Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

thực tiễn thi hành biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.54 KB, 14 trang )

Bài làm
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã thừa nhận việc thúc
đẩy bình đẳng giới sẽ đem lại cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho tất cả mọi
người. Các quốc gia thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế đã đạt được sự
đồng thuận cao cho rằng, nếu những phân biệt đối xử trên cơ sở giới bị xóa bỏ
sẽ đem lại lợi ích không chỉ cho các cá nhân mà còn mang lại lợi ích cho toàn
thể cộng đồng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định chính trị và
công bằng xã hội. Việt Nam là một trong những nước đã cam kết mạnh mẽ
trong việc đảm bảo bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về mọi mặt, thể hiện ở
việc phê chuẩn hàng loạt công ước quốc tế có liên quan và phản ánh ở hệ
thống luật pháp, chính sách của quốc gia, từ Hiến pháp tới các Bộ luật, Luật.
Đó là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện quyền bình đẳng cho cả nam
giới và phụ nữ trong thực tiễn. Một trong những cơ sở pháp lý đó là các quy
định cụ thể của Luật bình đẳng giới hiện hành (Luật bình đẳng giới) cùng các
văn bản hướng dẫn thi hành và nội dung thể hiện biện pháp thúc đẩy binh
đẳng giới là một trong những nội dung khá quan trọng. Sau đây, em xin phép
được trình bày nội dung bài tập học kỳ của mình liên quan đến vấn đề ‘‘thực
tiễn thi hành biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo’’ như sau:
I. Khái quát chung về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo.
1. Khái niệm biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 5 Luật bình đẳng giới ‘‘Biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch
lớn giữa nam, nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ
hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau
giữa nam, nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy
1



bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi
mục đích bình đẳng giới đã đạt được’’.
2. Khái niệm biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo.
Tại khoản 5 Điều 14 Luật bình đẳng giới đã quy định rõ biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm: a) Quy định tỷ
lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo; b) Lao động nữ khu vực nông thôn được
hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng, biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới trong lĩnh vực giáo dục và đào là những biện pháp do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành nhằm quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào
tạo; lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của
pháp luật trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai
trò, điều kiện, cơ hội phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa
nam và nữ mà không làm giảm được sự chênh lệch này.
II. Thực tiễn thi hành biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo.
1. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo.
Như đã tìm hiểu ở trên thì có hai biện pháp để thực hiện việc thúc đẩy
bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Để hướng dẫn cụ thể việc
thi hành biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
thì tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 48/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định
về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đã quy định: Bộ Lao động thương
binh và xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ giáo dục đào tạo và các
Bộ ban nghành khác có liên quan xây dựng , trình cơ quan có thẩm quyền ban
hành , hướng dẫn tổ chức thực hiện quy định nữ được quyền lựa chọn hoặc ưu
2



tiên nữ trong tuyển dụng khi nữ có đầy đủ điều kiện tiêu chuẩn như nam; quy
định việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho lao động nữ...
1.1. Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo
1.1.1. Về ưu điểm
Phụ nữ và trẻ em gái đã được tạo điều kiện bình đẳng với nam
giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với
nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học
sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp (Báo cáo Quốc gia
của Việt Nam, tháng 8-2005 đã khẳng định điều này). Về cơ bản, Việt Nam có
thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có
4 loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó
có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ
hơn rất nhiều so với trước. Hiện nay, tỷ lệ nữ biết đọc, biết viết tăng liên tục
đến 91,4%. Nữ sinh viên Đại học hơn 50%. Nữ thạc sỹ gần 40%, nữ tiến sỹ
chiếm hơn 10%. Từ 2007-2009, các nhà khoa học nữ đã chủ trì thành công
gần 70 đề tài khoa học cấp nhà nước được ứng dụng vào thực tiễn đem lại
hiệu quả thiết thực. Nhiều chị nhận được các giải thưởng khoa học, được
phong hàm giáo sư, phó giáo sư và danh hiệu Nhà giáo, Thày thuốc ưu tú, Nhà
giáo, Thày thuốc Nhân dân.
Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc
biệt là vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành GD&ĐT đã thực hiện tương
đối tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh Mai đã
từng khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “chiếm hơn 70% đội ngũ toàn
ngành, giới nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp GD&ĐT
nước nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo
như Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ
nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức
3



danh Phó Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định vai
trò của giới mình bằng cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất
sắc. Trong các kỳ tuyển sinh vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh
nữ. Còn trong các kỳ thi tốt nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với
thành tích xuất sắc: thủ khoa.
1.1.2. Về những tồn tại bất cập
Mặc dù có nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc thực hiện quy định tỷ lệ nam, nữ
tham gia học tập, đào tạo nhưng thực chất bình đẳng giới trong GD&DT còn
nhiều vấn đề cần xem xét. Thực tế là phụ nữ vẫn đang phải chịu nhiều thiệt
thòi. Đó là: cơ hội việc làm rất hạn chế do ít được đào tạo. Tỷ lệ lao động nữ
chưa qua đào tạo là 80,9%, khu vực nông thôn là gần 90%, chỉ có 3,65% lao
động nữ ở vùng nông thôn có chứng chỉ nghề. Thu nhập thực tế của nữ chỉ
bằng gần 80% so với thu nhập của nam giới. Có sự chênh lệch lớn về trình độ
học vấn của phụ nữ so với nam giới ở bậc học cao. Nữ tiến sỹ chỉ chiếm hơn
10%, nữ giáo sư khoảng 6%, phó giáo sư hơn 10%. Cơ hội tiếp cận giáo dục,
học tập của trẻ em gái, phụ nữ nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số còn
hạn chế, chuyên viên cao cấp, nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp.
Về khách quan, nguyên nhân là do việc nhìn nhận vai trò của nữ giáo
viên chưa đúng, nhiều Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ vì sợ
liên quan đến chế độ nghỉ sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc giảng dạy,
hoặc khi đề bạt, cử đi học còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên. Trẻ em gái ít
cơ hội được đến trường so với nam giới. Nếu tính trung bình cho tất cả các
quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so với nam giới,
số năm đến trường trung bình thấp hơn 45% so với nam giới và tỷ lệ nhập học
tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của nữ thấp hơn tương ứng là
9%, 28% và 49% so với nam.

4



Về chủ quan, nhiều chị em chưa thoát ra khỏi tâm lí tự ti, an phận,
không cần phấn đấu, không chịu khó học tập để nâng cao trình độ, chưa nhận
thức hết vai trò và chưa thay đổi cách nhìn mới về chính mình. Mặt khác, các
chính sách trong GD&ĐT ngoài ảnh hưởng chung đối với xã hội còn có ảnh
hưởng trực tiếp đến bình đẳng giới. Ví dụ, việc tăng giảm học phí ảnh hưởng
rất nhiều đến quyền lợi của trẻ em gái. Bởi vì trẻ em gái có nguy cơ bị buộc
nghỉ học cao hơn bé trai khi điều kiện gia đình khó khăn.
1.2. Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của
pháp luật
Ở Việt Nam, phụ nữ nông thôn là lực lượng to lớn và quan trọng của
quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Theo số liệu từ Tổng điều
tra dân số năm 2009, phụ nữ chiếm 50,5% số người hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ này là 60%). Trong tổng lực lượng lao động nữ,
có 68% là hoạt động trong nông nghiệp, tỷ lệ này đối với nam giới là 58%.
Phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là
một lực lượng chủ yếu trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn
nhân lực của đất nước, nhưng phụ nữ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn so
với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị. Chính vì vậy, cần có những quan
tâm hợp lý đến phụ nữ nông thôn. Sau đây sẽ là một số thành công cũng như
hạn chế mà biện pháp thúc đẩy bình giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã
và đang đạt được:
1.2.1. Về ưu điểm.
Một chú ý nhất trong thời gian gần đây liên quan đến việc hỗ trợ dạy
nghề cho phụ nữ ở nông thôn đó là Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27-32006 của Thủ tướng Chính phủ về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho
lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã nhấn mạnh:
5


“Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm hiện đang là vấn đề bức xúc ở

nhiều vùng chuyển đổi đất”. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015”.
Theo đó, đối tượng được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm là lao động nữ trong độ
tuổi lao động, ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện hưởng
chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối
đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật,
người trong diện thu hồi đất canh tác, phụ nữ bị mất việc làm trong các doanh
nghiệp. Lao động nữ thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công
với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu
hồi đất canh tác, lao động nữ bị mất việc làm trong các DN được hỗ trợ chi phí
học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức
tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học. Ngoài hỗ trợ chi phí học, các đối tượng
này còn được hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000đồng/ ngày thực học/người, hỗ trợ
tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá
200.000đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15km
trở lên. Trường hợp lao động nữ thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150%
thu nhập của hộ nghèo thì được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối
đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học; đối với lao động nữ khác thì mức hỗ trợ là 2
triệu đồng/người/khóa học. Ngoài ra, lao động nữ học nghề được vay vốn để
học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động
nữ làm việc ổn định tại chỗ (nơi cư trú) sau khi học nghề được ngân sách hỗ
trợ 100% lãi suất đối với khoản vay học nghề…Đề án sẽ là cơ hội lớn để phụ
nữ nghèo ở nông thôn được đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm, có thu nhập ổn
định và nâng cao vị thế phụ nữ trong xã hội.
Để thực hiện tốt nhất các quy định hướng dẫn của nhà nước, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam (HLHPN VN) đã và đang thực hiện tốt, hiệu quả hoạt
6


động liên kết với Tổng cục Dạy nghề trong việc dạy nghề cho phụ nữ giai

đoạn 2006-2010 và trong giai đoạn sắp tới.
Nhiều nội dung đã được triển khai cho lao động nữ như: Đào tạo nghề,
tư vấn giới thiệu việc làm, nâng cao kiến thức giáo viên, tạo điều kiện giúp lao
động nữ tiếp cận nguồn vốn quốc gi giải quyết việc làm...
Theo Hội LHPN VN, quá trình triển khai được thực hiện trong giai
đoạn 5 năm 2006-2010,với nhiều kết quả tích cực: Hội LHPN Lào Cai có hơn
18.300 LĐ nữ được học nghề, Hải Phòng có 8000 LĐ, Nghệ An có 7.300 LĐ,
Đà Nẵng có 9000 LĐ, Long An có 13.000 LĐ... Đa số LĐ nữ được học nghề
phù hợp với đặc thù địa phương như: Chăn nuôi gia súc, thú y, dệt, thuê, trồng
trọt, trang điểm, dịch vụ nhà hàng...
Qua triển khai, nhiều cấp hội phụ nữ đã rút ra nhiều kinh nghiệm. Theo
bà Phạm Hải Yến - PCT Hội LHPN Hải Phòng, việc dạy nghề đã được khảo
sát để phù hợp với đối tượng cụ thể, gắn dạy nghề với tạo việc làm và lồng
ghép dạy nghề với tổ tín dụng - tiết kiệm - vay vốn cơ sở nhằm giúp LĐ nữ có
việc làm.
Với Hội LHPN Thái Bình, công tác gắn dạy nghề với DN được chú
trọng, cán bộ Hội phối hợp chặt chẽ với các DN nữ trong việc dạy nghề, tạo
việc làm cho LĐ sau khi học nghề.
Theo bà Đỗ Thái Mười - PCT Hội LHPN tỉnh Long An, việc tuyên
truyền nâng cao nhận thức về nâng cao thu nhập và việc làm bền vững cũng
giúp LĐ nữ tham gia học nghề nhiều hơn...
1.2. Một số tồn tại
Năm 2011, Hội LHPN tiếp tục triển khai tiếp nhiều hợp tác với TC Dạy
nghề, với mục tiêu tăng cường công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho LĐ nữ,
tăng tỉ lệ LĐ nữ qua đào tạo nghề. Theo đó, phấn đấu đưa trên 70 % LĐ nữ

7


được tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách về dạy nghề và việc

làm, đưa tỉ lệ LĐ nữ trong tổng chỉ tiêu tuyển sinh dạy nghề lên 40%...
Tuy nhiên, quá trình triển khai còn nhiều khó khăn cần khắc phục.
Hàng vạn nông dân không còn đất canh tác nên đòi hỏi phải có việc làm
cho họ. Trong số ấy, những thanh niên trẻ có điều kiện học hành, có bằng cấp
nghề nghiệp thì được nhận vào làm cho các cơ sở công nghiệp. Những nông
dân là nam giới thì hoặc làm cho nhà máy, hoặc tự hành nghề xây dựng, sản
xuất đồ gỗ, sửa chữa cơ khí máy móc… Lực lượng còn lại không có việc làm
chủ yếu là phụ nữ ở độ tuổi 20 đến 50. Ở độ tuổi này, các chị thường đã có
chồng, có con. Trình độ học vấn chủ yếu hết cấp Trung học cơ sở (xưa là hết
lớp 7, nay là hết lớp 9). Hầu hết các chị là chủ gia đình, phải lo nuôi con ăn
học, lo cuộc sống gia đình nên khi nói đến học nghề, ai cũng phấn khởi, ai
cũng nhận thấy là cần thiết. Qua thực tế mở các lớp dạy nghề cho phụ nữ nông
dân đã bộc lộ không ít những khó khăn từ phía chị em. Trước hết là tư tưởng
và nhận thức, chị em chưa thấy hết tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc
học nghề nên chưa thật sự say mê. Thứ hai là ý chí vươn lên để thoát khỏi cái
nghèo, cái khổ ở chị em chưa cao. Nhiều người vẫn hy vọng vào vài sào ruộng
khoán. Thứ ba là tâm lý thiếu kiên trì, ngại khó, nóng vội muốn có thu nhập
ngay. Có chị hăm hở làm nhưng thành phẩm chưa đạt thế là chán, bỏ luôn. Có
chị thấy việc tỉ mỉ quá kêu “sốt ruột” cũng bỏ. Có chị bảo làm mỗi ngày lấy
10 nghìn đồng (lúc mới tập) thì chơi cho sướng. Nhiều chị chờ người khác
làm xem sao đã. Mặt khác, vấn đề tào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn nói
riêng hiện vẫn chỉ dừng ở mức “có chăm lo”, còn hiệu quả chưa được quan
tâm đúng mức. Hiện cả nước có khoảng 31% LĐ nữ thất nghiệp. Theo số liệu
của Viện Chính sách và chiến lược nông nghiệp nông thôn, trong số LĐ trở về
nông thôn, chỉ có khoảng 11% tìm được việc làm mới, trong đó, những cơ hội
với LĐ nữ là rất ít.
8


Về phía các chủ thể có thẩm quyền thì theo bà Lê Thị Tám, Hội LHPN

Nghệ An, quy mô đào tạo LĐ nữ nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội,
chất lượng đào tạo nghề còn hạn chế, thiếu tính bền vững, việc phối hợp khảo
sát đánh giá vấn đề "giới" trong đào tạo giữa các ngành chưa thường xuyên, số
liệu chưa khách quan. Theo bà Đỗ Thái Mười - PCT Hội LHPN tỉnh Long An,
trình độ của LĐ nữ ở nông thôn còn hạn chế, việc tiếp thu còn chậm, ảnh
hưởng đến chất lượng và quá trình đào tạo. Trong khi đó, nhận thức về vai trò
của phụ nữ trong nghề nghiệp - việc làm ở nhiều nơi còn hạn chế...
Bài học tổ chức lớp học nghề cho phụ nữ nông dân quả là không đơn
giản. Làm thế nào để từ một nhóm người làm nghề vươn lên thành một làng
nghề? Đó là câu hỏi cần nhanh chóng tìm ra câu trả lời.
2. Ý nghĩa của việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo.
Bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực
trung bình của xã hội. Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả
năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập
và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai
có tiềm năng thấp hơn trẻ em gái lại được học hành nhiều hơn, như thế, chất
lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể đạt được và
kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng
nguồn nhân lực của tương lai. Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục
giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ
và nhận thức của phụ nữ trong gia đình được cải thiện, số lượng và chất lượng
đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự
dạy dỗ của người mẹ cũng như khả năng thuyết phục hoặc quyền của người
mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với con cái. Ngoài ra, trình
9


độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết định trong việc chăm sóc và dinh

dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất lượng
nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã
hội sẽ được nâng lên.
III Một số giải pháp khắc phục để thực hiện việc thúc đẩy bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Có thể nói rằng bình đẳng giới trong giáo dục có tầm quan trọng to lớn
đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, có một nhà giáo dục đã viết: Giáo
dục một người đàn ông, ta được một gia đình, giáo dục một người phụ nữ ta
được cả một thế hệ. Lợi ích trăm năm trồng người chính là xuất phát từ việc
bình đẳng giới trong giáo dục.
Thứ nhất, các cơ quan cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép
giới vào chương trình dạy học trong các nhà trường. Tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới.
Để thực hiện được các giải pháp này thì cần phải tăng cường hơn nữa năng lực
và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và hệ
thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng lực của Hội Phụ nữ các cấp.
Thứ hai, bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên,
rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng
động sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.
Thứ ba, phải có các chính sách ưu tiên đào tạo nghề và việc làm cho
phụ nữ. Khi đề cập đến tình hình thất nghiệp do ruộng đất bị thu hồi, trong
Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27-3-2006 của Thủ tướng Chính phủ về giải
pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp đã nhấn mạnh: “Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm hiện đang là vấn đề bức xúc ở nhiều vùng chuyển đổi đất”. Quá trình biến
động đất đai trong nông nghiệp không chỉ khiến cho nhiều nông dân, nhất là
10


phụ nữ thất nghiệp mà nó còn tác động đến thị trường lao động với những

mức độ khác nhau. Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn được thông qua tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã xác định
“Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi
chương trình phát triển kinh tế – xã hội của cả nước”, đồng thời nhấn mạnh
việc ưu tiên đào tạo nghề và việc làm cho những gia đình mất ruộng “Có kế
hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân,
nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất”. Có cơ sở để thấy rằng
phụ nữ nông thôn cần được quan tâm đào tạo nghề hơn nam giới, ít nhất là ở
mấy lý do: a) phụ nữ là “nhân vật chính” vì họ đảm nhận hầu hết các công
việc trồng trọt, chăn nuôi; b) ở các vùng quê nam giới đi làm ăn xa, nếu có ở
lại quê thì họ cũng dễ tìm kiếm việc làm và ít gặp rủi ro hơn so với phụ nữ; c)
phụ nữ không chỉ gắn với ruộng đồng mà còn gắn với làng xóm vì xu hướng
“nữ hóa nông thôn” đang diễn ra; và d) phụ nữ thường gặp trở ngại nhiều
hơn nam giới trong cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo do vẫn còn quan niệm
thiên vị giới ở mức độ khác nhau.
Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tiếp cận các nguồn lực.
Không làm chủ được các nguồn lực (đất đai, tài sản, phương tiện sản xuất,…)
thì phụ nữ sẽ thuộc “nhóm yếu thế”, không thể tự chủ và khó phát huy được
sức mạnh của vai trò nữ giới. Điều này sẽ càng thêm bất lợi nếu như đời sống
gia đình của người phụ nữ có vấn đề, gặp chuyện “cơm không dẻo, canh
chẳng ngọt” dẫn đến gia đình tan vỡ. Chính vì lẽ đó, cần thúc đẩy việc cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai theo Luật Đất đai 2003. Đứng tên
trong giấy tờ sử dụng đất không chỉ cho phép phụ nữ tiếp cận dễ dàng hơn với
các nguồn vốn mà còn nâng cao sự an toàn cho chính họ trong trường hợp ly
hôn hoặc thừa kế. Với phụ nữ nông thôn, đất đai là một phương tiện bảo đảm
an sinh xã hội đồng thời cũng là phương tiện duy nhất để thoát nghèo. Vì thế,
11


cần tính đến những khác biệt giữa nam và nữ trong tiếp cận và sử dụng vốn

vay tín dụng từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để có chính sách, chế
độ riêng đối với nam và nữ nông dân trong triển khai chính sách tín dụng hiện
nay.
Năm là, chăm lo sức khỏe và an sinh xã hội cho phụ nữ nông thôn.
Cần phải cải thiện sức khỏe phụ nữ bằng việc nâng cao nhận thức và thay đổi
hành vi chăm sóc sức khỏe trong việc cung cấp các dịch vụ y tế và kế hoạch
hóa gia đình. Bảo đảm cho phụ nữ nghèo được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe một cách thuận lợi. Nâng cao chất lượng các dịch vụ sau sinh đẻ.
Đây là tư tưởng chỉ đạo nhất thiết phải thực hiện, vì hiện nay phụ nữ nông
thôn vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong việc chăm sóc sức khỏe. Để có chính
sách ưu đãi nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ nông thôn, nên tập
trung vào: Sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Khi thực hiện chức năng tái sinh
sản, người phụ nữ nông thôn hiện nay phải đối diện với những gánh nặng về
dân số – kế hoạch hóa gia đình do quan niệm của nam giới “khoán” việc đó
cho nữ giới và nam giới thiếu sự tham gia, chia sẻ trách nhiệm trong vấn đề
này. Đồng thời, quan tâm đến chất lượng dân số hiện nay không thể coi nhẹ
những nội dung liên quan đến sức khỏe sinh sản, quyền sinh sản của người
phụ nữ nông thôn; cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt ở nông thôn.
Hiện nay, ô nhiễm môi trường sống ở nông thôn và môi trường sản xuất nông
nghiệp đã và đang đến mức báo động. Do vậy, các chương trình phát triển
kinh tế – xã hội ở nông thôn, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cần chú
trọng đến việc giữ gìn, bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn. Những
“điển hình” công nghiệp hủy hoại môi trường như Vedan, Miwon là những ví
dụ về sự trả giá quá đắt cho đời sống và môi trường của người dân nông thôn
nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng.

12


Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ.

Coi việc phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ là một trong những
nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới;
công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và
từng gia đình, trong đó hạt nhân lãnh đạo là cấp uỷ đảng, trách nhiệm trực tiếp
và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt
là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực và kết
quả cụ thể trong tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam, thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 “nước ta là một trong các
quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực”.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện các chính sách, luật pháp. Đảng đoàn
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiếp tục kiến nghị với Đảng và Nhà nước sớm
xem xét chỉ đạo rà soát, sửa đổi bổ sung có hướng dẫn cụ thể các chính sách,
luật pháp để đảm bảo tính đồng bộ và thực hiện đúng nhiệm vụ, giải pháp đề
ra trong Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ là “Thực hiện
nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề
bạt và bổ nhiệm” và quy định của Luật bình đẳng giới là “Nam nữ bình đẳng
về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí
quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị Đảng và Nhà nước ban hành
chính sách tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện tốt vai trò trong xây dựng gia
đình và nuôi dạy con, nhất là các chính sách phát triển nhà trẻ, mẫu giáo; các
trung tâm tư vấn hôn nhân – gia đình và phòng chống tệ nạn xã hội, buôn bán
phụ nữ - trẻ em và bạo lực gia đình; chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nghèo khi
sinh con đúng chính sách dân số; chính sách đào tạo lại cho phụ nữ trí thức, hỗ
trợ phụ nữ có con dưới 36 tháng tuổi tham gia đào tạo, bồi dưỡng; nâng tỷ lệ
lao động nữ được đào tạo nghề có chứng chỉ chuyên môn, kỹ thuật; chính sách
13


thuế đối với nữ chủ doanh nghiệp; hỗ trợ nhà ở cho phụ nữ cao tuổi đơn thân,

phụ nữ khuyết tật có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

14



×