao chúng ta cảm động
khơng nói nên lời, khi nhìn thấy Hồ Chủ Tịch? Vì sao dân chúng thấy mặt Cụ như
thấy mặt mẹ, sung sướng giơ hai tay chào đón, ai nấy mặt mày hớn hở trong lịng
thỏa th? Há chẳng phải vì Hồ Chủ Tịch kết tinh được mn cái gì hay, đẹp nhất
của mỗi người Việt Nam, há chẳng phải vì cụ Hồ là hiện thân của dân tộc?"
a. Theo em tình cảm nổi bật trong đoạn văn trên là:
A. Ca ngợi tài năng trí tuệ của Hồ Chủ Tịch
B. Ngợi ca sự nghiêp cách mạng của Hồ Chủ Tích
C. Bày tỏ niềm ngưỡng vọng và kính u vơ hạn của nhân dân đối với Bác Hồ
D. Bày tỏ những tình cảm của tác giả đối với Bác Hồ
b. Tác giả đã bày tỏ tình cảm bằng cách nào?
A. Bày tỏ trực tiếp
B. Miêu tả sự việc
C. Liên tưởng so sánh
D. Lối ẩn dụ tượng trưng
( Sự dụng trong tiết 23: Đặc điểm văn bản biểu cảm)
Củng cố kiến thức lý thuyết bằng những bài tập chắc nghiệm đồng thời gắn
lý thuyết với thực hành, bằng cách đưa ra những bài tập ứng dụng ngay sau đó.
Ví dụ đối với Tiết 20 tôi ra đề sạu: “ Viết một đoạn văn từ hai đến ba câu nói
lên cảm xúc của em trước sự vật hoặc hiện tượng nào đó”. Với dạng bài tập này tôi
đã phân loại học sinh để bồi dưỡng học sinh khá giỏi và giảm dần học sinh trung
bình. Với đối tượng yếu kém học sinh cũng phải viết theo yêu cầu của thầy cô song

chất lượng chưa nâng cao lên được. Một phần cũng do thời gian cuối tiết học chưa
nhiều. Vì vậy có những tiết học tôi cho học sinh làm ở nhà.
Thực hiện biện pháp này đối với học sinh, ban đầu không phải học sinh nào
cũng hào hứng mà có thể miễn cưỡng. Nhưng dần dần do tơi tích cực động viên
khích lệ hoạt động theo nhóm, kết hợp việc cho điểm những câu trả lời đúng và
nhanh, những bài viết đúng và hay, nên đã thu hút được 100% các em tham gia. Đã
xảy ra trường hợp học sinh tiếc ngẩn ngơ vì minh cũng làm được bài nhưng chậm
hơn để lỡ cơ hội trả lời. Chính cách làm này đã khiến học sinh nắm rất chắc những
vấn đề về lý thuyết văn biểu cảm để từ đó có cơ sở viết bài văn biểu cảm đạt kết
quả cao.
2.2. Giải pháp2: Tăng cường thực hành luyện tập.
a. Hướng dẫn chung.
Trước hết, đây là giải pháp được thực hiện linh hoạt ở các khâu các đoạn
trong bài giảng ở trên lớp, hoặc ở nhà hoặc ở lớp bồi dưỡng học sinh giỏi, ở lớp
phụ đạo học sinh yếu, với từng hoàn cảnh từng đối tượng mà áp dụng những cách
khác nhau, yêu cầu mức độ khác nhau.
Bắt đầu từ việc ra đề. Để giúp học sinh có thể thể hiện tình cảm thật sự
“mang dấu ấn cá nhân” với đối tượng biểu cảm, giúp cho các em thoải mái tự


nguyện bộc lộ tình cảm của mình khơng phải do một sự gị ép nào chọn những đề
bài có độ mở nhất định, tạo cơ hội cho các em lựa chọn đối tượng phù hợp với cảm
xúc của mình. Sau đây là một vài đề bài theo cách đó.
Đề 1: Loài hoa em yêu.
Đề 2: Cảm nghĩ về một mùa trong năm.
Đề 3: Cảm nghĩ về một chuyện vui hay chuyện buồn trong tuổi ấu thơ của
em.
Đề 4: Phát biểu cảm nghĩ về một người thân yêu.
Đề 5: Cảm nghĩ về một loài cây em yêu.
Đề 6: Cảm nghĩ về một bài thơ đã học hay chưa học.

Qua theo dõi tơi thấy các em đều có ý thức lựa chọn đối tượng phù hợp với
tình cảm cá nhân. Vì vậy chi tiết thể hiện tự nhiên và tình cảm rất chân thật thậm
chí cịn sâu sắc và cảm động. Đó là những trường hợp lựa chọn đối tượng biểu cảm
người cha đã mất (đề 4 ) hoặc cây đa nơi trường cũ (đề 5).
Sau khâu ra đề là việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề và tìm ý cho bài văn
sắp viết. Việc này tôi thường tổ chức cho học sinh tự làm và tự nhận xét đánh giá
bổ sung cho hồn chỉnh. Việc phân tích đề phải chỉ ra được thể loại bài văn sẽ việt,
xác định được đối tượng biểu cảm và định hướng biểu cảm cho bài làm. Việc tìm ý
phải dựa trên cơ sở hình dung rõ về đối tượng trong mọi trường hợp và cảm xúc
tình cảm của mình trong các trường hợp đó. Cụ thể:
Bước 1 : Xác định yêu cầu của đề và tìm ý.
Phải căn cứ vào các từ ngữ và cấu trúc của đề bài để xác định nội dung, tư
tưởng, tình cảm mà văn bản sẽ viết cần hướng tới. Từ đó đặt câu hỏi để tìm ý (Nội
dung văn bản sẽ nói về điềi g? Qua đó cần bộc lộ thái độ tình cảm gì?).
Bước 2: Lập dàn ý:
Bố cục của văn bản biểu cảm gồm ba phần: Mở bài- Thân bài- Kết bài. Tuy
nhiên, việc sắp xếp ý để tạo thành một bố cục hoàn chỉnh phụ thuộc vào mạch cảm
xúc của người viết, thầy cô không thể áp đặt học sinh theo một kiểu nào. Nhưng
giáo viên sẽ định hướng cho học sinh phần Mở bài, Kết bài thường là những câu
văn nêu cảm nhận chung hoặc nâng lên thành tư tưởng, tình cảm khái quát. Các ý
lớn nhỏ trong phần thân bài phải được sắp xếp với diễn biến tâm lí của con người
trước từng sự việc từng đối tượng.
Bước 3: Hoàn thành bài văn( viết bài).
Đây là bước quan trọng. Trên cơ sở dàn bài đã xây dựng, học sinh viết thành
bài văn hoàn chỉnh. Học sinh cần lưu ý trong quá trình viết bài, phải biết kết hợp
các phương thức biểu đạt khác nhau( miêu tả, tự sự, nghị luận); đồng thời phải biết
sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ, nói
quá…). Câu văn phải biến hóa linh hoạt (có câu cảm, câu câu cầu khiến, câu dài,
câu ngắn…). Lời văn phải có cảm xúc,từ ngữ giàu hình ảnh giàu sức gợi cảm.
Khi viết bài học sinh lựa chọn phương thức biểu cảm thích hợp và đúng

cách. Nếu là biểu cảm trực tiếp cần chú ý ngữ điệu, từ ngữ trực tiếp biểu lộ cảm
xúc, sử dụng kiểu câu cảm với những từ cảm thán, sử dụng các phép tu từ đã học.


Nếu biểu cảm gián tiếp cần chú ý mức độ sử dụng các yếu tố tự sự và miêu tả như
một phương tiện để bộc lộ cảm xúc, tránh trường hợp lạm dụng hai yếu tố trên
khiến bài viết trở thành bài văn tự sự hoặc miêu tả. Giúp các em viết dàn ý trong
văn biểu cảm, chọn những dàn ý sao cho cho phù hợp với đề tài này.
Ví dụ Đề bài: “ Phát biểu cảm nghĩ về một đồ chơi tuổi ấu thơ” đòi hỏi phải
lập ý theo cách hồi tưởng kỷ niệm về quá khứ là chủ yếu, rồi mới có thể kết hợp
với các cách lập ý khác. Học sinh thấy được rằng không nắm được cách lập ý thì
khơng thể triển khai ý theo u cầu đề bài này. Hoặc như đối với đề bài “Phát biểu
cảm nghĩ một người thân u” thì có sự quan sát miêu tả suy ngẫm về đối tượng,
ngoài ra có thể kết hợp các biện pháp khác.
Bước 4: khảo lại bài văn.
Khảo lại cách diễn đạt để sửa lỗi, kiểm tra lại văn bản đã tốt lên tư tưởng,
tình cảm chính chưa hoặc đã tạo sự xúc động cho người đọc chưa.
b. Hướng dẫn cụ thể:
b.1. Hướng dẫn học sinh viết mở bài.
Phần mở bài của bài văn biểu cảm là giới thiệu được đối tượng biểu cảm và
tình cảm của người viết với đối tượng đó. Vì vậy phần mở bài đơi khi rất ngắn gọn,
ví dụ như “ Tuổi thơ của em đã trải qua nhiều kỷ niệm khó quên, nhưng em nhớ
nhất là một câu chuyện thật bất ngờ đến với em trong đêm trung thu vừa qua”.
Hoặc “Tuổi ấu thơ của tôi gắn liền với một thức quà mùa hè: quả nhót.”
b.2. Hướng dẫn học sinh viết thân bài.
Việc phân chia đoạn ở phần thân bài của bài văn biểu cảm thường dựa trên
yếu tố cảm xúc tâm lý hoặc lập ý của những người viết. Vì vậy sẽ có đoạn văn hồi
tưởng q khứ với những kỷ niệm khó quên để lại cảm xúc mạnh mẽ, da diết… và
cũng có một đoạn văn thể hiện một tình huống ngay trước mắt, người viết vừa kể
vừa tả thể hiện suy ngẫm cảm xúc trước người, vật, việc đó. Và dù viết theo cách

lập ý nào thì người viết cũng phải trình bày bộc lộ tình cảm có thật của mình với
đối tượng cũng có thật ở ngồi đời thì tình cảm mới tự nhiên, có sức lay động đến
người đọc. Mọi đoạn văn viết về đối tượng nào đó tự tưởng tượng ra đều khó làm,
chính người viết cũng khó có tình cảm chứ chưa nói đến làm người đọc cảm động.
Tơi thường cho học sinh một câu văn mang ý nghĩa khái quát và yêu cầu viết đoạn
văn theo ý đó. Sau nhiều lần như vậy học sinh “lên tay” hơn nhiều.
Khơng có bài nào giống hoàn toàn bài nào về cả ý và cách diễn đạt nhưng lại
đạt được yêu cầu: ý tưởng đầy đủ, mạch lạc, tình cảm tự nhiên trong sáng phù hợp
lứa tuổi. Việc liên kết đoạn văn cũng được tôi chú ý hướng dẫn học sinh thực hiện.
Với đối tượng khá giỏi có thể sử dụng câu nối, song phần lớn các em dừng ở mức
sử dụng từ ngữ để liên kết đoạn văn. Muốn sử dụng từ ngữ liên kết đoạn văn cho
phù hợp phải xem xét mối quan hệ giữa hai đoạn về mặt nội dung như đó là mối
quan hệ tương phản hay bổ sung hay là ý cụ thể với ý khái quát… hoặc như trình
tự, như thời gian, khơng gian, sự việc,… Để học sinh dễ dàng chọn lựa những
phương tiện liên kết khi viết văn, tôi cung cấp cho các em những từ ngữ liên kết
thường dùng.


b.3. Hướng dẫn học sinh viết kết bài.
Phần kết bài của bài văn biểu cảm dòi hỏi học sinh phải khẳng định lại tình
cảm của mình đối với đối tượng biểu cảm. Phần này có thể lập ý bằng cách hướng
tới tương lai, thể hiện niềm tin, niềm mong ước…
Mọi thứ tình cảm, cảm xúc được biểu hiện phải có ý nghĩa giáo dục với
mình, với người. Ví dụ sau đây là một kết bài như thế: “ Mi Mi là một người bạn
nhỏ dễ thương của tôi. Cảm ơn bố đã đưa Mi Mi đến với tuổi ấu thơ của tơi, dạy
tơi hiểu biết về Mi Mi và tình yêu thương của tôi cứ lớn dần theo năm tháng.”
2.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn cách làm bài cụ thể đối với bài văn biểu
cảm.
a. Biểu cảm về một đối tượng trong cuộc sống.
a.1. Bản chất, mục đích của biểu cảm về một đối tượng trong cuộc sống: là

bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá…của mình trước một đối tượng nào đó trong
cuộc sống. Nếu khơng u, khơng gắn bó, khơng trân trọng…với cuộc sống, con
người, mn vật thì khó có thể viết được bài văn chứ chưa nói đến bài văn biểu
cảm hay.
a.2. Kĩ năng cần đạt: Học sinh biết bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình về
con người, đồ vật loài vật …bằng những đoạn văn, bài văn biểu cảm cụ thể. Biết
sống sâu sắc hơn với những gì xung quanh, biết trân trọng những giá trị của cuộc
sống.
a.3. Các bước làm bài văn biểu cảm về một đối tượng trong cuộc sống.
* Tìm ý: Để tìm ý cho một bài văn biểu cảm trước hết học sinh phải định
hướng tình cảm chủ đạo với đối tượng biểu cảm. Mỗi bài văn biểu cảm biểu đạt
một tình cảm chủ yếu, điều này sẽ giúp cho bài viết có trọng tâm và sâu sắc.
Một trong cách tìm ý hiệu quả học sinh phải biết đặt ra và trả lời câu hỏi
Ví dụ: Đề bài Cảm nghĩ về dịng sơng q hương.
+ Dịng sơng q em có những đặc điểm gì nổi bật? Hình dáng con sơng ra
sao? Màu nước thế nào? Cảnh vật hai bên bờ có gì đẹp? Những đặc điểm đó gợi
cho em cảm xúc gì?
+ Dịng sơng gắn bó như thế nào với em? Trên dịng sơng q hương, em đã
có những kỉ niệm nào khơng thể qn với bạn bè?
+ Dịng sơng q hương gợi cho em nghĩ đến hình ảnh những con người nào
nơi quê hương yêu dấu hay không?
+ Trong tương lai, em nghĩ dịng sơng có thay đổi khơng? Nếu có, em sẽ vui
hay buồn?
Mỗi câu hỏi được cụ thể hóa thành những câu hỏi nhỏ hơn để triển khai ý
cho bài viết sâu sắc và phong phú.
Để tạo ý cho bài văn biểu cảm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc nảy sinh,
người viết có thể hồi tưởng kỉ niệm quá khứ, suy nghĩ về hiện tại, mơ ước tương
lai, tưởng tượng ra ngững tình huống gợi cảm, hoặc vừa quan sát vừa suy nghẫm
vừa thể hiện cảm xúc.
* Lập dàn ý:



- Mở bài: Giớí thiệu đối tượng biểu cảm và tình cảm của em đối với đối
tượng ấy.
- Thân bài: Các đặc điểm gợi cảm của đối tượng và những suy nghĩ, cảm xúc
của người viết về đối tượng.
- Kết bài: Khẳng định lại tình cảm của mình đối với đối tượng.
Ví dụ Đề văn Cảm nghĩ về mẹ.
Mở bài: Giớí thiệu về mẹ và nêu tình cảm của mình đối với mẹ.
Thân bài: Trình bày những tình cảm, suy nghĩ về mẹ
+ Yêu mẹ: Yêu nét ngoại hình nào đó của mẹ( yêu ánh mắt, nụ cười, bàn tay,
giọng nói…). Miêu tả và cảm nhận về nét đặc điểm đó ở mẹ.
+ Xúc động, biết ơn mẹ: Mẹ chăm sóc, dạy bảo những gì?
+ Nhớ những kỉ niệm gắn bó với mẹ
+ Suy nghĩ về vai trị, ý nghĩa của mẹ trong cuộc sống của mình.
- Kết bài: Khẳng định tình cảm đối với mẹ.
Tùy vào đối tượng có thể sắp xếp những dàn ý khác nhau. Việc sắp xếp các
ý cần tuân thủ theo các quy tắc nhất định như:
Các ý lớn phải ngang hàng nhau và cùng làm sáng tỏ đối tượng.
Các ý nhỏ phải nằm trong ý lớn và phải làm sáng tỏ ý lớn, cần trình bày
theo thứ tự, tránh trùng lặp.
Cần xác định mức độ các ý cho hợp lí( có ý cần nêu kĩ, có ý cần nói qua)
Chú ý những quy tắc này, chúng ta sẽ tránh được lỗi như lạc ý, thiếu ý, lặp ý,
ý lộn xộn…
* Viết câu, dựng đoạn.
- Viết câu
+ Đối với học sinh muốn viết câu văn biểu cảm trước hết phải giàu cảm xúc.
Có hai cách biểu đạt tình cảm, cảm xúc trong văn biểu cảm: biểu cảm trực tiếp,
biểu cảm gián tiếp. Biểu cảm trực tiếp lại dùng những từ ngữ trực tiếp gợi ra tình
cảm ấy của con người.

Ví dụ như các câu văn:
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi,- mùa xuân của Hà Nội thân u, của Bắc Việt
thương mến.
Tơi u Sài Gịn da diết như người đàn ơng vẫn ơm ấp bóng dáng mối tình
đầu chứa nhiều ngang trái.
+Khi viết học sinh có thể sử dụng linh hoạt các kiểu câu: câu đặc biệt, câu
rút gọn, câu cảm thán, câu hỏi…sử dụng các biện pháp tu từ, từ tượng thanh, tượng
hình, từ láy…để cảm xúc được thể hiện tự nhiên.
- Dựng đoạn
+ Đoạn văn triển khai theo lối diễn dịch: Câu chủ đề đứng ở đầu đoạn, các
câu còn lại làm rõ ý cho câu chủ đề
+ Đoạn văn triển khai theo lối quy nạp: Câu chủ đề đứng ở cuối đoạn tổng
hợp các ý đã nêu ở trước đó.


+ Đoạn văn triển khai theo lối tổng- phân- hợp: Câu nêu ý tổng quát đứng ở
đầu đoạn, các câu tiếp triển khai ý, câu kết đoạn khái quát, nâng cao ý cả đoạn.
Khi viết văn biểu cảm, học sinh có thể kết hợp các kiểu đoạn với nhau cho
bài viết phong phú, linh hoạt.
b. Biểu cảm về một tác phẩm văn học
b.1. Bản chất, mục đích của biểu cảm về tác phẩm văn học.
Cảm nghĩ về tác phẩm văn học là trình bày những suy nghĩ, cảm xúc, thái độ
đánh giá của mình về tác phẩm văn học – một bài thơ, một câu chuyện… Những
cảm nghĩ ấy có thể là: cảm xúc về cảnh, về cảnh trong tác phẩm; cảm xúc về tâm
hồn, số phận nhân vật trong tác phẩm văn học; cảm xúc về vẻ đẹp ngôn từ trong
tác phẩm văn học; cảm xúc về tư tưởng của tác phẩm. Điều cốt yếu đối với việc
phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học là học sinh phải có ấn tượng tổng thể về
tác phẩm, về nhân vật chính hoặc về phong cảnh, tình huống để nói lên ấn tượng
ấy, cảm xúc và suy nghĩ trên cơ sở ấn tượng ấy.
b.2 Kĩ năng cần đạt:

Học sinh có thể viết đoạn văn, bài văn phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm
văn học. Ngoài ra, các em cũng có những cảm nhận riêng, hồn nhiên tinh tế về
cảnh và người, sự việc trong tác phẩm văn học; cái hay về ngôn từ cũng như thông
điệp mà tác giả muốn gửi gắm trong tác phẩm văn học. Tất cả đều hướng các em
tới việc sống nhân văn hơn, sâu sắc hơn đồng thời biết cách diễn đạt được sự cảm
nhận của mình. Khi lớn lên các em có thể khơng cần là nhà phê bình văn học , nhà
nghiên cứu văn học, …nhưng các em có thể đọc sách và hiểu về cái hay của sách,
có thể nêu cảm nghĩ về một bộ phim, một bức tranh,…một cách đúng hướng.
b.3 Các bước làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
*Trước hết các em phải hiểu kĩ về tác phẩm ấy:
Nhớ về nội dung, bố cục, nhân vật, sự kiện( đối với văn xuôi); thuộc một số
đoạn văn hay, thuộc thơ. Đây là yêu cầu bắt buộc vì không thể biểu cảm cề một tác
phẩm văn học nếu khơng biết tác phẩm ấy có nhân vật nào, kể chuyện gì; có những
ý thơ, hình ảnh gì…
Học sinh nắm chắc, ghi lại những nội dung cơ bản và nghệ thuật của tác
phẩm để có được ấn tượng tổng thể về tác phẩm. Nhưng không cần biểu cảm tất cả
về tác phẩm mà cần tìm những chi tiết , từ ngữ, hình ảnh…hay làm mình xúc động,
suy nghĩ, ám ảnh.. Trong thơ chú ý đến các nhãn tự , còn trong văn, đó là những
chi tiết nhỏ làm lên nhà văn lớn, một giọt nước mà cho ta thấy cả đại dương.
Ví dụ: Khi biểu cảm về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh khơng thể
khơng chú ý đến âm thanh tiếng suối, hình ảnh ánh trăng chiếu qua các vịm cây và
hai chữ chưa ngủ. Trong khi đó bài Rằm tháng giêng, những chữ thể hiện cái hồn
của bài thơ chính là ba chữ xn, là hình ảnh con thuyền chở đầy trăng ở cuối bài
thơ
Qua những điểm sáng thẩm mĩ đó học sinh có thể hiểu được nội dung cũng
như nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm


* Tìm ý cho bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học, các em nên đặt ra các
câu hỏi và trả lời cá câu hỏi.

- Tác phẩm có nội dung gì? Nội dung ấy có gì hấp dẫn hoặc để lại cho em ấn
tượng gì sâu sắc?
- Tác phẩm có những đặc sắc nghệ thuật gì? Thể loại, ngơn ngữ, bố cục tác
phẩm có gì đặc biệt? Những chi tiết nghệ thuật nào để lại cho em ấn tượng nhất?
- Những chi tiết, hình ảnh… nào để lại cho em những rung cảm sâu sắc
nhất? Những cho tiết, hình ảnh ấy khiến em liên tưởng đến chi tiết, hình ảnh…
trong tác phẩm nào khác em đã học hoặc đã đọc không?
- Tác phẩm giúp người đọc hiểu thêm điều gì về tác giả?( tâm hồn, tư tưởng,
nhân cách…)
- Tác phẩm giúp em suy nghĩ, cảm xúc gì và rút ra được bài học nào cho
mình trong cuộc sống?
Ví dụ: Khi biểu cảm về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh chúng ta có
thể đặt câu hỏi như trên và có được những câu trả lời như sau:
+ Nội dung: Bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương sâu lắng của nhà thơ Lí
Bạch trong khoảnh khắc ngắm trăng nơi đất khách.
+ Nghệ thuật:
Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ngắn ngọn nhưng hàm súc
về một chủ đề quen thuộc Vọng nguyệt hoài hương.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc: bài thơ có sự giao hịa giữa tình và cảnh.
Ngơn ngữ tự nhiên, giản dị nhưng lại rất tinh luyện.
+ Điểm sáng nghệ thuật:
Hình ảnh ánh trăng sáng vằng vặc đồng vọng với nỗi lòng nhớ quê của tác
giả.
Năm động từ được tác giả sử dụng tinh tế: nghi - cử - vọng - đê – tư cho thấy
được sợi dây cảm xúc của nhà thơ: nhớ quê – thao thức không ngủ được, nhìn
trăng, nhìn trăng sáng lại nhớ quê.
+ Bài thơ giúp em hiểu gì về nhà thơ?
Qua bài thơ, ta hiểu được nỗi nhớ quê hương sâu nặng của nhà thơ trong
cảnh sống xa quê. Phải là người yêu quê hương sâu sắc nhà thơ mới có được
những tình cảm sâu nặng đến vậy.

Bài thơ cịn cho thấy cảnh ngộ cơ đơn, những trăn trở nghĩ suy của nhà thơ
khi phải sống tha phương trong cơn loạn li.
Lí Bạch là nhà thơ tài năng với những câu thơ ít lời, nhiều ý đọng lại biết
bao tinh hoa.
+ Qua tác phẩm, em rút ra được bài học gì?
Bài thơ giúp em trân trọng và biết yêu quê hương mình hơn
Tùy vào từng tác phẩm cụ thể học sinh có những cách tìm ý cụ thể. Có khi
khơng nhất thiết phải đặt ra và trả lời tất cả các câu hỏi trên. Cũng có thể phát biểu
cảm nghĩ theo bố cục của tác phẩm hoặc xốy vào một điều nào đó trong tác phẩm
mà em yêu thích.


* Lập dàn ý.
Bố cục chung của một bài biểu cảm về một tác phẩm văn học thường là:
- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm, nêu ấn tượng , cảm nghĩ chung của mình về
tác phẩm.
- Thân bài: Lần lượt nêu cảm cảm nghĩ của mình về từng khía cạnh của tác
phẩm, trọng tâm là cảm nghĩ về những chi tiết, hình ảnh đặc sắc của tác phẩm, ý
nghĩa của tác phẩm.
- Kết bài: Khẳng định lại giá trị của tác phẩm và cảm xúc của em về tác
phẩm.
Ví dụ: Với đề bài Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang của
Bà Huyện Thanh Quan, chúng ta có thể xây dựng dàn ý như sau:
- Mở bài: Qua đèo Ngang là một bài thơ hay bộc lộ những tâm sự riêng của
bà Huyện Thanh Quan trong khoảnh khắc đặt chân lên đèo Ngang trong một buổi
chiều tà. Đây là một bài thơ trung đại mà em yêu thích.
- Thân bài:
+ Ấn tượng trước bức tranh đèo Ngang trong buổi chiều tà được tác giả ghi
lại trong bốn câu thơ đầu:
Cảnh thoáng đãng mà heo hút: Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Thấp thống có sự sống của con người nhưng vẫn hoang sơ: Lom khom dưới
núi tiều vài chú – Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
-> Cảm nhận nỗi buồn xâm chiếm lòng người khi đọc bốn câu thơ đầu.
Đồng cảm, thấu hiểu tâm trạng của nữ sĩ khi đọc bốn câu thơ cuối.
Âm thanh tiếng chim hay chính là tiếng lịng , tâm sự nhớ nước thương nhà
của tác giả?
Tâm trạng cô đơn không ai chia sẻ, giãi bày của nhà thơ giữa núi đèo hoang
sơ, rộng lớn, cơ liêu: Một mảnh tình riêng ta với ta.
+ Phong cách thơ trang nhã, cổ điển, mang màu sắc hoài cổ của Bà Huyện
Thanh Quan: giọng thơ trầm buồn, nghệ thuật đối cổ điển, tả cảnh ngụ tình.
- Kết bài: Khẳng định sức hấp dẫn của bài thơ Qua đèo Ngang đối với các
thế hệ độc giả
Điều đáng chú ý là các ý trong dàn bài của bài văn biểu cảm về tác phẩm
văn học không chỉ nêu lên nội dung nghệ thuật của tác phẩm mà quan trọng là phải
nêu được những tình cảm, cảm xúc của người làm văn trước những nội dung hay
nghệ thuật đó, nhất là đối với các em mới tập làm quen với kiểu bài này.
* Các thao tác phân tích dẫn chứng trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn
học.
- Biểu cảm về tác phẩm văn học cần sử dụng các thao tác phân tích, giải
thích, chứng minh. Trong đó quan trọng nhất là phân tích dẫn chứng. Các thao tác
phân tích dẫn chứng bao gồm: giảng giải, liên tưởng so sánh, hình dung tưởng
tượng…
+ Giảng giải:


Giảng giải là cắt nghĩa, lí giải cái hay, cái đặc sắc của một từ ngữ, hình ảnh,
chi tiết…trong tác phẩm văn học. Đây là thao tác thường gặp để giúp người đọc
hiểu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ: Khi cảm nhận về bài ca dao Chiều chiều ra đứng ngõ sau – Trông về
quê mẹ ruột đau chín chiều

Học sinh phải giảng giải ý nghĩa của bài ca dao qua việc cắt nghĩa, lí giải
những từ ngữ, chi tiết, hình ảnh trong bài: Chiều chiều có nghĩa là chiều nào cũng
vậy – bài ca dao mở đầu bàng bằng sự lặp đi lặp lại một thời gian đồng thời cũng là
một không gian phù hợp với những giây phút suy tư riêng của mỗi người…Có thể
sự lặp đi lặp lại một thời gian, một không gian ấy cũng là sự lặp đi lặp lại một hành
động( ra đứng ngõ sau trông về quê mẹ ), của một tâm trạng: nghĩ đến quê hương
cũng là nghĩ đến mẹ, bóng hình mẹ hịa làm một với khn mặt quê hương.
+ Liên tưởng, so sánh:
Đây là thao tác rất hay gặp trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
Đọc một chi tiết, một hình ảnh, từ ngữ…trong tác phẩm này chúng ta có thể liên
tưởng đến một chi tiết, hình ảnh, từ ngữ…trong một tác phẩm khác. So sánh chính
là làm rõ chỗ giống nhau và khác nhau, soi sáng mặt kế thừa và mặt đổi mới của
tác giả này với tác giả khác hoặc cùng một tác giả nhưng ở những giai đoạn khác
nhau. Vận dụng biện pháp so sánh , một mặt giúp người viết cảm nhận rõ hơn về
đối tượng, mặt khác chứng tỏ người viết có kiến thức phong phú, rộng rãi, thực sự
cảm nhận sâu sắc về tác phẩm.
Ví dụ: Khi biểu cảm về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương học
sinh có thể so sánh với những câu ca dao than thân về người phụ nữ như Thân em
như trái bần trơi – Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu để thấy được sự giống và
khác của nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
+ Hình dung, tưởng tượng:
Hình dung , tưởng tượng là nhập vào thế giới nhân vật, hình ảnh của tác
phẩm để hình dung một tư thế, hình ảnh, tâm trạng của nhân vật, khơng gian , thời
gian của tác phẩm…Mỗi bài thơ, câu chuyện đều có khả năng mở ra trong tâm hồn
người đọc một thế giới riêng. Do đó khi cảm nhận về tác phẩm văn học, điều quan
trọng là chúng ta phải nhập vào thế giới ấy để đồng cảm. Thao tác hình dung,
tưởng tượng là cách tốt nhất để các em đưa yếu tố tự sự, miêu tả vào trong văn
biểu cảm một cách tự nhiên một cách có hiệu quả.Các em có thể vận dụng thao tác
này khi cảm nhận những bài thơ như Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan,
Cảnh khuya, Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh…

- Sử dụng từ ngữ và viết câu trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
Biểu cảm về tác phẩm văn học là những sản phẩm của nghệ thuật ngôn từ,
bài văn biểu cảm hay cần phải có những từ ngữ hay được lựa chọn và sử dụng hợp
lí. Tùy vào đối tượng biểu cảm, người viết sẽ lựa chọn những cách diễn đạt hợp lí.
Trong bài văn biểu cảm, người viết cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu.
Không phải lúc nào cũng viết những câu dài, đôi khi nên viết những câu văn ngắn


để tạo ấn tượng đối với người đọc. Trong văn biểu cảm đôi khi cũng dùng những
câu cảm thán, những từ cảm thán để bày tỏ trực tiếp tình cảm thái độ của mình.
Trong khi viết văn biểu cảm, các em cũng cần lưu ý đôi khi không nên sử
dụng kiểu câu khẳng định hay phủ định tuyệt đối. Cảm nhận của người viết đôi khi
cũng là những cảm nhận cá nhân, mang tính chủ quan, do vậy khơng nên áp đặt
cách cảm nhận đó cho người đọc khác. Đơi khi sử dụng những câu hỏi cho những
cảm nhận chủ quan đó của mình
2.4 Giải pháp 4: Những điều cần lưu ý khi rèn kĩ năng viết văn biểu cảm
cho học sinh.
Một việc quan trọng trong khi rèn luyện kỹ năng biểu cảm cho học sinh là
cho phép khuyến khích học sinh tiếp xúc với những bài văn từ các tài liệu tham
khảo nhất là những tài liệu tham khảo trong danh mục do Bộ giáo dục và Đào tạo
quy định. Việc này nhằm tăng vốn sống vốn hiểu biết và khả năng diễn đạt của học
sinh. Tôi hướng dẫn học sinh cách học tập ở những bài văn có cách tìm ý, sắp xếp
ý, diễn đạt ý, sử dụng các biện pháp tu từ, cách biểu đạt tình cảm cảm xúc sao cho
tự nhiên chân thực. Tránh việc học sinh chép trọn vẹn cả bài văn mẫu vào trong bài
làm của mình.
Để giảm bớt những lỗi dùng từ trong bài viết của học sinh, tôi vận động và
hướng dẫn các em mượn, sử dụng từ điển hoặc là lập sổ từ. Khi viết bài gặp những
từ nào chưa xuôi tai hoặc cảm thấy chưa ổn hay bí từ, các em có thể hỏi thầy, hỏi
bạn, hỏi mọi người trong gia đình và tra trong từ điển hoặc sổ từ. Việc làm này rất
có ích, bởi khi viết văn biểu cảm học sinh hay lúng túng khi sử dụng từ, và có

những trường hợp hay nhầm lẫn từ, ví dụ như: “lãng mạn” với “ lãng mạng”, “tinh
nghịch” với “ ngỗ nghịch”, “sán lạn” với “sáng lạn”…
Với đối tượng học sinh giỏi, ở những lớp bồi dưỡng tôi tăng cường ra đề
luyện tập viết văn biểu cảm và trực tiếp chữa bài viết của từng em. Mục đích chỉ ra
ưu nhược điểm từng bài viết ở từng em, vạch ra hướng sửa chữa hay phát huy cho
bài sau.
Thực hiện quan điểm dạy học tích hợp tơi đã tận dụng thời gian làm bài tập
ở giờ tiếng Việt để rèn học sinh kỹ năng viết văn biểu cảm qua những bài tập như:
“ Hãy viết một đoạn văn ngắn có sử dụng điệp ngữ thể hiện tình cảm của em với
thầy cơ giáo nhân ngày 20 tháng 11”.
Để khuyến khích học sinh đến với mơn học và ni dưỡng niềm thích thú
học tập tích cực viết văn, nhất là viết văn biểu cảm, tơi rất chú ý quan sát tìm hiểu
hồn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm của học sinh, ln gần gũi động viên khích lệ
các em từ những tiến bộ nhỏ đến những cố gắng lớn, cho các em mượn sách,
truyện của cá nhân và của nhà trường, sẵn sàng trả lời thắc mắc của các em về bài
học cũng như trong cuộc sống … Những việc làm đó khơng mất thời gian và cơng
sức bao nhiêu mà lại có tác dụng tạo mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò, khiến
các em mạnh dạn hỏi bài, thoải mái bộc lộ tâm tư tình cảm của mình trong trang
viết cũng như ngoài cuộc đời, những em chưa chịu khó học bài thì đã chịu khó học


hơn. Đó cũng chính là những biện pháp bổ trợ cần thiết trong q trình giảng dạy
nói chung và việc rèn luyện kỹ năng viết văn biểu cảm cho học sinh nói riêng.
IV. Những thơng tin cầ được bảo mật.( không)
V. Các đều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
1. Đối với giáo viên:
Để nâng cao chất lượng làm văn biểu cảm của học sinh, cần chú ý thực hiện
các giải pháp:
- Coi trọng giờ dạy lý thuyết, tăng cường thực hành luyện tập
- Chú ý đến cách ra đề, rèn luyện kỹ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, rèn

kỹ năng dựng đoạn, liên kết đoạn văn.
- Tích cực tham khảo tài liệu, sử dụng sổ từ, làm bài tập theo hướng tích hợp
các phân mơn. Ngoài ra, cần thường xuyên tác động đến tư tưởng tình cảm của học
sinh, hình thành ở các em những tình cảm thẩm mỹ trong sáng.
- Cách sử dụng sáng kiến: Muốn sử dụng sáng kiến kinh nghiệm này có hiệu
quả, người sử dụng phải tuân theo nguyên tắc và các yêu cầu sau:
a. Nguyên tắc.
Phải lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy học, giúp học sinh bộc lộ
những tìm cảm cảm xúc chân thành, tránh sự khiên cưỡng, giả tạo, hời hợt.
b. Một số yêu cầu.
b.1. Kế hoạch rèn luyện kỹ năng viết văn biểu cảm cho học sinh phải đảm
bảo tính liên tục, tính khoa học, tính khả thi.
b.2. Các giải pháp phải được phối hợp thực hiện một cách linh hoạt.
b.3. Nâng cao năng lực viết văn cho học sinh không phải là việc một sớm
một chiều làm được ngay, mà là cả một q trình. Do vậy địi hỏi người thực hiện
phải biết kiên trì thực hiện theo kế hoạch đã xây dựng.
2. Đối với học sinh học sinh:
- Học sinh phải yêu thích, say mê mơn học, các em cần đọc và chuẩn bị bài
trước khi đến lớp.
- Học sinh có thái độ hợp tác trong giờ học, có ý thức tự học, chủ động sáng
tạo trong giờ học ,nghiên cứu, sưu tầm tài liệu liên quan để giờ học cũng như bài
viết văn biểu cảm đạt hiệu quả cao nhất.
VI. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến.
Sau khi áp dụng các giải pháp kể trên tôi nhận thấy chất lượng bài viết của
học sinh được nâng lên rõ rệt. Xuất hiện nhiều học sinh viết bài văn đạt điểm giỏi,
một số học sinh học lực trung bình cũng vươn lên giành điểm khá … Nhiều đoạn
văn, bài văn khiến người đọc phải rơi nước mắt vì cách diễn đạt mộc mạc, giản dị,
mạch lạc, tình cảm tự nhiên tràn đầy tình yêu thương đối với con người đối với
cuộc đời.

Việc bồi dưỡng tình cảm cho học sinh đang là vấn đề được coi trọng trong
các nhà trường. Vì thế, rèn luyện kỹ năng viết văn biểu cảm cho học sinh là việc
làm thiết thực, giúp các em hướng tới sự phát triển toàn diện.


Việc rèn luyện kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 có vai trị rất
quan trọng trong chương trình Ngữ văn THCS, nó góp phần giúp các em viết tốt
các dạng văn khác như: tự sự xen miêu tả và biểu cảm, nghị luận xen yếu tố biểu
cảm hoặc thuyết minh một danh lam thắng cảnh…
Sáng kiến kinh nghiệm có thể vận dụng trong giảng dạy Ngữ văn 7 phần văn
biểu cảm ở một số trường có đặc điểm giống trường chúng tôi và bồi dưỡng học
sinh giỏi lớp 8, 9, học sinh giỏi KHXH. Bởi nó có giá trị nâng cao kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho học sinh, góp phần đạt mục tiêu
giáo dục của bộ mơn nói riêng, tồn cấp học nói chung. Trên cở sở những giải pháp
nêu lên ở đây, ta có thể xây dựng những giải pháp chung cho việc rèn luyện kỹ
năng viết các kiểu văn bản khác phù hợp với chương trình và lứa tuổi học sinh.
Kết quả khảo sát từ tháng 12 năm 2017 sau đây cho thấy rõ điều khẳng định
trên:
Lớp không áp dụng sáng kiến (Lớp 7B)
Điểm trung
Tổng
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm yếu
Số
bình
số
Ghi
khảo
học

chú
Tổng
Tổng
Tổng
Tổng
sát
%
%
%
%
sinh
số
số
số
số
36
36
0
0
7
19,4
22
61,1
7
19,4
Kết quả khảo sát tháng 12 năm 2018 sau một năm áp dụng sáng kiến đã có
sự thay biến chuyển tích cực:
Lớp áp dụng sáng kiến (Lớp 7C)
Điểm trung
Tổng

Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm yếu
Số
bình
số
Ghi
khảo
học
chú
Tổng
Tổng
Tổng
Tổng
sát
%
%
%
%
sinh
số
số
số
số
36
36
3
8,3
15
41,7

16
44,4
2
5,6
* Nhận xét: Qua kết quả khảo sát tơi thấy sau khi áp dụng các giải pháp
nhằm rèn luyện kỹ năng biểu cảm cho học sinh lớp 7, bồi dưỡng học sinh giỏi lớp
8, 9, học sinh giỏi KHXH chất lượng bài viết và kết quả của học sinh hai lớp sau
một năm áp dụng sáng kiến. Cụ thể là: loại giỏi tăng 8,3%, loại khá tăng 22,3%,
loại yếu giảm 13,8%. Số lượng học sinh giỏi KHXH cấp huyện tăng 01 giải Nhất,
02 giải Nhì, 02 giải Ba, 03 giải Khuyến khích.



×