Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh (luận án tiến sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 190 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÙI THỊ HẰNG NGA

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Tp. Hồ Chí Minh năm 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÙI THỊ HẰNG NGA

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số chuyên ngành: 62.38.01.07

Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện
Phản biện 2: PGS.TS Võ Trí Hảo
Phản biện 3: TS Châu Thị Khánh Vân

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. DƯƠNG ANH SƠN



Phản biện độc lập 1: TS Trần Lê Đăng Phương
Phản biện độc lập 2: TS Lê Văn Hưng

Tp. Hồ Chí Minh năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận án này là công trình do chính tơi thực hiện. Mọi số liệu, kết quả
nghiên cứu đã công bố được tham khảo trong Luận án đều trung thực và trích dẫn nguồn
đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được cơng bố trong bất
kỳ cơng trình của tác giả nào khác.

Nghiên cứu sinh

Bùi Thị Hằng Nga


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
CPTPP

Tiếng Anh
The Comprehensive and
Progressive Agreement for
Trans-Pacific Partnership
European Commission
European Court of Justice
Federal Trade Commission
Fair, reasonable, and nondiscriminatory

Intellectual Property Rights
Japan Fair Trade Commission

Nghĩa tiếng Việt
Hiệp định đối tác tồn diện và
tiến bộ xun Thái Bình Dương

Cộng đồng Châu Âu
Tịa án Cơng lý Châu Âu
Ủy ban Thương mại Liên bang
Điều kiện ứng xử công bằng, hợp
lý và khơng phân biệt đối xử
IPRs
Quyền sở hữu trí tuệ
JFTC
Ủy ban Thương mại công bằng
của Nhật Bản
OECD
Organisation for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển
Co-operation
and kinh tế
Development
SEP
Standard Essential Patent
Sáng chế thiết yếu (cần thiết)
TRIPs
Trade-Related Aspects of Hiệp định Thương mại liên quan
Intellectual Property Rights
đến quyền sở hữu trí tuệ
TFEU

Treaty on the Functioning of Hiệp định về hoạt động của Liên
the European Union
minh Châu Âu
TTBER
The Technology Transfer Quy chế chuyển giao công nghệ
Block Exemption Regulation của Châu Âu
UNCTAD United Nations Conference on Hội nghị Liên hợp quốc về
trade and Development
Thương mại và Phát triển
UNIDO
United Nations Industrial Tổ chức phát triển công nghiệp
Development Organization
Liên hiệp quốc
WTO
World Trade Organisation
Tổ chức Thương mại thế giới
WIPO
World Intellectual Property Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
Organisation
EC
ECJ
FTC
FRAND


i

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do lựa chọn đề tài.................................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................ 3
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ......................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................ 5
1.1 Tổng quan về tình hình nghiên cứu ........................................................................... 5
1.1.1 Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ
và pháp luật cạnh tranh ................................................................................................ 5
1.1.2 Đánh giá chung về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa
pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ ........................................................ 11
1.1.3 Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến các hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí
tuệ cụ thể theo quy định của pháp luật cạnh tranh ..................................................... 12
1.1.4 Đánh giá về các công trình nghiên cứu liên quan đến điều chỉnh của pháp luật
cạnh tranh đối với hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ......................................... 17
1.2 Cơ sở lý thuyết nghiên cứu ...................................................................................... 17
1.2.1 Lý thuyết về đòn bẩy ......................................................................................... 18
1.2.2 Học thuyết điều kiện thiết yếu (The essential facility doctrine) ....................... 19
1.2.3 Học thuyết lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ (A misuse doctrine) ....................... 20
1.2.4 Nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (per ser) và nguyên tắc lập luận hợp lý (rule of
reason) ........................................................................................................................ 21
1.3 Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu ............................................................................ 24
1.4 Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 25
1.5 Những điểm mới khoa học của luận án ................................................................... 26
1.6 Bố cục của luận án ................................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH ...................................................... 28
2.1 Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ ................................................................. 28
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tài sản sở hữu trí tuệ ................................................. 28
2.1.2 Khái niệm, đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ ................................................. 29
2.1.3 Ảnh hưởng của quyền sở hữu trí tuệ đối với mơi trường cạnh tranh ................ 34
2.2 Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ và hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh ............... 39

2.2.1 Xác định hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ .............................................. 39
2.2.2 Tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ ........ 45


ii

2.3 Nhu cầu điều chỉnh hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật cạnh tranh
........................................................................................................................................ 52
2.3.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật cạnh tranh đối với hoạt động thực thi
quyền sở hữu trí tuệ .................................................................................................... 52
2.3.2 Yêu cầu của việc điều chỉnh hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp
luật cạnh tranh ............................................................................................................ 55
2.4 Giới hạn điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hoạt động thực thi quyền sở hữu
trí tuệ .............................................................................................................................. 58
2.4.1 Đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh đối với việc thực thi quyền sở hữu trí
tuệ ............................................................................................................................... 59
2.4.2 Đối tượng áp dụng của luật cạnh tranh trong mối quan hệ với thực thi quyền sở
hữu trí tuệ ................................................................................................................... 60
2.4.3 Phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh trong mối quan hệ với quyền sở hữu trí
tuệ ............................................................................................................................... 62
2.4.4 Giới hạn kiểm sốt của pháp luật cạnh tranh liên quan đến thực thi quyền sở hữu
trí tuệ .......................................................................................................................... 67
CHƯƠNG 3: ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH ĐỐI VỚI HÀNH VI
LẠM DỤNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ....................................................................... 72
3.1 Hành vi ấn định giá bán lại độc quyền trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí
tuệ ................................................................................................................................... 72
3.1.1 Khái niệm về ấn định giá .................................................................................. 72
3.1.2 Các hình thức ấn định giá bán lại và tác động của nó đối với mơi trường cạnh
tranh............................................................................................................................ 74
3.1.3. Điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi ấn định giá bán trong hợp đồng chuyển

giao quyền sở hữu trí tuệ ............................................................................................ 76
3.2 Hành vi định giá hủy diệt trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ......... 88
3.2.1 Khái niệm hành vi định giá hủy diệt ................................................................. 89
3.2.2 Xác định hành vi định giá hủy diệt ................................................................... 90
3.2.3 Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hành vi định giá hủy diệt............ 95
3.3 Hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ ................................................. 100
3.3.1 Xác định tính bất hợp pháp của hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
.................................................................................................................................. 100
3.3.2 Điều chỉnh pháp luật đối với hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
.................................................................................................................................. 101
3.4 Ràng buộc bán kèm (chuyển giao cả gói) trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
trí tuệ ............................................................................................................................ 112
3.4.1 Khái quát chung về hành vi bán kèm .............................................................. 112
3.4.2 Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với thỏa thuận bán kèm .................. 115


iii

3.5 Yêu cầu chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
...................................................................................................................................... 122
3.5.1 Khái niệm về chuyển giao ngược .................................................................... 123
3.5.2 Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với điều khoản chuyển giao ngược
.................................................................................................................................. 124
CHƯƠNG 4: HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN THỰC THI
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
TẠI VIỆT NAM .............................................................................................................. 133
4.1 Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ
trong hệ thống pháp luật của các quốc gia ................................................................... 134
4.1.1 Pháp Luật của các quốc gia phát triển............................................................. 135
4.1.2 Pháp luật của các quốc gia đang phát triển ..................................................... 139

4.2 Thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh tại Việt
Nam .............................................................................................................................. 145
4.3 Mục đích và nguyên tắc xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thực thi
quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam .......... 150
4.3.1 Mục đích của việc xây dựng pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động thực thi
quyền sở hữu trí tuệ .................................................................................................. 150
4.3.2 Nguyên tắc xây dựng pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động thực thi quyền
sở hữu trí tuệ ............................................................................................................ 152
4.4 Các đề xuất nhằm hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động thực
thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh .......................... 156
4.4.1 Xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng pháp luật cạnh tranh đối với
hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ ................................................................... 156
4.4.2 Các kiến nghị cụ thể liên quan đến điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi lạm
dụng quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu ............................................................... 162
KẾT LUẬN................................................................................................................... 174
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ iv
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU....................................................... xi


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do lựa chọn đề tài
Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật sở hữu trí tuệ cần có các
quy định nhằm đảm bảo quyền độc quyền khai thác cho chủ sở hữu cũng như quyền ngăn
cản các chủ thể khác xâm phạm đến các quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ. Đó là một
trong những điều kiện quan trọng giúp chủ sở hữu hình thành một lợi thế cạnh tranh, một
quyền lực thị trường. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ mặc dù là quyền độc
quyền hợp pháp của chủ sở hữu nhưng độc quyền đó khơng được phép xâm phạm lợi ích

của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và
không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan. Bởi lẽ, các lợi thế cạnh
tranh có được từ độc quyền sở hữu trí tuệ, các chủ thể nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ có thể
ngăn cản việc tiếp cận khoa học cơng nghệ thơng qua các ràng buộc mang tính hạn chế
cạnh tranh nhằm ngăn cản sự gia nhập thị trường của các doanh nghiệp khác, thậm chí là
từ chối chuyển giao dẫn đến ngăn cản sự tiếp cận khoa học công nghệ, phát minh sáng tạo
của người tiêu dùng. Do đó, trong mối tương quan với cấu trúc thị trường, tính cạnh tranh
của nền kinh tế thì hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngồi tác động tích cực cịn có
khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, đặc biệt là trong trường hợp chủ
sở hữu lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ. Đó chính là nguyên nhân chính để các nhà nghiên
cứu cho rằng cần phải sử dụng các quy định của pháp luật cạnh tranh để điều chỉnh đối với
hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể bên cạnh quy định của luật sở hữu trí
tuệ.
Tại Việt Nam, tầm quan trọng của việc điều chỉnh pháp luật cạnh tranh đối với
thực thi quyền sở hữu trí tuệ bước đầu đã được đề cập trong các quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ 2005. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ mới chỉ dừng lại điều
chỉnh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến thực thi quyền sở hữu
trí tuệ, các hành vi hạn chế cạnh tranh lại được dẫn chiếu sang các quy định của pháp luật
cạnh tranh. Trong khi đó, Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Cạnh tranh 2018 chỉ hướng đến
điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh nói chung chứ khơng có các quy định dành riêng
cho các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, các đặc trưng
của quyền sở hữu hữu trí tuệ đã khơng được tính đến khiến cho rất nhiều các hành vi trên
thực tế được xem là quyền hợp pháp của chủ sở hữu theo quy định của luật sở hữu trí tuệ
lại trở thành hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ
với pháp luật cạnh tranh nhằm xây dựng các nguyên tắc và phạm vi điều chỉnh của pháp
luật cạnh tranh đối với hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ cân bằng
lợi ích giữa quyền độc quyền của chủ sở hữu và môi trường cạnh tranh lành mạnh, công
bằng là việc làm cần thiết nhằm xây dựng cơ chế pháp lý thúc đẩy hoạt động đầu tư, nghiên
cứu sáng tạo gắn liền với phát triển kinh tế quốc gia, đảm bảo lợi ích cộng đồng, phúc lợi

xã hội. Do vậy, việc tác giả lựa chọn đề tài Quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với


2

pháp luật cạnh tranh làm luận án tiến sĩ Luật học là việc làm hết sức cần thiết nhằm đảm
bảo sự thống nhất của các quy định pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tại
Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với quy định của Hiệp định TRIPs, quyền sở hữu trí tuệ hiện nay đã được bảo hộ
toàn cầu với tiêu chuẩn bảo vệ tối thiểu chung cho các quốc gia thành viên hoặc cao hơn
với các ghi nhận tại các Hiệp định song phương hoặc đa phương.
Bên cạnh đó, vấn đề tác động của quyền sở hữu trí tuệ với cạnh tranh đã được các
quốc gia phát triển quan tâm từ khá sớm. Vào tháng 2 năm 1989, tại Nhật Bản, Ủy ban
thương mại ban hành Hướng dẫn về quy định thực hành thương mại không lành mạnh đối
với bằng sáng chế và các thỏa thuận cấp phép. Tại Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1995, Các cơ
quan cạnh tranh của các bang đã ban hành Hướng dẫn chống độc quyền cho việc cấp phép
sở hữu trí tuệ.
Tháng 1 năm 1996, Ủy ban Châu Âu đã thông qua Quy định số 240/96 (sau đây gọi
là Quy định chuyển giao công nghệ), thay thế cho hai khối miễn trừ bao gồm cấp phép bằng
sáng chế và cấp phép bí quyết. Và vào tháng 5 năm 1996, Chính phủ Canada đồng tài trợ
một hội nghị chuyên đề về chính sách cạnh tranh và sở hữu trí tuệ, là bước đầu tiên trong
đánh giá chính sách của chủ đề. Ngoài ra, vào tháng 9 năm 1998 tổ chức hợp tác kinh tế và
phát triển (OECD) cũng đã công bố một báo cáo đầy đủ về vấn đề này.1
Năm 2016 Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển – UNCTAD đã ban
hành văn bản hướng dẫn các quốc gia thành viên xác định mối tương quan giữa quyền sở
hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh.
Thơng qua các vụ việc thực tế cho thấy, điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh cho
lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã được thực hiện khá tốt ở các quốc gia phát triển như Hoa kỳ, Liên
Minh Châu Âu, Nhật Bản… với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động phát minh – sáng tạo trong

mối tương quan với bảo vệ môi trường cạnh tranh và lợi ích người tiêu dùng.
Ngược lại, đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, việc ban hành
luật cạnh tranh dưới áp lực của các cam kết hội nhập. Ví dụ như, đối với từng thành viên
của Hiệp hội các quốc gia Châu Á (Asean) thì việc ban hành luật cạnh tranh là điều kiện
quan trọng mang tính quyết định xây dựng nên cộng đồng kinh tế Asean (AEC) hoặc Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Hay nói cách khác, pháp luật cạnh
tranh ở các quốc gia này không được xây dựng và ban hành dựa trên chính sách cạnh tranh
và điều kiện phát triển kinh tế của quốc gia. Do đó, đến mãi năm 2015 thì các quốc gia
trong cộng đồng kinh tế Asean mới hoàn tất việc công bố luật cạnh tranh cho riêng đất nước
mình.2
Song song với điều đó, trước sức ép của các cam kết của quá trình hội nhập nên
pháp luật của một số các quốc gia đang phát triển thường không được xây dựng trên điều

1
2

OECD (1998), Competition policy and intellectual property rights
0ECD (2018), Competition Law In Asia- Pacific - A guide to Selected Jurisdictions


3

kiện thực tế của quốc gia mà là kết quả sự sao chép từ hệ thống pháp luật của các quốc gia
phát triển trong đó pháp luật cạnh tranh và luật sở hữu trí tuệ khơng là ngoại lệ.
Cụ thể là đối với pháp luật cạnh tranh, các quốc gia có xu hướng sao chép từ hệ
thống pháp luật Hoa Kỳ hoặc Châu Âu- các quốc gia có các quy định và khả năng thực thi
pháp luật cạnh tranh lâu đời và tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, do sự khác biệt về nền
tảng lập pháp, điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội nên sự sao chép đó chưa hẳn đã là điều
tốt và phù hợp với các quốc gia. Tương tự như vậy, đối với pháp luật sở hữu trí tuệ thì việc
ban hành các quy định của nhiều các quốc gia chỉ dựa vào Hiệp định TRIPs hay sao chép

từ các nước phát triển để phục vụ cho các mục tiêu và cam kết quốc tế, chứ việc thi hành
lại khơng hề được đảm bảo và cịn bị giới hạn.
Vì vậy cho nên, vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối tương quan với pháp
luật cạnh tranh là điều khá mới mẻ không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với các quốc
gia khác trong khu vực.
Việc đánh giá các tác động tiêu cực của quyền sở hữu trí tuệ đối với mơi trường
cạnh tranh nhằm chỉ ra các ranh giới, ngoại lệ của việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo
quy định của pháp luật cạnh tranh cũng như giới hạn điều chỉnh của luật cạnh tranh đối với
quyền sở hữu trí tuệ là việc làm quan trọng, cần thiết nhằm khuyến khích hoạt động phát
minh- sáng tạo nhưng vẫn đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đặc biệt là trong bối
cảnh luật cạnh tranh vừa được sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn đang
trong giai đoạn hồn thiện thì việc nghiên cứu này càng có tính cấp thiết cao nhằm hồn
thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Để đạt được mục đích đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
1.
Nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa quyền sở hữu
trí tuệ và pháp luật cạnh tranh. Từ đó chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động thực thi
quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật cạnh tranh.
2.
Dựa trên quy định của pháp luật các quốc gia phát triển, có kinh nghiệm, áp
dụng hiệu quả pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ để xác định được các
nguyên tắc, giới hạn điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với quyền sở hữu trí tuệ. Cụ
thể là hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ.
3.
Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh đối với hoạt
động thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh, chỉ ra
các nội dung chưa được pháp luật giải quyết hoặc còn hạn chế nhằm đưa ra các giải pháp
hoàn thiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung luận án, tác giả xem việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ là việc chủ
sở hữu thực hiện các quyền đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ trong mối tương quan

với pháp luật cạnh tranh. Đó là việc khai thác, chuyển giao, chuyển nhượng quyền sở hữu
trí tuệ trong hệ quy chiếu của pháp luật cạnh tranh nhằm đặt ra nhu cầu điều chỉnh và giới
hạn điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với độc quyền sở hữu trí tuệ nhằm loại trừ các
hành vi lạm quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu, hướng đến bảo vệ môi trường cạnh tranh


4

lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan nhằm thúc đẩy hoạt
động nghiên cứu sáng tạo góp phần pháp triển kinh tế quốc gia.
Về nguyên tắc hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ nói chung sẽ bao gồm cả quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và giống cây trồng.
Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cụ thể và thực tiễn
thực thi các quy định của pháp luật thì các hành vi hạn chế cạnh tranh chủ yếu liên quan
đến sáng chế– đối tượng gắn liền với hoạt động thương mại của các chủ thể.
Xét trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh, thực thi quyền sở hữu trí tuệ có thể
gây ra tác động hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, trong
phạm vi luận án tác giả chỉ nghiên cứu đến tác động hạn chế cạnh tranh - điều còn bị bỏ
ngõ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời, chỉ xem xét hành vi mang tính áp đặt
đơn phương của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thơng qua việc lạm dụng quyền sở hữu trí
tuệ nhằm hạn chế cạnh tranh mà khơng đề cập đến các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Từ đó phân tích làm rõ ưu khuyết điểm của hệ thống pháp
luật hiện hành điều chỉnh đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực
sở hữu trí tuệ trong sự so sánh đối chiếu với các quy định pháp luật của các Hoa Kỳ, Châu
Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore nhằm đề xuất giải pháp để xây dựng một hệ thống
pháp luật phù hợp với mục đích vừa đảm bảo quyền của chủ sở hữu khi thực thi quyền sở
hữu trí tuệ vừa đảm bảo mơi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng.
4.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Thứ nhất, thông qua nội dung trình bày, luận án đã hệ thống được tình hình nghiên
cứu liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh. Nêu ra
được các lý thuyết nghiên cứu làm cơ sở cho việc đánh giá tác động của quyền sở hữu trí
tuệ đối với mơi trường cạnh tranh. Từ đó xác định giới hạn điều chỉnh của pháp luật cạnh
tranh đối với hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo hài hịa, cân bằng lợi
ích của chủ sở hữu tài sản sở hữu trí tuệ với mối trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng,
cơng bằng.
Thứ hai, Trên cơ sở các luận cứ khoa học đã được thừa nhận rộng rãi cũng như
thành tựu lập pháp của các quốc gia cơng nghiệp phát triển, với các phân tích, đánh giá quy
định của pháp luật có liên quan, luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật Việt
Nam về quyền sở hữu trí tuệ trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh. Đưa ra được cơ
sở lý luận để làm cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật
Thứ ba, Luận án đã đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh.


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ bản chất của mình, quyền sở hữu trí tuệ phải được xem là một quyền
tài sản và đương nhiên chủ sở hữu của quyền sở hữu trí tuệ phải có đầy đủ ba quyền năng
đối với tài sản: quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Cùng với đặc trưng khó thay thế
của quyền sở hữu trí tuệ khiến cho việc thực thi các quyền năng nêu trên làm gia tăng các
mối lo ngại liên quan đến cạnh tranh, đặc biệt trong trường hợp chủ thể lạm dụng nó để
chèn ép hoặc loại bỏ đối thủ, gây hạn chế cạnh tranh. Do đó, tơn trọng sự sáng tạo, đổi mới
cơng nghệ với bảo vệ cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi phải có sự tiếp cận cân bằng. Hay
nói cách khác việc thực quyền sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh ln có mối tương
quan, tác động qua lại lẫn nhau. Đồng thời giữa pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh
tranh địi hỏi phải có sự tương đồng, giao thoa trong quá trình điều chỉnh đối với việc thực

thi quyền sở hữu trí tuệ trên thực tế. Đó là lý do khiến cho việc thực thi quyền sở hữu trí
tuệ cần phải đặt trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh cũng như đặt ra yêu cầu cần
thiết phải có các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này nhằm đảm bảo hiệu quả
thực thi pháp luật trên thực tế.
1.1.1 Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu
trí tuệ và pháp luật cạnh tranh
Mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh là vấn đề phức tạp
và được xem xét từ nhiều năm nay tại các diễn đàn pháp lý và kinh tế. Trên thế giới, có khá
nhiều các cơng trình nghiên cứu thể hiện dưới các ấn phẩm là sách chuyên khảo, sách hướng
dẫn, các bài báo khoa học đề cập đến vấn đề nêu trên.
1.1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới
(1) Đầu tiên phải kể đến ấn phẩm của OECD (Organisation for Economic Cooperation and Development), Competition Policy and Intellectual Property Rights, cơng
bố năm 1997.
Đây có thể được xem là tài liệu đầu tiên mang tính chất tổng quát về các vấn đề liên
quan đến mới tương quan giữa chính sách cạnh tranh và quyền sở hữu trí tuệ, từ đó đề cập
đến mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ trong hệ thống pháp
luật của một số quốc gia trong tổ chức các quốc gia có nền kinh tế phát triển (OECD).
Với dung lượng 455 trang A4, tài liệu bao gồm 2 phần chính bên cạnh lời giới thiệu
tổng quan.
Phần 1 của tài liệu đề cập đến mối tương quan giữa chính sách cạnh tranh nói chung
và luật cạnh tranh nói riêng với quyền sở hữu trí tuệ trong hệ thống pháp luật của một số
các quốc gia phát triển, bao gồm: Úc, Pháp, Hungary, Italia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico,
Phần Lan, Anh, Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu.
Có thể nói đây là tài liệu mang tính phổ qt đề cập đến mối quan hệ giữa chính
sách cạnh tranh, luật cạnh tranh với quyền sở hữu trí tuệ. Bằng các cơng trình nghiên cứu
của các giáo sư đầu ngành tại các quốc gia cụ thể đã giúp người đọc có cái nhìn tổng qt


6


và sát thực hơn mối quan hệ này. Thông qua các nghiên cứu được trình bày ở phần này các
tác giả đều có chung một kết luận “…để đảm bảo sự môi trường cạnh tranh, phát triển kinh
tế nhưng không gây ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi xã hội và lợi ích của người tiêu dùng
thì việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần phải đặt trong mối tương quan với pháp luật cạnh
tranh”. Đối với các quốc gia nêu trên mối tương quan đó đã được ghi nhận và đảm bảo
thực thi trong hệ thống pháp luật bởi các quy định trực tiếp (Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu,
Nhật Bản) hay gián tiếp (Singapore, Úc…).
Phần hai của tài liệu bao gồm các bài viết độc lập của các Giáo sư với những khía
cạnh nổi bật của mối tương quan giữa chính sách cạnh tranh, luật cạnh tranh và quyền sở
hữu trí tuệ như: từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, tính cân bằng giữa quyền sở hữu
trí tuệ và cạnh tranh, các vụ việc điển hình thể hiện tính tương quan giữa luật cạnh tranh và
thực thi quyền sở hữu trí tuệ, sáng chế và độc quyền....
Có thể nói rằng với các bài viết, bài nghiên cứu độc lập liên quan đề cập đến mối
tương quan giữa chính sách cạnh tranh và luật cạnh tranh với quyền sở hữu trí tuệ thì tài
liệu này được xem là khá đầy đủ và có tính tin cậy cao. Do đó, đây là một trong những
nguồn tư liệu quan trọng mà tác giả chọn để đối chiếu, so sánh khi phân tích các quy định
của pháp luật Việt Nam nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp với hệ thống pháp luật quốc
gia đặt trong mối tương quan hội nhập quốc tế.
(2) Research Handbook On Intellectual Property And Competition Law, Edited
by Jodef Drexl Published by Edward Elgar 2008
Đây có thể xem là một trong những tài liệu nghiên cứu mang tính phổ quát về các
vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, Luật cạnh tranh và mối quan hệ giữa chúng.
Với 6 phần và 18 chuyên đề độc lập được nghiên cứu bởi các tác giả khác nhau, tài
liệu đã giúp người đọc có được cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Từ vai trị của
sáng tạo, của quyền sở hữu trí tuệ cũng như tác động của nó đối với mơi trường cạnh tranh.
Các khía cạnh pháp lý liên quan giữa quyền sở hữu trí tuệ với luật cạnh tranh (chuyển giao
cơng nghệ và giải pháp hữu ích, thỏa thuận sử dụng bằng sáng chế chung, từ chối chuyển
giao…) cũng như khung pháp lý của một số quốc gia điều chỉnh vấn đề này (Liên minh
Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản…)
Thông qua các nội dung trình bày cụ thể, tài liệu đã đưa ra khẳng định: “vai trị của

Chính sách cạnh tranh là để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong nền kinh tế. Điều đó có
nghĩa là Luật cạnh tranh cho phép các chủ thể liên quan sử dụng các biện pháp và hành vi
can thiệp nhằm đảm bảo rằng quá trình phát triển kinh tế không bị độc quyền bởi những
thành tố nhất định bằng cách khuyến khích các cơng ty mới gia nhập thị trường và cạnh
tranh với các công ty đã tồn tại trên cơ sở công bằng”.
Thông qua các nghiên cứu của mình, các tác giả cũng đã thừa nhận rằng quyền sở
hữu trí tuệ (IPRs) cho phép người nắm giữ có được độc quyền, từ đó tạo ra hiện tượng độc
quyền đối với sản phẩm hay dịch vụ được bảo hộ. Chính điều đó đã đặt ra một thách thức
cho các nhà hoạch định và thực thi chính sách của các quốc gia rằng, liệu chính sách cạnh
tranh và mục tiêu của việc thừa nhận quyền sở hữu trí tuệ có thực sự mâu thuẫn khơng hay


7

chúng cũng có thể bổ sung cho nhau. Đồng thời, liệu có biện pháp nào mà Chính phủ và
các Cơ quan cạnh tranh có thể sử dụng để có thể ban hành một cơ chế vừa cho phép những
người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ có quyền lợi độc quyền đối với các quyền sở hữu trí
tuệ nhưng sẽ khơng lạm dụng nó để tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh.
Tương tự như các tài liệu khác khi đề cập về mối tương quan giữa chính sách cạnh
tranh và chính sách khuyến khích sáng tạo, phát triển khoa học kỹ thuật, nghiên cứu trên
một lần nữa khẳng định rằng giữa chính sách cạnh tranh và chính sách khuyến khích phát
triển khoa học kỹ thuật có mối tương quan tác động lẫn nhau do đó pháp luật điều chỉnh
các vấn đề nêu trên cũng phải được đặt trong mối tương quan nhằm tạo ra sự cân bằng hợp
lý về quyền lợi của các chủ thể có liên quan. Bởi đó là điều kiện quan trọng để phát triển
nền kinh tế một cách bền vững. Đó cũng chính là nền tảng quan trọng giúp tác giả nhận
diện được sự cần thiết của nghiên cứu của mình trong bối cảnh quốc gia và quốc tế.
(3) Dr Ioannis Lianos, New Challenges In The Intersection Of Intellectual
Property Rights With Competttion Law – A View From Europe And The United States,
Centre for Law, Economics and Society CLES Faculty of Laws- UCL, CLES Working
Paper Series 4/2013

Từ góc nhìn của hệ thống pháp luật của Châu Âu và Hoa Kỳ thì có thể nói đây là
một trong những cơng trình nghiên cứu khá chi tiết về việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ
trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra các lý giải tại sao cần phải đặt việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh. Theo đó, với sự
ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới và Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) đã đặt ra yêu sửa đổi luật sở hữu trí tuệ của hầu hết
các quốc gia thành viên. Đồng thời, các lý thuyết kinh tế cũng cần phải được xem xét và
đánh giá lại nhằm chỉ ra các khía cạnh liên quan trong sự giao thoa giữa pháp luật cạnh
tranh và sở hữu trí tuệ.
Nghiên cứu một lần nữa khẳng định mối tương quan này thơng qua việc phân tích
các quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ trong hệ thống pháp luật
của Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ. Từ đó chỉ ra các khía cạnh tác động của pháp luật cạnh
tranh đối với quy định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Bởi lẽ, trong quá trình thực thi quyền sở hữu trí tuệ nếu có nguy cơ ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường cạnh tranh thông qua các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng
vị trí độc quyền thì tất cả những vụ việc ấy luôn được xem xét bởi nguyên tắc lập luận hợp
lý bằng cách đánh giá tác động tiêu cực của hoạt động đó đối với môi trường cạnh tranh và
mục tiêu phát triển khoa học cơng nghệ. Do vây, tại Hoa Kỳ đã có những văn bản nhằm
đánh giá mối tương quan này: Chính sách Nine No No’s; Hướng dẫn của Ủy ban Thương
mại công bằng về thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của
pháp luật cạnh tranh.
Cùng với cách tiếp cận của pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật của Liên minh Châu Âu
cũng có các văn bản pháp luật cụ thể nhằm chỉ ra các giới hạn cho phép của quyền độc


8

quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh đồng
thời vẫn tôn trọng các quy định riêng biệt của các quốc gia thành viên nhằm điều chỉnh mối

quan hệ này.
(4) The interface between intellectual rights and Competition policy Edited by
Steven d. Anderman (2007), Cambridge University Press
Đây được xem là một trong những cơng trình nghiên cứu được cơng bố chính thống
liên quan đến sự giao thoa giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật luật sở hữu trí tuệ.
Theo đó, chính sách cạnh tranh và quyền sở hữu trí tuệ là hai đối tượng điều chỉnh
chính của một hệ thống pháp luật. Mặc dù, mục tiêu pháp lý của chúng là như nhau khi
cùng nhằm thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do phương thức tiếp cận
và đối tượng điều chỉnh khác nhau nên thoạt nhìn giữa chúng dường như có sự xung đột
lẫn nhau khi mà một bên đang hướng đến bảo hộ sự độc quyền cho chủ sở hữu đối với các
thành quả của mình nhằm khuyến khích các chủ thể khác sáng tạo cũng như thúc đẩy họ
cơng bố các sáng tạo đó. Trong khi đó, chính sách cạnh tranh lại đang hướng đến loại bỏ
sự độc quyền nhằm xây dựng và đảm bảo một mơi trường cạnh tranh lành mạnh. Từ đó
nhóm tác giả đưa ra kết luận “Quy định của pháp luật cạnh tranh chính là kết quả của việc
đặt ra những giới hạn cho việc tự do thực hiện những quyền liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ đã được cho phép và bảo vệ bởi luật sở hữu trí tuệ”, vậy nên “quyền sở hữu trí tuệ
khơng nên và khơng được xem là độc quyền đương nhiên. Do vậy, nó sẽ không được xem
là trường hợp miễn trừ mặc nhiên của pháp luật cạnh tranh”.
(5) R Ian McEwin, Intellectual property, Competition Law and Economics in
Asia, Published by Hart Publishing, 2011
Thông qua các phần trình bày của các học giả đến từ các quốc gia khác nhau, nội
dung của tài liệu cho thấy rằng hầu như các quốc gia Châu Á đều ban hành hai luật trên
trong khoảng hai thập kỷ gần đây, trong đó cá biệt có Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc
gia ban hành và thực thi hai luật này sớm nhất ở Châu Á. Tuy nhiên, việc ban hành này
phần nhiều các quốc gia chỉ dựa vào Hiệp định TRIPs hoặc sao chép từ các nước phát triển
để phục vụ cho các mục tiêu và cam kết quốc tế, khiến cho hiệu quả thi hành còn bị giới
hạn. Trong khi đó có một thực tế rằng, các quốc gia khác nhau đang theo đuổi các mục tiêu
khác nhau liên quan đến luật cạnh tranh và sở hữu trí tuệ. Bởi vì, phần lớn các quốc gia
Châu Á là các nền kinh tế đang phát triển và vì thế, nhiều nước sẽ đặt ưu tiên vào các mục
tiêu phát triển quốc gia, do đó họ hướng đến đảm bảo tuyệt đối tính độc quyền của quyền

sở hữu trí tuệ để khuyến khích sự sáng tạo nhằm tạo ra sức mạnh kinh tế và lợi thế cạnh
tranh quốc gia. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ xảy ra các xung đột giữa
hai hệ thống pháp luật này. Do vậy, mối tương quan giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật
sở hữu trí tuệ được thể hiện khác nhau trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau.
Theo đó, mối tương quan này đã được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật cụ thể: Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore hoặc khơng có các quy định pháp luật riêng để điều chỉnh như:
Malaysia, Indonexia, Thái Lan và Việt Nam.


9

Trong đó phần đáng chú ý là phần trình bày về pháp luật Việt Nam của hai tác giả
Nguyễn Anh Tuấn và Đồn Tử Tích Phước. Thơng qua việc phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, hai tác giả đã kết
luận rằng:
“Pháp luật Việt Nam đã thất bại trong việc tạo ra một cách tiếp cận có hệ thống về
sự tương quan giữa 2 luật này. Các cơ quan thực thi của mỗi luật hầu như độc lập với nhau
nên việc thi hành cần phải thỏa hiệp trong các vụ việc liên quan. Đồng thời, cách tiếp cận
hạn hẹp theo kiểu “xin cho”, các văn bản hướng dẫn đã không thành công trong việc giải
quyết việc lạm dụng sáng chế ngày càng rộng hơn và phức tạp hơn, mà trong vài trường
hợp có thể gây ra cấp phép bắt buộc”.
Ngoài ra, tại các diễn đàn khoa học quốc tế đã thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này
khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu hợp tác, chuyển giao công nghệ ngày càng
phổ biến và mở rộng không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm
vi quốc tế với các bài báo, các hội thảo khoa học liên quan đến chủ đề này:
Hillary Greene, International issuse relating to a pro-innovation patent systerm and
Competition Law tổ chức tại Đại Học Nagoya – Nhật Bản tháng 9/2013
Atul Patel, Aurobinda Panda, Deo, Siddhartha Khettry and Sujith Philip Mathew,
Intellectual property Law and Competition Law, Journal of international commercial Law
and Technology vol. 6, issue 2 (2011)

1.1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, đã có một số tác giả quan tâm và bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này
dù không nhiều.
(1) Đầu tiên phải kể đến sách Pháp luật cạnh tranh và chuyển giao công nghệ và
hiệp định TRIPs, kinh nghiệm cho Việt Nam của tác giả Nguyễn Thanh Tú, nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia năm 2010.
Có thể nói đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu cụ thể và chi tiết mối quan hệ giữa
pháp luật cạnh tranh và sở hữu trí tuệ đặt trong mối quan hệ với Hiệp định TRIPs. Quyển
sách chính là bản dịch tiếng việt của sách tiếng anh “Competition Law, Technology
Transfer and the TRIPs Agreement: Implications for Developing Countries” của chính tác
giả với nội dung bao gồm 5 chương tập trung phân tích pháp luật cạnh tranh áp dụng trong
lĩnh vực chuyển giao công nghệ trên cơ sở các quy định linh hoạt về cạnh tranh của Hiệp
định TRIPs với hai mục đích chính. Một là, xem xét pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực
chuyển giao công nghệ quốc tế theo Hiệp định TRIPs trong mối tương quan với pháp luật
của các quốc gia đã và đang phát triển; hai là, rút ra các kinh nghiệm có thể ứng dụng cho
Việt Nam.
Có thể nói đây là cơng trình chi tiết, đầu tiên gợi mở vấn đề nghiên cứu về mối quan
hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ. Theo đó, tác giả khẳng định rằng:
việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể cần phải đặt trong mối quan hệ với pháp
luật cạnh tranh, đồng thời khơng nên xem đó như là một ngoại lệ mặc nhiên của pháp luật
cạnh tranh. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu nên tác giả chỉ nhấn mạnh đến


10

hoạt động chuyển giao công nghệ trong khuôn khổ Hiệp định TRIPs đặt trong mối quan hệ
tương quan với pháp luật cạnh tranh.
Bên cạnh đó, với rất nhiều các nội dung chi tiết, dàn trải nên nội dung của sách có
khuynh hướng thiên nhiều về mục đích trình bày, thơng tin hơn là nghiên cứu, đánh giá.
Đồng thời các quan điểm được tác giả đưa ra không gắn liền với thực tiễn xây dựng và thực

thi của pháp luật Việt Nam. Do đó, ý nghĩa thực tiễn của cơng trình đối với q trình xây
dựng và hồn thiện pháp luật tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không cao.
(2) Luận văn thạc sĩ luật học: So sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh
trong hợp đồng có liên quan đến sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam của
tác giả Cù Hồng Anh thực hiện năm 2013.
Giống như tên của luận văn, nội dung của luận văn tập trung vào các điều khoản
liên quan đến hạn chế cạnh tranh của các thỏa thuận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ
của Liên minh Châu Âu và Việt Nam. Tuy vậy, với những nội dung được trình bày cụ thể
thì luận văn mới chỉ dừng lại ở việc so sánh đơn thuần, cơ học giữa các quy định của pháp
luật Liên minh Châu Âu và Việt Nam ở một số khía cạnh như: phạm vi, đối tượng điều
chỉnh, các công cụ nhận dạng hành vi hạn chế cạnh tranh và các điều kiện miễn trừ. Do
vậy, luận văn vẫn chưa thể phân tích, làm sáng tỏ được sự giao thoa giữa pháp luật cạnh
tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ để tìm ra được điểm cân bằng, hợp lý khi áp dụng các quy
định của pháp luật liên quan đến hai khía cạnh này.
Ngồi ra cũng có một số các bài viết của các tác giả đề cập đến vấn đề nêu trên như:
(3) Th.S Nguyễn Như Quỳnh (2009), Xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của
pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học.
Với kết quả nghiên cứu được trình bày trong bài viết, tác giả đã đề cập đến mối quan
hệ giữa hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ với tự do thương mại và cạnh tranh cơng
bằng. Qua đó khẳng định rằng, quyền sở hữu trí tuệ có ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến
môi trường cạnh tranh. Bởi lẽ, “…từ góc độ quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật cạnh tranh có
thể bị coi như một cơng cụ can thiệp, vi phạm quyền của chủ thể nắm giữ quyền sở hữu trí
tuệ và do đó, tác động đến nền tảng của pháp luật sở hữu trí tuệ. Hệ quả là, pháp luật sở
hữu trí tuệ có thể gây nguy hiểm cho pháp luật cạnh trạnh và ngược lại”. Đồng thời, tác
giả cho rằng nếu như hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ tác động tới một hoặc một
số doanh nghiệp trên thị trường thì hành vi hạn chế cạnh tranh ảnh hưởng tới nhiều doanh
nghiệp trên cùng một thị trường và môi trường cạnh tranh; mức độ ảnh hưởng xấu tới cạnh
tranh của hành vi hạn chế cạnh tranh luôn lớn hơn so với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại

quốc tế có thể tồn tại dưới các dạng cơ bản sau: (i) thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; (ii) lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; (iii) tập trung kinh tế.
Hiện nay, hầu hết các nước phát triển (như Hoa Kỳ, Nhật Bản) tập trung điều chỉnh
hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, thực tế ở các
nước đang phát triển (như Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Malaysia) cho thấy rằng: hạn


11

chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ còn là vấn đề mới, chưa được quan tâm
đúng mức và chưa được giải quyết nhiều; ngược lại, các vụ việc về cạnh tranh không lành
mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến doanh nghiệp nước ngoài phát sinh
ngày càng nhiều và thu hút sự quan tâm xem xét, xử lý của các tổ chức, cá nhân liên quan.
(4) Nguyễn Thanh Tâm (2006), Thực trạng Pháp Luật Việt Nam về chống cạnh
tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền sở hữu cơng nghiệp
trong hoạt động thương mại, Tạp chí Luật học.
Thông qua bài viết tác giả khẳng định rằng: thực thi quyền sở hữu trí tuệ có thể tác
động đến cạnh tranh thông qua các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc lạm dụng vị
trí độc quyền. Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát độc quyền liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
khơng được Luật Sở hữu trí tuệ ghi nhận và điều chỉnh, trong khi đó pháp luật cạnh tranh
lại khơng có các quy định riêng biệt nhằm đảm bảo quyền độc quyền của chủ sở hữu khiến
cho hiệu quả điều chỉnh của pháp luật không cao chưa kể còn tác động tiêu cực đến hoạt
động nghiên cứu, sáng tạo và chuyển giao công nghệ của các chủ thể.
Tóm lại, dù khơng được phân tích, đề cập cụ thể về mối quan hệ giữa pháp luật cạnh
tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ nhưng cả hai bài viết nêu trên đều thừa nhận rằng hoạt
động thực thi quyền sở hữu trí tuệ có thể ảnh hưởng đến mơi trường cạnh tranh dưới hai
góc độ (1) các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; (2)
các hành vi/thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong khi đó, pháp luật hiện hành cụ thể là luật
sở hữu trí tuệ chỉ mới có các quy định cụ thể điều chỉnh đối với hành vi cạnh tranh khơng
lành mạnh cịn các hành vi/thỏa thuận hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí

tuệ sẽ được điều chỉnh bởi các quy định của Luật Cạnh tranh nói chung. Điều đó sẽ dẫn
đến nhiều hạn chế, bất cập khi mà các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ cần được xem xét và điều chỉnh khác biệt dựa trên các đặc thù vốn có của tài
sản sở hữu trí tuệ.
(5) Các tài liệu liên quan đến quá trình sửa đổi Luật Cạnh tranh 2018 (bao gồm Dự
thảo, Tờ trình Chính phủ, Báo cáo thẩm tra dự án Luật Cạnh tranh, Báo cáo giải trình, tiếp
thu, chỉnh lý dự án Luật Cạnh tranh).
Mặc dù các tài liệu trên không đề cập trực tiếp đến mối tương quan giữa quyền sở
hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh. Tuy vậy, thơng qua mục tiêu xây dựng luật cạnh tranh
cũng như nguyên tắc áp dụng pháp luật về cạnh tranh được xác định và lý giải tại các tài
liệu này sẽ giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh đối với việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối tương quan với pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam.
Từ thực tế nêu trên cho thấy việc nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề này vẫn
là một việc làm mới mẻ và cần thiết.
1.1.2 Đánh giá chung về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ
giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ
Rõ ràng nếu xuất phát từ đối tượng nghiên cứu độc lập của mình thì luật cạnh tranh
và luật sở hữu trí tuệ sẽ mâu thuẫn với nhau vì đối tượng điều chỉnh và phạm vi điều chỉnh
trái ngược nhau khi một bên đang hướng đến loại bỏ sự độc quyền trong khi bên còn lại thì


12

bảo vệ sự độc quyền cho các chủ thể. Nhưng xét đến mục tiêu chung vì phát triển kinh tế,
lợi ích của cộng đồng và xã hội thì cả hai ngành luật này lại tương đồng với nhau khi cùng
hướng đến bảo vệ năng lực cạnh tranh, phát triển của các chủ thể. Do đó, mối tương quan
giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu nói chung và quyền sở hữu trí tuệ nói riêng
là vấn đề quan trọng trong hệ thống pháp luật của một quốc gia. Vì vậy cho nên, nó được
các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm, khai thác và thực hiện các cơng trình nghiên
cứu từ khá lâu.

Pháp luật của các quốc gia có những ưu tiên và cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên,
thơng qua các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố thì các nhà nghiên cứu đã thừa nhận
một số vấn đề sau:
- Một là, với mục đích điều chỉnh và đối tượng tác động khác nhau cho nên nhìn từ
bên ngồi chúng ta dễ nhằm lẫn rằng giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ
mâu thuẫn với nhau. Tuy vậy, nếu xuất phát từ mục tiêu dài hạn thì giữa luật cạnh tranh và
luật sở hữu trí tuệ có mối quan hệ, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực
hiện quyền năng của chủ sở hữu.
- Hai là, độc quyền là vấn đề tiên quyết và quan trọng mà luật sở hữu trí tuệ cần
phải thừa nhận và bảo vệ cho các chủ thể sở hữu đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên,
đặt trong mối quan hệ với bản chất và vai trò của pháp luật đối với các khía cạnh của kinh
tế, chính trị, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác thì sự độc quyền đó khơng
phải là trường hợp ngoại lệ, đương nhiên hợp pháp theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
Do đó, nếu việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ vượt qua những giới hạn được đặt ra bởi pháp
luật cạnh tranh thì nó cần được loại bỏ ra khỏi môi trường kinh doanh.
- Ba là, hoạt động thực hiện quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu có khả năng tác
động tiêu cực đến mơi trường cạnh tranh dưới hai khía cạnh:
(1) Thiết lập các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
(2) Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có được từ quyền sở hữu trí tuệ
- Bốn là, hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ có thể được thể hiện dưới dạng là
hành vi đơn phương của chủ thể như: định giá bất hợp lý hoặc từ chối chuyển giao. Nhưng
cũng có thể được thể hiện dưới dạng các điều khoản trong hợp đồng mà ở đó với thế mạnh
độc quyền của mình chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đã tước bỏ khả năng thỏa thuận của
chủ thể còn lại: điều khoản bán kèm, yêu cầu chuyển giao ngược
- Năm là, các hành vi hạn chế cạnh tranh khi thực hiện quyền sở hữu trí tuệ thường
gắn liền với việc chuyển giao sáng chế (công nghệ).
- Sáu là, tại Việt Nam, mặc dù khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan
nhưng bước đầu, các cơng trình nghiên cứu đó đã chỉ ra được sự bất cập của việc áp dụng
Luật Cạnh tranh để điều chỉnh việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên thực tế.
1.1.3 Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến các hành vi lạm dụng quyền sở

hữu trí tuệ cụ thể theo quy định của pháp luật cạnh tranh
1.1.3.1. Trên thế giới


13

Liên quan đến điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với việc thực thi quyền sở
hữu trí tuệ, các nhà nghiên cứu pháp luật của các quốc gia trên thế giới, có khá nhiều cơng
trình nghiên cứu tương ứng với việc thực hiện các quyền cụ thể của chủ sở hữu. Có thể chia
thành hai nhóm:
Các cơng trình liên quan đến các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Các cơng trình liên quan đến hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ
Điều đó cho thấy, thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với pháp luật cạnh
tranh là một vấn đề quan trọng, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các chun gia khơng
chỉ trong q trình thực thi mà ngay cả q trình xây dựng chính sách, quy định của pháp
luật để đảm bảo hiệu quả, mục đích của việc bảo hộ của sở hữu trí tuệ và mơi trường cạnh
tranh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc gia.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ xin đề cập đến các công trình
nghiên cứu điều chỉnh đối với các hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ trong hệ quy chiếu
của pháp luật cạnh tranh. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, hành vi lạm dụng quyền
sở hữu trí tuệ có thể được thể hiện dưới dạng là hành vi đơn phương của chủ thể như: ấn
định giá bán lại, định giá bất hợp lý hoặc từ chối chuyển giao. Nhưng cũng có thể được thể
hiện dưới dạng các điều khoản trong hợp đồng mà ở đó với lợi thế của mình chủ sở hữu
quyền sở hữu trí tuệ đã tước bỏ khả năng thỏa thuận của chủ thể còn lại: điều khoản bán
kèm, yêu cầu chuyển giao ngược3.
(1)
Liên quan đến hành vi định giá bất hợp lý trong việc chuyển giao quyền
sở hữu trí tuệ
OECD (2009), Margin squeeze

OECD (1989), Predatory pricing
Christian Barthel (Faculty Of Law University of Lund), Predatory Pricing
Policy under EC and US Law, 2002
Theo đó, hành vi định giá bất hợp lý hay còn gọi là hành vi ép giá (squeeze margin)
được định nghĩa là hành vi của một doanh nghiệp có tham gia cạnh tranh trên cả thị trường
đầu nguồn (upstream market) và thị trường cuối nguồn (downstream market), và lạm dụng
vị trí thống lĩnh sẵn có trên thị trường đầu nguồn để nâng giá đến sát mức giá bán sản phẩm
trên thị trường cuối nguồn. Khách hàng tại thị trường đầu nguồn - đồng thời là đối thủ cạnh
tranh trên thị trường cuối nguồn – của doanh nghiệp đó sẽ bị thu hẹp biên độ lợi nhuận hoặc
bị loại trừ ra khỏi thị trường vì bị áp giá đầu vào quá cao nhưng phải giữ giá đầu ra ở mức
cạnh tranh.4

3

Mohamed Lahouel (University of Tunis III), Keith E. Maskus (University of Colorado), Competition Policy
and Intellectual Property Rights in Developing Countries: Interests in Unilateral Initiatives and a WTO
Agreement, September 1999
4
Đồn Tử Tích Phước, Thị trường phim chiếu rạp: Cuộc chiến bóp nghẹt lợi nhuận. Bài viết được công bố trên
trang truy cập ngày
05/6/2018


14

Trong hoạt động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, hành vi ép giá sẽ xảy ra khi
doanh nghiệp sở hữu quyền sở hữu trí tuệ định giá chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ thật
cao đối với các chủ thể muốn nhận chuyển giao (ở thị trường đầu nguồn) nhưng lại bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ phát sinh trực tiếp từ quyền sở hữu trí tuệ đó tại thì trường tiêu
thụ (thị trường cuối nguồn) với giá thật thấp. Từ đó, khiến cho các doanh nghiệp nhận

chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cũng đồng thời là khách hành của doanh nghiệp định giá
khơng có khả năng cạnh tranh về giá, bị loại bỏ ra khỏi thị trường gây ảnh hưởng đến mơi
trường cạnh tranh và lợi ích của người tiêu dùng. Chính vì vậy, hành vi ép giá được xem là
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và phải bị ngăn cấm theo quy định của pháp luật cạnh
tranh của các quốc gia. Tùy vào mục đích của chủ thể mà hành vi định giá bất hợp lý có
thể cấu thành hành vi định giá hủy diệt hoặc từ chối chuyển giao. Do đó, việc đánh giá tính
bất hợp pháp của hành vi định giá bất hợp lý sẽ được thực hiện thông qua hành vi định giá
hủy diệt hoặc từ chối chuyển giao.
(2)
Liên quan đến hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
Rita Coco (January 2008), Antitrust Liability For Refusal To License
Intellectual Property: A Comparative Analysis and the International Setting, Marquette
Intellectual Property, Law Review, volume 12 issue 1
Liguo Zhang (Jun 1, 2010), Refusal to License Intellectual Property Rights
under Article 82 EC in light of Standardization Context, European Intellectual Property
Review, Vol. 8, p. 402, 2010
Trong các bài viết của mình, dù tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau với từng trường
hợp cụ thể nhưng thơng qua các cơng trình nghiên cứu đó các tác giả đều thừa nhận rằng
điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí
tuệ là yêu cầu cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên. Tuy nhiên, hành vi từ chối
chuyển giao cũng là một quyền được pháp luật thừa nhận và bảo vệ của chủ sở hữu. Do đó,
theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, từ chối chuyển giao bản quyền là hành vi độc
quyền hợp pháp5. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp chủ sở hữu lạm dụng điều này gây
cản trở cạnh tranh. Theo kết quả thực thi pháp luật của các thành viên WIPO (Tổ chức sở
hữu trí tuệ thế giới), hành vi từ chối chuyển giao có thể được xem là một hành vi lạm quyền
khi rơi vào các trường hợp sau:
Khi hành vi từ chối nhượng quyền dẫn đến việc ngăn cản hoạt động sản xuất
các sản phẩm là thành quả của hoạt động phát minh, sáng chế
Chủ sở hữu bằng sáng chế không đưa ra được các lý do hợp pháp cho sự
ngăn cản đó

Điều này tạo ra các rào cản cho việc thiết lập và phát triển hoạt động đầu tư
và thương mại quốc gia6.

5

Jose Espinosa (2014), Unilateral Refusal To License Intellectual Property Rights - A Comparative Perspective
page 48
6
Jose Espinosa (2014), Unilateral Refusal To License Intellectual Property Rights - A Comparative Perspective
page 48


15

Vì vậy cho nên, pháp luật cạnh tranh cần đặt ra các tiêu chí nhằm xác định tính bất
hợp pháp của việc từ chối chuyển giao nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích của các chủ thể theo
nguyên tắc cân bằng lợi ích và lập luận hợp lý7.
(3)
Thỏa thuận bán kèm trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
U.S Department Of Justice Anh The Federal Trade Commission (2007),
Antitrust Enforcement And Intellectual Property Rights: Promoting Innovation And
Competition,
International Competition Network (ICN), The Unilateral Conduct Working
Group Chapter 6: Tying And Bundling, Presented At The 14th Icn Annual Conference,
Sydney- Australia April 2015
James F.Ponsoldt, Christohper D.David (2007), Comparison Between U.S
and E.U Antitrust Treatment Of Tying Claims Against Microsoft: When Should Bundling
Of Computer Software Be Permitted, Northwestern Journal Of International Law &
Business
Robert S. Bloom, Package Licensing and Post-Expiration Royalties: The

Risk of Misuse, Boston College Law Review Volume 10 - Issue 1 Number 1 Article 8
Mặc dù cách tiếp cận có thể khác nhau, nhưng tác giả của các cơng trình nghiên cứu
liên quan đến hành vi bán kèm đều khẳng định rằng: với đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ
là tính độc quyền và sự đồng bộ. Cho nên hành vi bán kèm trong hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu trí tuệ khơng mặc nhiên là vi phạm, đôi khi lại là cần thiết, có tác động tích
cực đến cạnh tranh. Bởi lẽ, trong trường hợp, nếu hai sản phẩm (sản phẩm chính và sản
phẩm bán kèm) có liên hệ với nhau theo chiều dọc, sản phẩm này là nguyên liệu của quá
trình sản xuất sản phẩm kia hoặc các sản phẩm được đính kèm, gắn liền nhau nhằm tạo
thành chất lượng của sản phẩm hoặc tính đồng bộ của dây chuyền cơng nghệ thì việc ràng
buộc đó là cần thiết nhằm duy trì hoặc gia tăng danh tiếng đối với chất lựơng, độ tin cậy
đối với hàng hóa, dịch vụ và tính ngun vẹn của cơng nghệ. Do đó, trường hợp này pháp
luật cần thừa nhận nó như một thỏa thuận cần có trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
trí tuệ. Ngược lại, nếu bên chuyển giao quyền lạm dụng điều đó nhằm đạt được vị trí độc
quyền trên thị trường, tác động tiêu cực đến mơi trường cạnh tranh thì thỏa thuận đó phải
bị nghiêm cấm.8
(4)
Liên quan đến yêu cầu chuyển giao ngược
U.S Department Of Justice And The Federal Trade Commission (2007),
Antitrust enforcement and intellectual property rights: Promoting innovation and
competition
William D. Coston (2013), The Patent-Antitrust Interface: Are There Any
No-No’s Today
7

Research Handbook On Intellectual Property And Competition Law, Published by Edward Elgar Publishing
Limited 2008
8
TS Nguyễn Thanh Tú (2010), Pháp luật cạnh tranh chuyển giao công nghệ và Hiệp định TRIPs- kinh nghiệp
cho Việt Nam, Nxb Chính Trị Quốc Gia tr189



16

Richard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent
Licensing Agreements, University of Chicago Law Review 733-748
Sol M. Linowitz- George W. F. Simmons, Antitrust Aspects of Grant Back
Clauses in License Agreements, Cornell Law Review Volume 43 Issue 2
Susan Ning, Ting Gong & Yuanshan Li1, Risks of Grant-back Provisions in
Licensing Agreements: A Warning to Patent-heavy Companies, CPI Antitrust Chronicle February 2016
Chuyển giao ngược (Grant back) là một điều khoản, theo đó bên chuyển giao có
quyền yêu cầu bên nhận chuyển giao phải chuyển lại tất cả các cải tiến công nghệ hoặc các
ứng dụng liên quan được bên nhận chuyển giao phát triển từ công nghệ được chuyển giao
trong suốt thời hạn chuyển giao.9
Dưới góc độ pháp luật sở hữu trí tuệ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ, tạo động lực thúc đẩy việc nghiên cứu, sáng tạo cũng như
đảm tính thống nhất và bí mật của cơng nghệ, pháp luật đã thừa nhận cho chủ sở hữu quyền
tự do khai thác, sử dụng cũng như định đoạt quyền sở hữu trí tuệ thơng qua phạm vi, thời
hạn bảo hộ cùng những ngoại lệ đối với đối tượng sở hữu trí tuệ. Vì vậy cho nên, giống
như các điều khoản khác được ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ.
Bên chuyển giao cũng sẽ được quyền yêu cầu bên nhận chuyển giao chuyển giao lại tất cả
các cải tiến liên quan đến công nghệ thuộc quyền sở hữu của mình trừ trường hợp yêu cầu
chuyển giao đó được thực hiện một cách miễn phí hoặc là căn cứ để ngăn cản bên nhận
chuyển giao đăng ký bảo hộ đối với các cải tiến đã được mình thực hiện trong thời hạn
chuyển giao10. Tuy nhiên, dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh, yêu cầu chuyển giao ngược
có thể bị xem là vi phạm pháp luật bởi lẽ “bên được cấp bằng sáng chế sẽ có được sự độc
quyền hợp pháp dài hơn thời hạn bảo hộ thông qua việc nắm giữ tất cả các yếu tố của sáng
chế ban đầu”11. Đó là lý do mà điều khoản chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu trí tuệ phải được xem xét, điều chỉnh bằng cả pháp luật cạnh tranh bên cạnh
các quy định của luật sở hữu trí tuệ.
1.1.3.2. Tại Việt Nam

Mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ với pháp luật
cạnh tranh là một vấn đề còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Do vậy, các cơng trình nghiên cứu
cịn khá ít ỏi và mới chỉ dừng lại ở góc độ nhận diện vấn đề cũng như xác lập các nguyên
tắc nhằm điều chỉnh cho mối tương quan này. Vậy nên, hiện nay không có cơng trình nghiên
cứu nào tại Việt Nam nghiên cứu về các khía cạnh điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối
với các hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ cụ thể của chủ sở hữu. Điều này một lần nữa
khẳng định rằng, việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu của tác giả là sự lựa chọn cần thiết có ý

9

U.S Department Of Justice And The Federal Trade Commission (2007), Antitrust enforcement and intellectual
property rights: Promoting innovation and competition, page 91
10
Điểm a, Khoản 2 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
11
Richard L. Schmalbeck, The Validity of Grant-Back Clauses in Patent Licensing Agreements, University of
Chicago Law Review 733-748 page 5


17

nghĩa khơng chỉ về mặt lý luận mà cịn về mặt thực tiễn thực thi pháp luật. Tuy nhiên, đó
cũng là một rào cản gây khó khăn cho tác giả trong quá trình thực hiện luận án.
1.1.4 Đánh giá về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến điều chỉnh của pháp
luật cạnh tranh đối với hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ
Khi nghiên cứu về q trình thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp
luật cạnh tranh, các cơng trình nghiên cứu đều thừa nhận rằng:
- Liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền
nhưng điều đó khơng đồng nghĩa với việc pháp luật cho phép họ được lạm dụng thế mạnh
đó để chèn ép đối tác, gây hạn chế cạnh tranh.

- Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện khi chủ sở hữu có dấu hiệu lạm
dụng quyền sở hữu trí tuệ thơng qua các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
hoặc thơng qua các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
- Quyền sở hữu trí tuệ không mặc nhiên mang lại sức mạnh thị trường cho chủ sở
hữu. Do đó, để xem xét xem hành vi của chủ sở hữu trí tuệ có vi phạm pháp luật cạnh tranh
hay khơng thì việc đầu tiên, các cơ quan có liên quan phải xác định xem chủ thể đó có sức
mạnh thị trường hay khơng.
- Trong mối tương quan với độc quyền sở hữu trí tuệ thì các hành vi hạn chế cạnh
tranh khi thực hiện quyền sở hữu trí tuệ cần phải được đánh giá theo nguyên tắc lập luận
hợp lý thay vì nguyên tắc vi phạm mặc nhiên.
1.2
Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích và đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh và luật sở hữu trí
tuệ thì một số quan điểm cho rằng giữa luật cạnh tranh và luật sở hữu trí tuệ có sự mâu
thuẫn với nhau. Bởi nếu luật cạnh tranh đang hướng đến loại bỏ sự độc quyền trên thị
trường thì luật sở hữu trí tuệ lại trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền đối với tài sản sở hữu
trí tuệ để nhằm mục đích ghi nhận, khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo. Tuy nhiên, trải qua thực tế thi hành thì quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện
nay đã thừa nhận rằng giữa luật cạnh tranh và luật sở hữu trí tuệ đều có một điểm chung,
giao thoa. Đó chính là cả hai hệ thống pháp luật này đều hướng đến mục đích cuối cùng là
thúc đẩy nghiên cứu, sáng tạo và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng12. Do đó, giữa chúng
khơng những khơng mâu thuẫn với nhau mà cịn hổ trợ nhau trong q trình nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, thúc đẩy lợi ích
của cộng đồng, xã hội.
Điều này cũng đã được hệ thống Tòa án của Hoa Kỳ thừa nhận rằng “mặc dù ngay
từ khi mới tiếp cận luật cạnh tranh và luật sở hữu trí tuệ có vẻ như hồn tồn trái ngược
nhau nhưng thực chất bản chất và mục đích của nó lại tương đồng nhau bởi cả hai đều
hướng tới mục tiêu khuyến khích sự sáng tạo, phát triển cơng nghiệp và cạnh tranh13”. Do
đó, trong hai hệ thống pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ sẽ phải có những quy


12
13

Department Of Justice, Antitrust And Intellectual Property, January 24, 2003 page 3
Department Of Justice, Antitrust And Intellectual Property, January 24, 2003 page 2


18

định mang tính tương quan, kết nối với nhau nhằm hạn chế sự lạm dụng độc quyền có được
từ quyền sở hữu trí tuệ để đảm bảo mơi trường cạnh tranh lành mạnh cũng như đặt ra các
quy định ngoại lệ nhằm bảo vệ yếu tố độc quyền của chủ thể. Quy định đó phải hướng đến
sự cân bằng về mặt lợi ích của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ với quyền tiếp cận các phát
minh, sáng chế, các quyền sở hữu trí tuệ khác của các cá nhân, tổ chức cũng như của cả
cộng đồng. Mối tương quan ấy được xây dựng dựa trên các cơ sở sau:
1.2.1 Lý thuyết về địn bẩy
Dưới góc độ vật lý, địn bẩy là một cơng cụ có chức năng khuếch đại một lực nhỏ
thành một lực lớn hơn. Như nhà khoa học lỗi lạc Acsimet từng nói “hãy cho tơi một điểm
tựa, tơi sẽ nâng cả trái đất”, địn bẩy có tác dụng phát huy sức mạnh của các chủ thể.
Dưới góc độ kinh doanh, người ta sử dụng thuật ngữ đòn bẩy để ám chỉ việc sử dụng
các lợi thế, thế mạnh của doanh nghiệp nhằm gia tăng khả năng sinh lợi, gia tăng lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp14. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, việc sử dụng địn
bẩy như một cơng cụ để mở rộng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể bị xem là vi
phạm theo quy định của pháp luật cạnh tranh nếu việc sử dụng đó gây ra các tác động hạn
chế cạnh tranh trên thị trường.15
Trong thực tế, đòn bẩy kinh doanh của các doanh nghiệp được tạo thành từ nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó điển hình như: địn bẩy tài chính, địn bẩy cơng nghệ, địn bẩy
tổng hợp, đòn bẩy độc quyền…Trên thực tế, việc sử dụng lý thuyết đòn bẩy trong kinh
doanh của các doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố (1) đặc điểm ngành nghề
kinh doanh 16; (2) quy mô doanh nghiệp; và (3)yếu tố cơng nghệ.

Như vậy có thể thấy rằng, yếu tố công nghệ thông qua việc nắm giữ các quyền sở
hữu trí tuệ được xem như là yếu tố quan trọng giúp chủ sở hữu đạt được sức mạnh thị
trường. Từ đó có khuynh hướng sử dụng nó như một đòn bẩy độc quyền để mở rộng sức
mạnh thị trường nhằm tối đa hóa loại nhuận có được (địn bẩy độc quyền là việc sử dụng
sức mạnh độc quyền trong một thị trường như là một công cụ gia tăng lợi thế cạnh tranh,
tạo dựng vị trí độc quyền trong thị trường thứ hai17). Tuy nhiên, điều đó có khả năng vi
phạm pháp luật cạnh tranh, bởi theo Kaplow về Lý thuyết đòn bẩy18 cho rằng: “với việc sở
hữu các bằng sáng chế thì chủ sở hữu sẽ có được lợi thế cạnh tranh hơn hẳn đối thủ và họ
sẽ sử dụng các sáng chế này như là một cơng cụ (địn bẩy) để giành ưu thế độc quyền khơng
những trên thị trường sản phẩm của họ mà cịn trên thị trường liên quan khác. Do đó, các
chủ sở hữu có khuynh hướng từ chối cấp phép quyền sử dụng các sáng chế này cho các
chủ thể khác nhằm duy trì lợi thế của mình trên thị trường. Tuy nhiên, chính điều này sẽ
GS.TS Nguyễn Thị Cành – Chủ biên dịch (2017), Quản trị tài chính – Essential of financial management, Nxb
Hồng Đức tr120
15
Tác động hạn chế cạnh tranh là tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường
Khoản 3 điều 3 Luật Cạnh tranh 2018
16
Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Cục Phát triển doanh nghiệp (2012), Chuyên đề quản trị tài chính tr50
17
Eun K. Chang (2009), Expanding Definition of Monopoly Leveraging, University of Miami Business Law
Review page 5
18
Louis Kaplow (1985), Extention of Monopoly Power Through Leverage, Colombia Law Review, vol.85: page
515
14


×