Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thực trạng và giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.59 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV
*

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

SBD
18

TIỂU LUẬN
-----

Môn: GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Lớp Cao cấp lý luận chính trị, hệ tập trung: A83
Họ và tên (viết bằng chữ in hoa): PHAN VĂN CÔNG LUẬN
Ngày tháng năm sinh: 04/12/1985
ĐIỂM KẾT LUẬN CỦA
BÀI VIẾT TIỂU LUẬN
Ghi bằng số

GV chấm thứ 1

GV chấm thứ 2
15 trang (ghi
bằng số)

Ghi bằng chữ
mười lăm
trang (ghi
bằng chữ)



Tên bài: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay.

Cần Thơ, ngày 07/6/2021


NỘI DUNG CỦA TIỂU LUẬN
----I. LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện nam nữ bình đẳng chính là tư tưởng nhất qn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; một mặt, thể hiện sự tơn vinh người phụ nữ và khát vọng giải phóng
phụ nữ trong tiến trình cách mạng Việt Nam; mặt khác là “kim chỉ nam” cho
thực hiện bình đẳng giới ở nước ta trong thời kỳ mới.
Hiến pháp và pháp luật của nước ta đã quy định rõ về “thực hiện nam nữ
bình quyền”. Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực
hiện hiệu quả các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ
nữ”. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có một bộ luật riêng - Luật
Bình đẳng Giới - Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 nhằm luật hóa các
quan điểm của Đảng ta về bình đẳng giới trong thời kỳ mới.
Thời gian qua, hệ thống chính sách pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam
tiếp tục được quan tâm, hồn thiện, trong đó có nhiều chính sách đặc thù nhằm
tạo điều kiện và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị
- kinh tế - văn hóa - xã hội được triển khai thực hiện và từng bước có hiệu quả
thiết thực. Qua đó, phụ nữ từng bước khẳng định được vai trị, vị trí của mình
trong gia đình và ngồi xã hội. Đặc biệt, với nhiều đóng góp trong sự phát triển
chung của đất nước, cùng với sự trưởng thành, phụ nữ ở tất cả các cấp, các
ngành, các địa phương đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, trao tặng nhiều
danh hiệu và phần thưởng cao quý.
Việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao nhất, đầy đủ cho
quyền bình đẳng giới phụ nữ. Đó khơng chỉ là tiêu chí quan trọng bình đẳng giới

mà cịn là động lực thúc đẩy mức độ bình đẳng giới. Thực tế cho thấy, tỷ lệ nữ
tham gia công tác lãnh đạo, quản lý hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ở nước
ta có chiều hướng ngày tăng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận,
bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay gặp
phải nhiều rào cản, bất cập, ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ cán nữ tham gia hoạt động
lãnh đạo, quản lý.
Qua đó cho thấy việc nghiên cứu nội dung: “Thực trạng và giải pháp thúc
đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện
nay” là rất cần thiết đối với học viên Cao cấp Lý luận chính trị nói riêng, tồn
thể cán bộ cơng chức, viên chức trong nhà nước và nhân dân nói chung. Thông
1


qua tiểu luận này, trước hết giúp cho bản thân củng cố lại kiến thức đã học, đó là
những kiến thức về cơ sở lý luận, những đánh giá tổng kết thực tiển, những giải
pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý
nhà nước hiện nay; sau đó giúp bản thân có thêm những kiến thức để vận dụng
trong thực tiển.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm
- Bình đẳng giới: Bình đẳng giới là tình trạng khơng có sự phân biệt đối xử
trên cơ sở giới tính về quyền, trách nhiệm và cơ hội. Theo khái niệm này thì Nữ
giới và nam giới được:
+ Tơn trọng ngang nhau;
+ Có cơ hội và điều kiện như nhau;
+ Tiếp cận các nguồn lực như nhau;
+ Thụ hưởng thành quả như nhau.
- Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý: được giới hạn trong việc xem
xét bình đẳng giới trong các vị trí, chức vụ lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ
thống chính trị. Theo phạm vi này, bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý có

nghĩa là nam giới, nữ giới có vị trí, vai trị ngang nhau trong cơng tác lãnh đạo,
quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình ngang nhau và
được thụ hưởng kết quả bổ nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức
trong hệ thống chính trị ngang nhau.
- Cơ quan quản lý nhà nước: là cơ quan nhà nước hoạt động có tính
chun nghiệp, có chức năng điều hành xã hội trên cơ sở chấp hành và thi hành
Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên…Cơ quan quản lý nhà nước ở nước ta gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã.
- Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước:
nghĩa là nam giới, nữ giới có vị trí, vai trị ngang nhau trong công tác lãnh đạo,
quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình ngang nhau và
được thụ hưởng kết quả bổ nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức
trong hệ thống chính trị ngang nhau ở cơ quan quản lý nhà nước.
2. Cơ sở pháp lý và các mục tiêu bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
ở cơ quan quản lý nhà nước tại Việt Nam
- Hiến pháp 2013 và Luật Bình đẳng giới 2006
2


+ Hiến pháp 2013: Điều 26 quy định: 1. Công dân nam, nữ bình đẳng về
mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2.
Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát
huy vai trị của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
+ Luật Bình đẳng giới 2006: Điều 11. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính
trị:1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động
xã hội. 2. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức. 3. Nam,
nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan

lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. 4. Nam, nữ bình
đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị
trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. 5. b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng
trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới.
- Nghị quyết 11-NQ/TW năm 2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Bộ Chính trị ban hành ngày
27/4/2007, xác định các mục tiêu về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ
quan quản lý nhà nước như sau:
Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo,
quản lý nữ đáp ứng u cầu đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán bộ nữ
trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa
phương. Đối với cán bộ nữ, đồng thời với việc xây dựng quy hoạch, phải chăm
lo đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự; đề bạt, bổ nhiệm cần bảo đảm
tiêu chuẩn của từng chức danh, có khả năng hồn thành tốt nhiệm vụ, phát huy
được thế mạnh, ưu điểm của cán bộ nữ. Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa
nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm.
+ Xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh
vực, gắn với quy hoạch. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia gia các khóa đào tạo tại
các trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên.
+ Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ
25% trở lên; ... Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán
3


bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà
nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
+ Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các chính sách nhằm

phát triển cán bộ nữ trong nghiên cứu khoa học, trong lãnh đạo, quản lý. Có
chính sách cụ thể về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối
với cán bộ nữ; đặc biệt quan tâm cán bộ nữ là trí thức, cơng nhân, người dân tộc
thiểu số, tơn giáo. Có chính sách đặc thù đối với cán bộ nữ cơng tác ở vùng cao,
vùng sâu, biên giới, hải đảo, là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ đi học có con
nhỏ.
- Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020: Tăng
cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước
giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Phấn đấu đến năm 2015 đạt
80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Phấn đấu đến năm
2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30%
trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
- Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương, ban hành ngày
20/01/2018 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới: Chỉ
thị 21 -CT/TW tiếp tục khẳng định các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc về công
tác cán bộ nữ của Nghị quyết 11-NQ/TW, đồng thời để đảm bảo đạt được chỉ
tiêu, Chỉ thị đã nhấn mạnh yêu cầu: Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa nam và
nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển đối với một số
nhóm phụ nữ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phù hợp trong từng giai đoạn.
Nghiên cứu tuổi nghỉ hưu đối với một số nhóm lao động nữ phù hợp với pháp
luật về lao động và quá trình phát triển của đất nước. Cấp ủy, người đứng đầu
bộ/ngành, địa phương chịu trách nhiệm chỉ đạo, đề ra các giải pháp cụ thể, đồng
bộ để tổ chức thực hiện đạt chỉ tiêu Nghị quyết 11 – NQ/TW, nhất là trong công
tác cán bộ nữ.
- Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày
19/5/2018 về cơng tác cán bộ: Đến năm 2030, Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu
ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt
từ 20 - 25%.

- Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030: Đến năm
2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính
4


quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ; Phấn đấu đến năm 2030,
75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo
chủ chốt là nữ.
III. THỰC TRẠNG ĐỐI VỚI BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
1. Những kết quả đạt được
- Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước về bình đẳng
giới trong lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan quản lý nhà nước dần hồn thiện.
Theo đánh giá của UNDP (2012), Việt Nam có khung pháp lý ấn tượng, với
các văn bản hướng dẫn không những không cho phép các thực tiễn phân biệt đối
xử với phụ nữ mà còn khuyến nghị các biện pháp và chỉ tiêu tăng cường đội ngũ
lãnh đạo nữ. Trong thực tế, việc hiện thực hóa bình đẳng giới được quán triệt
mạnh mẽ. Chỉ riêng trong lĩnh vực trao quyền cho phụ nữ, các văn bản chỉ đạo
của Trung ương và các cấp ủy địa phương, ngành đưa ra quy định về tỷ lệ
“không dưới” và tinh thần “nhất thiết có” thành phần phụ nữ trong mỗi tổ chức
thuộc hệ thống chính trị nói chung, cơ quan quản lý nhà nước nói riêng. Minh
chứng rõ nét là Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã cụ thể những tiêu
mốc cho bình đẳng giới trong lãnh đạo quản lý như: Phấn đấu đến năm 2020,
các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ 30% trở lên nhất thiết phải có lãnh đạo chủ chốt
là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp
với mục tiêu bình đẳng giới. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo lý
luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước đạt 30% trở lên.
- Phụ nữ Việt Nam đã và đang tham gia thực sự vào công tác lãnh đạo và
quản lý trong hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước ở các mặt của đời sống
xã hội.

Theo đánh giá của Liên Hợp quốc, bình đẳng giới ở Việt Nam là điểm sáng
trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Hiện nay, trên tất cả các lĩnh
vực đều có sự cống hiến của nữ giới. Tuy tuyệt đại bộ phận các cơ quan lãnh
đạo, quản lý của Nhà nước ở các cấp đều có tỷ lệ nam giới cao hơn, song chất
lượng, hiệu quả, uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ
nữ cũng như vai trò của các cấp, các ngành trong q trình thực hiện bình đẳng
giới. Có thể minh chứng rõ cho kết quả này thể hiện qua số liệu thống kê, năm
2020: có 12/30 Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo là
nữ (40%); có 10/22 Bộ, cơ quan ngang bộ (chiếm 45,45%); có 2/8 cơ quan thuộc
Chính phủ (Đài TH VN, BHXH Việt Nam chiếm 25%); về tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ
5


chốt của Ủy ban nhân dân các cấp: cấp tỉnh là 17/289 (chiếm tỷ lệ 6%); cấp
huyện là 230/2.377 (chiếm tỷ lệ 10%); cấp xã là 2.834/26.044 (chiếm tỷ lệ 11%).
- Tỷ lệ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
nói chung, cơ quan quản lý nhà nước nói riêng ngày càng tăng.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đã có bước tiến về
tăng tỷ lệ phụ nữ tham chính; đứng thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 47
trong 187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham
chính. Một minh chức rõ nhất đó là tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm
kỳ 2016 - 2021 ở các cấp (thường sẽ là lãnh đạo, quản lý ở một số cơ quan quản
lý nhà nước): ở cấp tỉnh là 26,54%, cấp huyện là 27,85% và cấp cơ sở là
26,59%.
Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia công tác lãnh đạo, quản
lý trong cơ quan quản lý nhà nước tăng, điển hình như nhiệm kỳ 2016 - 2021, tỷ
lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy tỉnh là 290/1.057 người, chiếm
27,5%; tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số là đại biểu HĐND tỉnh 661/3.908 người,
chiếm 16,91%. Tương tự, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy cấp
huyện là 2.035/7.158, chiếm tỷ lệ 28,43%, đại biểu HĐND là 4.605/25.181,

chiếm 18,29%. Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy cấp xã là
3.610/32.469, chiếm 11,11%; đại biểu HĐND là 64.718/292.298, chiếm
22,14%...
- Trong chỉ đạo, sự thống nhất quan điểm từ Trung ương đến các Bộ, ban,
ngành, địa phương về định hướng mục tiêu bảo đảm cơ cấu nữ đã mang lại
cơ hội cho cán bộ nữ tham gia vào bộ máy lãnh đạo, quản lý của hệ thống
chính trị nói chung, cơ quan quản lý nhà nước nói riêng.
Trong tổ chức thực hiện, ngồi bảo vệ quyền bình đẳng giới, các chính sách
ưu tiên được vận dụng, góp phần động viên, tạo điều kiện cho cán bộ nữ phấn
đấu, trưởng thành. Đa số các địa phương khi bố trí, phân cơng nhiệm vụ chun
mơn, cán bộ nữ được ưu tiên ở những vị trí phù hợp với sở trường, sức khỏe.
Khi đào tạo chuẩn hóa chức danh quy hoạch cán bộ nữ (nhất là những người
đang nuôi con nhỏ), được đề đạt nguyện vọng, chủ động lựa chọn thời điểm đi
đào tạo, được hỗ trợ thêm kinh phí so với chế độ chung.
2. Những hạn chế, bất cập và rào cản
- Tỷ lệ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
nói chung, cơ quan quản lý nhà nước nói riêngchưa đạt được theo kỳ vọng và
chưa đạt được mục tiêu đề ra.
6


Chiến lược Bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 quy định: Phấn đấu đạt tỷ lệ
nữ tham gia cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2015-2020 từ 25%. Tuy nhiên thực tế chỉ
tiêu này không đạt, tỷ lệ này ở cấp trung ương 13,7%; cấp tỉnh: 12,6%; cấp
huyện: 15,5% và cấp xã: 20,8%. tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ
2016 - 2021 ở các cấp (thường sẽ là lãnh đạo, quản lý ở một số cơ quan quản lý
nhà nước): ở cấp tỉnh là 26,54%, cấp huyện là 27,85% và cấp cơ sở là 26,59%,
tỷ lệ này chưa đảm bảo tỷ lệ theo tinh thần NQ số 11 (35%-40% tỷ lệ nữ tham
gia HĐND các cấp)
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đề ra chỉ tiêu:

“Phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ”. Tuy nhiên, tình hình
thực hiện và đánh giá khả năng thực hiện đến năm 2020 cho thấy, Việt Nam
chưa đạt được chỉ tiêu này vì khoảng cách cịn q lớn.
Có thể điểm qua một vài số liệu để minh chứng cho hạn chế này như sau:
Đến tháng 8-2017, chúng ta có 12/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt, gồm: 10/22 bộ,
cơ quan ngang bộ và 2/8 cơ quan thuộc Chính phủ, đạt tỷ lệ 40% (giảm 7% so
với năm 2015). Ở cấp tỉnh, có 16/63 địa phương có nữ lãnh đạo chủ chốt chiếm
tỷ lệ 25,39%.
Ở cấp huyện, một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp huyện cao
từ 20% trở lên như: Bình Dương (24,24%), Thành phố Hồ Chí Minh (22,45%),
Ninh Bình (20,69%). Các tỉnh Cà Mau, Bình Thuận, Bình Định khơng có nữ
lãnh đạo, quản lý ở cấp này. Một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp
xã cao là Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 32,18%), thành phố Đà Nẵng
(25,79%), Bình Dương (25,40%), Đồng Nai (24,8%). Nhiều tỉnh, thành phố có
tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 5%, trong đó phần lớn là các tỉnh, thành
phố miền Bắc. Như vậy, so với yêu cầu đạt tỷ lệ 95% vào năm 2020 còn khoảng
cách lớn và khó có khả năng thực hiện chỉ tiêu này tại cấp địa phương.
- Tỷ lệ phụ nữ tham gia hệ thống chính trị và lãnh đạo, quản lý hiện đang
theo hình kim tự tháp. Càng lên cao trong hệ thống chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham
gia càng nhỏ. Tỷ lệ phụ nữ là lãnh đạo còn thấp hơn nữa. Các vị trí quan trọng
trong chính phủ hầu hết là nam giới. Ở cấp tỉnh cũng rất hiếm có phụ nữ trong
số lãnh đạo cấp sở ở tất cả các ngành, nếu có là ngành y tế, giáo dục, chính sách
xã hội. Tính tất cả các khối cơ quan, trong số 62 bộ trưởng và tương đương, phụ
nữ chỉ chiếm 8,1% ở vị trí bộ trưởng hoặc tương đương và trong số 119 vị trí thứ
7


trưởng, có 10 thứ trưởng hoặc tương đương do nữ giới đảm nhiệm với tỷ lệ

8,4%. Như vậy, phụ nữ ở cương vị lãnh đạo cao nhất cấp Bộ là rất hiếm, chỉ 12
trong số 30 bộ, cơ quan lãnh đạo, tỷ lệ này là 40%. Các Bộ, ban, ngành đông nữ
như Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Cơng
thương, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa,
Thể thao và du lịch, Bộ Thơng tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Ủy ban Dân tộc... hiện khơng có nữ lãnh đạo chủ chốt. Tịa án nhân dân
tối cao khơng có lãnh đạo chủ chốt là nữ, khối Mặt trận và đoàn thể, trừ Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, 5/5 cấp trưởng của cơ quan trung ương của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đều là nam và chỉ có 4/21 cấp phó và
02 Bí thư Trung ương Đoàn là nữ.
Báo cáo của UNDP (2012) cho biết, trong lĩnh vực hành chính của chính
phủ, phần trăm nữ cán bộ, công chức, tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí ra quyết
sách khơng cao. Khi so sánh với quốc tế, Việt Nam xếp thứ 83 trên 129 quốc gia
về số lượng nhà lập pháp, quan chức và quản lý cao cấp.
- Trong hệ thống quản lý nhà nước, phụ nữ có mặt ở các vị trí chủ chốt
nhưng chủ yếu ở vị trí cấp phó. Từ năm 1992 cho đến nay, vị trí Phó Chủ tịch
nước ln là nữ. Trong số thành viên Chính phủ, cho đến nay Thủ tướng và các
Phó Thủ tướng đều là nam giới. Nhiệm kỳ 2011 - 2016, trong số 22 bộ trưởng,
chỉ có hai Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế có bộ trưởng nữ
(9%), nhiều hơn nhiệm kỳ trước một bộ trưởng. Trong nhiệm kỳ 2016 - 2021,
chỉ có Bộ Y tế có bộ trưởng là phụ nữ. Tỷ lệ nữ vụ trưởng và tương đương
ngang bộ và cơ quan chính phủ có cán bộ nữ nắm giữ vị trí tương đương là
7,8%, trong khi đó nữ vụ phó và tương đương chiếm tỷ lệ cao hơn là 13,4%. Ở
cấp tỉnh, Phụ nữ chỉ chiếm khoảng 6,8% trong số các Giám đốc sở và 12,4 %
trong số các phó giám đốc Sở.
- Vai trị ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của phụ nữ ở các cơ quan
quản lý nhà nước các cấp còn hạn chế
Đối với các cấp địa phương, ở cấp tỉnh, nhiệm kỳ 2011 - 2016, chỉ có 1/63
tỉnh, thành có nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân (chiếm 1,58%), 31/36 tỉnh/thành có
nữ Phó Chủ tịch (riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 2 nữ Phó Chủ tịch). Lãnh

đạo nữ trưởng ngành cấp tỉnh cũng chỉ đạt 10,5%. Ở cấp huyện, nữ Chủ tịch Ủy
ban nhân dân là 3,02% (giảm so với nhiệm kỳ trước) Phó chủ tịch Ủy ban nhân
dân là 14,48% (tăng 6,05% So với nhiệm kỳ trước); lãnh đạo nữ trưởng ngành
đạt 139%. Ở cấp xã, tỷ lệ nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân là 3,42%, Phó Chủ tịch
8


Ủy ban nhân dân là 8,84%. Với tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan quản lý nhà
nước như trên, có thể thấy, vai trị ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của phụ nữ
ở các cơ quan quản lý nhà nước các cấp còn hạn chế.
Một trong những tỉnh có tỷ lệ nữ tham chính cao nhất so với toàn quốc là
Tuyên Quang. Tuy nhiên, nữ lãnh đạo ở các cơ quan hành chính cấp tỉnh cũng
chỉ chiếm 18,31% và đến cấp xã chỉ còn 10,15%. Tương tự, số liệu thu thập từ
một nghiên cứu ở Cà Mau cho biết, trong tổng số 1.059 công chức giữ vị trí lãnh
đạo từ cấp phó, trưởng phịng đến cấp sở trong khối cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở
Cà Mau thì tỷ lệ nam giới cao gấp 7 lần so với nữ giới (88,4% so với 11,6%).
- Định kiến giới là rào cản lớn ảnh hưởng đến công tác bình đẳng giới
trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay
Theo số liệu nghiên cứu được cơng bố, có 58,8% ý kiến của cán bộ đồng ý
với quan niệm giới - truyền thống đã và đang cản trở q trình phấn đấu chức
nghiệp chính trị của phụ nữ. Có 69,4% cho rằng “người đứng đầu tổ chức vẫn
chưa tin tưởng vào năng lực của cán bộ nữ vì phụ nữ dành nhiều thời gian cho
gia đình”; có 51,8% ý kiến cho rằng, phụ nữ lãnh đạo, quản lý thường bị dò xét
và đánh giá khắt khe hơn nam giới cũng ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với sự
nghiệp chính trị của họ; 61.5% gánh nặng gia đình cản trở sự tiến bộ nghề
nghiệp của cán bộ nữ.
Theo số liệu từ UNDP (2012), tỷ lệ phụ nữ làm giám đốc hoặc phó giám đốc
cấp tỉnh/ thành phố được thấy nổi bậc hơn ở các ngành như Y tế (Tỷ lệ nữ Giám
đốc sở 7,3%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở 22,7%), Giáo dục và Đào tạo (Tỷ lệ nữ
Giám đốc sở 4,8%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở 29,9%), Lao động, Thương binh

và Xã hội (Tỷ lệ nữ Giám đốc sở 22,2%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở 22,3%),
Khoa học và Cơng nghệ (Tỷ lệ nữ Giám đốc sở 6,1%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở
14,8%), Ngoại giao (Tỷ lệ nữ Giám đốc sở 3,4%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở
24,5%), Tư pháp (Tỷ lệ nữ Giám đốc sở 11,4%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở
15,7%), Tài chính (Tỷ lệ nữ Giám đốc sở 16,3%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở
20%) và thấp hơn trong các lĩnh vực: Giao thông vận tải (Tỷ lệ nữ Giám đốc sở
2,2%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở 1,7% ), Tài nguyên và môi trường (Tỷ lệ nữ
Giám đốc sở 2,5%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở 1,8%) và Xây dựng (Tỷ lệ nữ
Giám đốc sở 0%; Tỷ lệ nữ Phó Giám đốc sở 2,8% ). Sự khác nhau này nhìn
chung phản ánh định kiến xã hội chung rằng, phụ nữ có khả năng hơn ở các
ngành y tế, giáo dục, chính sách xã hội đối với lao động và các vấn đề xã hội
hoặc làm việc trong các ngành mà cơng việc chủ yếu là văn phịng và có thể họ
9


khơng có năng lực như nam giới ở các ngành địi hỏi về sức khỏe, thường xun
phải đi cơng tác và các yêu cầu khác về năng lực và xử lý.
- Vẫn còn tồn tạo những rào cản về thể chế ảnh hưởng khơng nhỏ đến
cơng tác bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước
hiện nay
Vấn đề phụ nữ lãnh đạo, quản lý đã được quan tâm nhưng thiếu tính lồng
ghép (chỉ thị, Nghị quyết của Đảng với hệ thống văn bản pháp luật); các mục
tiêu, chỉ tiêu, % cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà
nước chưa được xem xét như một yêu cầu pháp luật; thiếu sự phối hợp đồng bộ
giữa các cấp, các ngành, các địa phương; quy hoạch chưa gắn kết chặt chẽ với
các khâu công tác cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán bộ nữ; thiếu quyết
tâm chính trị của nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và nhận thức của
cộng đồng về tăng cường tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ, thực thi các
quy định về pháp luật bình đẳng giới hạn chế; chế tài xử lý đối với những đơn vị
không tuân thủ nghiệm những quy định của luật, nghị quyết, chính sách của

Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị chưa được thực
hiện
- Bản thân của phụ nữ với tư cách chủ thể lãnh đạo, quản lý còn những
hạn chế nhất định
Bản thân cán bộ nữ còn thiếu tự tin; chưa có mục tiêu, động lực rõ ràng ngay
từ trẻ cho quá trình phấn đấu. Bản thân phụ nữ còn định kiến giới về vai trò giới
của mình. Bên cạnh đó, năng lực của Hội Phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cịn
những hạn chế nhất định, chưa phát huy được vai trò.
IV. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC HIỆN
NAY

Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế; phá vỡ rào cản trong cơng tác bình
đẳng giới nói chung và nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở
cơ quan quản lý nhà nước hiện nay, đề xuất các nhóm giải pháp trọng tâm và
những giải pháp cụ thể như sau:
1. Các nhóm giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt
Nam
- Nhóm các giải pháp liên quan đến khung luật pháp, chính sách thúc đẩy
bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
- Nhóm các giải pháp liên quan đến văn hóa, nhận thức về bình đẳng giới.
10


- Nhóm giải pháp tăng cường thực thi chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm
bình đẳng giới.
- Nhóm các giải pháp liên quan đến việc nâng cao vai trò, năng lực của các
cấp ủy đảng, các cấp chính quyền và các cơ quan hoạt động thúc đẩy bình đẳng
giới.
- Nhóm các giải pháp nâng cao năng lực và sự tự tin cho cán bộ nữ.

- Nhóm giải pháp tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, đánh giá việc tuân
thủ pháp luật về bình đẳng giới.
2. Một số giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và tồn xã hội về bình đẳng giới và vấn đề bình đẳng giới trong công tác cán bộ
nữ. Nghiêm túc đánh giá trên cơ sở các nghiên cứu khoa học để chỉ ra đúng
nguyên nhân cơ bản, đặc thù của mỗi địa phương, cấp, ngành, đơn vị dẫn đến sự
không thành công trong mục tiêu bình đẳng giới. cần tăng cường và đa dạng hóa
cơng tác tun truyền về bình đẳng giới trên các phương tiện thơng tin đại
chúng. Đa dạng hóa các hình ảnh của nữ giới với các vai trị và nghề nghiệp
khác nhau, đặc biệt trong vai trò lãnh đạo, quản lý.
Hai là, rà sốt lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến sự tham gia
lãnh đạo, quản lý của nữ giới, xóa bỏ những quy định đang hạn chế sự tham gia,
tiếp cận cơ hội và thụ hưởng các cơ hội làm lãnh đạo, quản lý đối với nữ giới
trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước. Cần rà soát lại những chỉ tiêu về tỷ lệ
nữ làm lãnh đạo, quản lý cịn đang mang tính định tính và thiếu cụ thể trong
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Nghị quyết số
11-NQ/TW của Bộ Chính trị. Bổ sung những chỉ tiêu cụ thể, định lượng về tỷ lệ
nữ lãnh đạo, quản lý như đưa chị tiêu thể về tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý trong các
bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị, xã hội, bổ sung các chỉ tiêu cho nữ giới trong tồn bộ q trình cán bộ,
đảm bảo các chỉ tiêu cán bộ được cập nhật hàng năm.
Ba là, tiếp tục tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và
chính quyền các cấp trong việc kịp thời quán triệt các văn bản của Đảng về bình
đẳng giới trong tồn bộ hệ thống chính trị. Đảm bảo thực hiện ngun tắc bình
đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm.
Đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết 11-NQ/TW đề ra,
trước đó Luật Bình đẳng giới (2006) cũng đã quy định “Nam, nữ bình đẳng về
11



tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản
lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức”, song chưa được thực hiện. Quy định tuổi
nghỉ hưu của phụ nữ thấp hơn nam giới 5 tuổi đã kéo độ tuổi quy hoạch, đào tạo,
đề bạt và bổ nhiệm của nữ dừng ở tuổi 50, trong khi đối với nam là số tuổi lớn
hơn. Hiện nay, Trung ương đã quy định kéo dài tuổi công tác (đồng nghĩa với
việc tiếp tục được giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý) đối với một nhóm đối tượng
rất nhỏ là các nữ thứ trưởng và tương đương trở lên: nữ giáo sư, phó giáo sư,
tiến sỹ trực tiếp giảng dạy tại các cơ sở giáo dục đại học (mà không được giữ
chức vụ). Vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu để có căn cứ nhân rộng đối tượng.
Bênh cạnh đó cũng cần điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của nữ ngang bằng với nam
trong những ngành nghề phù hợp mà phụ nữ không nhất thiết phải nghỉ trước
nam giới như hiện nay.
Bốn là, chú trọng tạo nguồn cán bộ nữ và bảo đảm chất lượng thực sự.
Trong các tổ chức Đảng, mỗi cấp ủy viên phải có trách nhiệm phát hiện, đánh
giá, giới thiệu nguồn cán bộ nữ để đưa vào quy hoạch, bảo đảm tỷ lệ nữ trong
quy hoạch phải tương ứng với tỷ lệ nhân lực nữ và tỷ lệ đảng viên nữ trong cơ
quan, đơn vị. Việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ cũng
phải tuân thủ cơ cấu tỷ lệ trên. Bên cạnh đó, cần có các chính sách chăm lo, ưu
tiên để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cán bộ nữ trong quá trình
phấn đấu.
Khi bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ phải chú ý đến tỷ lệ cán bộ
nữ cho phù hợp. Với các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên cần có cán
bộ lãnh đạo là nữ. Nếu nguồn tại chỗ chưa có thì có thể luân chuyển, điều động
cán bộ nữ nơi khác đến. Trong quá trình luân chuyển, điều động cần xem xét kỹ
từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để phát huy khả năng, thế mạnh của cán bộ.
Năm là, nâng cao vị thế và trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ, Ban Vì sự
tiến bộ phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ quyền lợi cho giới nữ. Các cấp ủy
đảng cần xây dựng quy chế, nhất thiết phải lấy ý kiến của Hội Liên hiệp Phụ nữ

hoặc Ban Nữ cơng Cơng đồn trong q trình thực hiện công tác cán bộ liên
quan đến nữ. Đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức này đổi mới và nâng cao
chất lượng hoạt động, để tiếng nói của họ có trọng lượng và để việc chăm lo,
giáo dục, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ có hiệu quả.
Sáu là, đẩy mạnh phát triển đời sống kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập cho
cán bộ, công chức để phụ nữ có được điều kiện phát triển tồn diện. Nhà nước
cần có chính sách phát triển và tổ chức tốt các dịch vụ công để phục vụ tốt hơn
12


đời sống nhân dân, giúp phụ nữ giảm gánh nặng gia đình để tập trung sức lực, trí
tuệ cho cơng tác, góp phần thiết thực vào việc thực hiện bình đẳng giới phụ nữ
trên thực tế.
Bảy là, phụ nữ phải chủ động khắc phục những khó khăn, tự vươn để
khẳng định mình. Học viện Chính trị quốc gia HồChỉ Minh xây dựng nội dung
chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo nữ và bố trí kinh phí để
Học viện tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nữ và dự nguồn cán bộ
lãnh đạo nữ trong tồn bộ hệ thống chính trị theo định kỳ hàng năm nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo, sự tự tin, và chuẩn bị nguồn lãnh đạo nữ kế cận.
Tám là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Nhà nước đối
với việc triển khai, thực hiện các văn bản, các chỉ tiêu về bình đăng giới nói
chung, bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng.
Giám sát về thực hiện pháp luật bình đẳng giới cần được đưa vào chương
trình giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai
trị giám sát của các đồn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là vai trò của tổ chức
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp trong việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới. Hoạt động giám sát, kiểm tra thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
cần phải đa dạng hóa về hình thức và phương thức, không chỉ dừng lại ở việc
nghe các báo cáo đánh giá về bình đẳng giới mà cần phải tăng cường sự trao đổi,
đối thoại với cán bộ, công chức nam và công chức nữ; từ những ý kiến của cán

bộ, cơng chức có thể nhận ra mức độ tồn tại của các định kiến giới, mức độ nhận
thức về sự cần thiết về bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, công chức và khả
năng tổ chức thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới lãnh đạo, quản lý.
V. KẾT LUẬN
Như đã khẳng định, Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao
nhất, đầy đủ cho quyền bình đẳng giới phụ nữ. Đó khơng chỉ là tiêu chí quan
trọng bình đẳng giới mà cịn là động lực thúc đẩy mức độ bình đẳng giới. Có thể
thấy rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên
đặc biệt. Và những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng về giới đã mang lại
nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao. Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được rõ ràng, khơng thể phủ nhận vẫn cịn những
tồn tại, hạn chế và các rào cản đối với Bình đẳng giới nịi chung, bình đẳng giới
trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước nói riêng. Nhưng cần khẳng
định một lần nữa: Bình đẳng giới trở thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói
riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung; và để đạt được mục tiêu này không phải
13


một sớm một chiều mà là cả một quá trình lâu dài và cần sự vào cuộc của chính
quyền, sự tham gia của tồn dân vì sau một người phụ nữ thành cơng đó là
tồn xã hội.
Trong văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XIII có nội dung xây dựng
người phụ nữ hiện đại, nhất là trong bối cảnh đất nước hội nhập hiện nay. Đây là
một trong cơ hội mà phụ nữ phải nắm lấy, cân đối hài hòa giữa việc thực hiện
thiên chức làm vợ, làm mẹ và quỹ thời gian để đào tạo nâng cao kỹ năng, kiến
thức, kinh nghiệm để hoàn thành hai vai, trở thành phụ nữ lãnh đạo quản lý, một
người phụ nữ thành công./.

14




×