Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.5 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

ĐINH VĂN PHONG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

ĐINH VĂN PHONG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐỖ MINH KHÔI

Hà Nội, năm 2021





MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận không thể tách rời
trong cơ cấu tổ chức và trong chỉnh thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển mặc dù có sự thay
đổi về tổ chức bộ máy và thẩm quyền qua mỗi giai đoạn, nhưng hoạt động của
CQĐT Viện kiểm sát nhân dân luôn đảm bảo đúng pháp luật, khách quan, góp phần
vào cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội; trở thành công cụ sắc bén để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Sau hơn 55 năm được tổ chức và hoạt động, Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân đã thực hiện điều tra một khối lượng lớn các vụ án hình sự, góp phần
rất tích cực cho việc thực hiện chức năng công tố và kiểm sát tn theo pháp luật
nói riêng và cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên, trải
qua q trình thực hiện, mơ hình này cũng đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc như
sau: Thứ nhất, cơ cấu tổ chức của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân hiện chỉ được tổ
chức ở cấp trung ương khơng có hệ thống “chân rết”, mạng lưới cơ sở ở địa bàn
cung cấp thông tin, cộng tác viên để chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin về tội
phạm dẫn đến hệ quả việc nắm bắt thông tin tội phạm là rất hạn chế. Thứ hai, địa
bàn quản lý quá rộng trong khi lực lượng Điều tra viên còn thiếu và hạn chế về năng
lực trình độ, đối với các phịng ở khu vực đều phải thuê, mượn trụ sở làm việc; chưa
có hệ thống kho vật chứng, phịng hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự... Thứ ba, CQĐT Viện kiểm sát nhân dân không có hệ thống nhà tạm giữ do
mình quản lý. Do đó, trong q trình điều tra, khi tiến hành tạm giữ, tạm giam các
đối tượng phạm tội phải gửi các bị can ở trại giam, trại tạm giam của Bộ cơng an,
Bộ quốc phịng, điều này gây nhiều trở ngại trong việc tiến hành các hoạt động điều
tra như hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, ít có điều kiện

làm việc đột xuất nếu bị can đề nghị được khai báo, không chủ động được trong
việc đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các đối tượng phạm tội… Những tồn tại và hạn
chế nêu trên đã gây ra vướng mắc, lúng túng trong việc áp dụng pháp luật và có

1


khơng ít trường hợp chưa thống nhất trong thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, BLHS.
Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng, do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, kết quả
hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nên dẫn đến những nhận thức phiến
diện về hoạt động chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Tất cả những vấn
đề này là nguyên nhân làm giảm hiệu quả trong công tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng.
Trong bối cảnh tiếp tục thực hiện chủ trương về cải cách tư pháp theo tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" [3, tr. 5] với mục tiêu xuyên suốt là xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngành KSND
nói chung và CQĐT Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đã và đang nghiên cứu để
từng bước hướng tới sự hoàn thiện hệ thống tổ chức cả về chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền hoạt động. Đề án về tổ chức của Cơ quan điều tra cũng đã và đang được
xây dựng, hoàn thiện theo hướng xác định đúng, đủ quyền năng pháp lý nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Quá trình đổi mới hệ thống CQĐT Viện kiểm sát
nhân dân được tiến hành trong mối liên hệ với việc phân định rõ thẩm quyền quản
lý hành chính với việc đề cao trách nhiệm và bảo đảm tính độc lập của các chức
danh tư pháp trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, việc đổi mới và hoàn thiện hệ
thống CQĐT Viện kiểm sát nhân dân luôn được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với
q trình cải cách hành chính và cải cách bộ máy nhà nước nói chung.
Trước địi hỏi đó, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân là hết sức cần thiết. Vì vậy, để góp phần thực hiện vào

cơng cuộc cải cách tư pháp và triển khai thi hành Hiến pháp 2013 em đã chọn đề
tài: “Tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân ở
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
Khi nói đến CQĐT của VKSND thì bao gồm hai CQĐT là: CQĐT của
VKSND tối cao và CQĐT của VKS Quân sự trung ương, tuy nhiên trong phạm vi
hiểu biết và lĩnh vực công tác cũng như giới hạn của luận văn này tác giả chỉ đề cập
và nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua việc nghiên cứu về Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã thu
hút được sự quan tâm của các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn trên cả bình diện lý
luận cũng như thực tiễn và đã có nhiều cơng trình được cơng bố. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu về đề tài tổ chức và hoạt động Cơ quan điều tra VKSND tối cao còn khá
hạn chế, cho đến nay có một số cơng trình nghiên cứu, cụ thể như sau: "Đổi mới tổ
chức, hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới " của tác giả TS. Nguyễn Hải Phong – Phó Viện
trưởng Thường trực VKSNDTC, Tạp chí Kiểm sát, số 08/2017; “Q trình hình
thành và phát triển của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao qua các
thời kỳ” – Lại Thị Loan, Tạp chí Kiểm sát số 11 – tháng 6/2012; “Đẩy mạnh công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết công tác thực tiễn hoạt động của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” – Nguyễn Tiến
Sơn, Tạp chí kiểm sát số 11 – tháng 6/2012 ; “Địa vị pháp lý và thẩm quyền của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” – Lại Hồng Thanh, Tạp chí Kiểm sát
số 11 – tháng 6/2011; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” – Lại Viết Quang – Tạp chí
Kiểm sát số 11 – tháng 6/2013; “Một số ý kiến về tổ chức và hoạt động điều tra ở
Việt Nam” – TS. Đỗ Văn Đương – Tạp chí Kiểm sát số 13 – tháng 7/2013; “Quyền

điều tra của Viện kiểm sát và sự cần thiết phải giao trách nhiệm điều tra tội phạm
về chức vụ, tham nhũng cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” –
TS. Đỗ Văn Đương – Tài liệu tại Hội thảo khoa học Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân sửa đổi về chế định cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” Hà
Nội, ngày 25/9/2013; “Tổ chức và hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm
sát/Viện công tố ở một số nước trên thế giới – những kinh nghiệm rút ra đối với
việc đổi mới cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân” - PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
- Tài liệu tại Hội thảo khoa học Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi về chế
định cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” Hà Nội, ngày 25/9/2013;
“Đổi mới Cơ quan điều tra của viện kiểm sát trong cải cách tư pháp đang tiến hành
ở nước ta” – GS.TS Trần Ngọc Đường - Tài liệu tại Hội thảo khoa học Luật tổ chức

3


Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi về chế định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao” Hà Nội, ngày 25/9/2013; “Sự cần thiết phải tiếp tục tổ chức Cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp” – Mai Văn
Minh – Tạp chí Kiểm sát số 19 – tháng 10/2013;
Những cơng trình nghiên cứu nêu trên tuy có đề cập và đưa ra những vấn đề
vướng mắc về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao nhưng do được nghiên cứu đã lâu nên các cơng trình đó chưa thể hiện được
quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đổi mới cơ quan điều tra nói chung, Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng, theo yêu cầu của tiến trình
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu về Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện cải cách tư pháp và
xây dựng Ngành kiểm sát trong điều kiện hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ vấn đề lý luận, pháp lý về Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và kiến nghị một số giải pháp góp
phần hồn thiện tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
3.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở mục đích xác định, Luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm
vụ cơ bản như sau:
- Luận giải về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực trạng về tổ chức và hoạt
động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; chỉ ra những những hạn
chế bất cập, khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao phù hợp với hệ thống tổ chức của
Nhà nước và đặc thù của Ngành Kiểm sát.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân mà cụ
thể là về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
theo quy định của pháp luật hiện hành; kết quả hoạt động thực tiễn của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong đó tập trung từ năm 2016 đến năm
2020. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Pháp luật từ
năm 1960, sau khi ngành kiểm sát nhân dân được thành lập theo Hiến pháp năm
1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đến nay về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Đề tài nghiên cứu giải quyết những vấn đề xung quanh tổ chức, hoạt động
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật

Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá so sánh với tổ chức, hoạt động của
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân (hay Viện công tố) của một số quốc
gia trên thế giới để rút ra những tiến bộ trong lập pháp có thể vận dụng đối với Việt
Nam. Từ đó làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động, phương
hướng hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh được áp dụng nghiên cứu ở
Chương 1 của luận văn.
- Phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân tích, so sánh được sử dụng cho
những nội dung nêu trong Chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được áp dụng nghiên cứu ở Chương 3 của
luận văn.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận
về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
TTHS.
- Về thực tiễn: Luận văn là tài liệu có giá trị cho việc nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị trong luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục
vụ cho công tác đổi mới về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao theo tiến trình cải cách tư pháp.

- Những điểm mới của đề tài: Luận văn cung cấp hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn để tăng cường hiệu quả hoạt động của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối
cao nhằm đảm bảo u cầu đấu tranh, phịng chống tội phạm trong tình hình mới,
cũng như đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Nghiên cứu về tổ chức và hoạt
động của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao trên cơ sở phân tích những đặc
điểm của cơ quan này trong quá trình hình thành và phát triển từ năm 1945 đến nay,
từ đó đưa ra những đánh giá thực trạng công tác điều tra tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong
một số năm qua (những ưu điểm, hạn chế trong tổ chức và hoạt động cũng như hiệu
quả trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm). Đề ra hệ thống giải pháp
nhằm kiện toàn về tổ chức, bộ máy của Cơ quan điều tra VKSND tối cao để từng
bước mở rộng thẩm quyền điều tra theo tinh thần cải cách tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm và thẩm quyền Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân


Với chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động
điều tra; Viện kiểm sát nhân dân ngày càng có vai trị quan trọng, quyết định trong
việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội bằng nhiều biện pháp như: Thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự và trực tiếp điều tra một số loại
tội phạm, trong đó, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một trong
những bảo đảm để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát, chống oan
sai, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Có thể nói, hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví như
“quyền cơng tố nối dài” của Viện kiểm sát; không thể bảo đảm thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu khơng có hoạt động điều tra trực tiếp.
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu tranh phịng, chống
các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng thì Cơ
quan điều tra VKSND tối cao ngày càng phải được củng cố, tăng cường để bảo
đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và đáp ứng với yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Qua tìm hiểu các tài liệu khoa học pháp lý, nhất là các giáo trình giảng dạy
trong các trường đại học chuyên ngành Luật đều không đưa ra khái niệm về Cơ
quan điều tra một cách độc lập, chủ yếu định nghĩa, khái niệm về Cơ quan tiến hành
tố tụng, trong đó có Cơ quan điều tra. Để tìm hiểu và đưa ra khái niệm về Cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, trước hết phải xuất phát từ khái niệm chung về
Cơ quan điều tra trong hoạt động tố tụng hình sự .
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục Đại
học Quốc gia Hà Nội, thì:

7



Cơ quan tiến hành tố tụng là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền được
giao thực hiện chức năng tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án nhằm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền
con người, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa trên cơ sở
và trong phạm vi của pháp luật tố tụng hình sự.
Theo khái niệm này thì Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra. Tuy nhiên, cũng khơng có khái khái
niệm riêng biệt về từng cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Cơ quan điều tra mà
chỉ tập trung làm rõ về cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động điều tra, chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan điều tra.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong hệ thống của Cơ
quan điều tra nói chung nhưng có đối tượng điều tra (thẩm quyền và phạm vi thẩm
quyền) riêng biệt so với các Cơ quan điều tra khác và trực thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành có thể khái quát mang
tính quy nạp về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong hệ thống Cơ quan
điều tra của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trực thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, được tiến hành các hoạt động điều tra theo qui định của pháp
luật nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự kiện phạm
tội đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng,
chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, cơng chức
thuộc Cơ quan điều tra, Tịa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có thẩm
quyền tiến hành hoạt động tư pháp. [23, tr. 24]
1.1.2. Thẩm quyền của Cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao
Theo quy định tại Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Khoản 3 Điều 163
BLTTHS và Điều 30 Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015 quy định thẩm quyền của
CQĐT Viện kiểm sát nhân dân như sau: Cơ quan điều tra VKSND tối cao điều tra tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại
Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp


8


mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan
Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp
Theo quy định của các đạo luật mới, thì thẩm quyền của CQĐT Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tăng thêm trên các phương diện sau:
Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
được mở rộng hơn về loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 30 Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015 và
khoản 3 Điều 163 BLTTHS năm 2015 quy định: CQĐT VKSND tối cao có thẩm
quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng,
chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLHS xảy ra trong hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, cơng chức thuộc CQĐT, Tịa án, Viện
kiểm sát, cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Như vậy, CQĐT VKSND tối cao có thẩm quyền điều tra đối với tất cả các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp (gồm 24 tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại
Chương XXIV BLHS năm 2015, 14 tội về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động
tư pháp quy định tại Chương XXIII BLHS năm 2015). Theo quy định mới của pháp luật
thì thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao đã được mở rộng hơn, nhất là về loại
tội và chủ thể của tội phạm. Trong đó, thẩm quyền điều tra về các tội tham nhũng, chức
vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp là thẩm quyền mới được bổ sung trong BLTTHS năm
2015; Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã quy định CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối
cao được điều tra tất cả các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ
nhưng không phải bất cứ tội phạm nào được quy định tại Chương XXIII, Chương
XXIV cũng thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao
mà chỉ các tội phạm thỏa mãn đầy đủ ba yếu tố sau đây:

- Được quy định tại Chương XXIII, Chương XXIV của BLHS năm 2015.
- Người phạm tội là cán bộ, cơng chức thuộc CQĐT, Tịa án, Viện kiểm sát,
Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp như: người
bào chữa, người giám định, người dịch thuật, người định giá tài sản, luật sư; những

9


người trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
quy định tại khoản 2 Điều 35 BLTTHS năm 2015; người của Công an xã, phường,
thị trấn, trạm Công an, đồn Công an khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiếp
nhận tin báo, tố giác về tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 146 BLTTHS năm
2015.
- Hành vi phạm tội phải xuất phát từ hoạt động tư pháp trong quá trình thực
thi cơng vụ của các chủ thể nói trên.
Theo đó, những tội phạm tuy được quy định tại Chương XXIII, Chương
XXIV nhưng không do cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ
quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp thực hiện thì
khơng thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đối với chủ thể phạm tội (Đối tượng điều tra tăng thêm)
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2003, khoản 2 Điều 3
Luật tổ chức VKSND năm 2002, Điều 18 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm
2004, CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chỉ có thẩm quyền tiến hành điều tra
đối với chủ thể phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp (Cơ quan Cơng an,
Viện kiểm sát, Tịa án, Cơ quan thi hành án).
Theo quy định tại Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Khoản 2 Điều 30
Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015 và khoản 3 Điều 163 BLTTHS năm 2015 quy định:
CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền điều tra đối với chủ thể phạm
tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, TA, Viện kiểm sát, cơ quan THA, người có

thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân.
Như vậy, so với quy định của pháp luật trước đây, thì chủ thể phạm tội thuộc
thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao được tăng thêm rất
nhiều. Ngồi chủ thể phạm tội là cán bộ, cơng chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm
sát, Cơ quan THA, thì CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao cịn có thẩm quyền tiến
hành điều tra đối với chủ thể là người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức CQĐTHS

10


năm 2015, BLTTHS năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật thi hành án
hình sự, Luật thi hành án dân sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, thì thẩm quyền
điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với chủ thể phạm tội được
xác định đối với những những nhóm chủ thể sau đây:
Phạm vi và địa bàn điều tra được mở rộng hơn
Trước đây phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
VKSND tối cao thường chỉ diễn ra ở cấp trung ương, cấp tỉnh, huyện. Nay theo quy
định mới của pháp luật, phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của
CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao được mở rộng xuống địa bàn Công an các xã,
phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an (với trên 12.000 cơ quan, tổ chức,
gồm: Hơn 11.000 đơn vị công an cấp xã, phường và các cơ quan, cá nhân, tổ chức
khác có thẩm quyền) khi họ thực hiện việc tiếp nhận, giải quyết ban đầu tin báo, tố
giác về tội phạm theo quy định tại Điều 44 Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015;
khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015, mà có vi phạm pháp luật. Vì vậy, sẽ có rất
nhiều khó khăn về mặt địa lý cũng như yêu cầu đòi hỏi về mặt thời gian đảm bảo cho
công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thu thập dấu vết ban đầu đối
với những vụ việc do Công an xã thực hiện có vi phạm hoạt động tư pháp ở những
địa bàn xa trụ sở, vì hiện tại CQĐT khơng có hệ thống tổ chức bộ máy các phịng

nghiệp vụ ở tất cả 63 tỉnh thành, phố trên cả nước mà chỉ có ở trung ương và 5 phịng
nghiệp vụ đặt ở 5 khu vực (thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố
Yên Bái, thành phố Buôn Ma Thuột và thành phố Cần Thơ). [15, tr.21]
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân
Trong hoạt động điều tra, ở phạm vi thẩm quyền của mình, Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân được thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn để tiến hành các
hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật nói chung, các quy định của pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự nói riêng nhằm thực hiện mục đích của hoạt động điều
tra là thu nhận hình ảnh trung thực của thơng tin về các sự kiện phạm tội thông qua
những biện pháp tố tụng do luật định. Tùy thuộc vào những mục đích khác nhau và
những phương pháp tương ứng, hoạt động điều tra cho phép thu nhận được những
thông tin khác nhau về nội dung và hình thức từ chính dấu vết đó. Đồng thời, phải

11


thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của pháp luật và phải chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động điều tra của mình cũng như sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan chức năng trong hoạt động điều tra, trong đó phải kể đến sự kiểm sát
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Để thực sự góp phần củng cố, đảm
bảo việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm qua
nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân đã từng bước
được củng cố và mở rộng. Cụ thể, theo quy định tại Điều 30 Luật tổ chức cơ quan
điều tra hình sự thì nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao bao gồm 5 nhóm nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổ chức cơng tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay đến cơ quan có
thẩm quyền để giải quyết.
- Tiến hành Điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham

nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự
xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, cơng chức thuộc Cơ
quan Điều tra, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người
có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án nhân dân.
- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngồi ra, Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cịn có nhiệm
vụ tăng cường cơng tác tun truyền, giới thiệu hình ảnh cũng như chức năng,
nhiệm vụ của Cơ quan điều tra VKSND tối cao tới toàn thể quần chúng nhân dân.
Phối hợp với Tạp chí Kiểm sát xây dựng Trang thơng tin điện tử của Cơ quan điều
tra VKSND tối cao, nhằm phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

12


pháp luật của Nhà nước, hoạt động của ngành và của Cơ quan điều tra VKSND tối
cao; góp phần tuyên truyền về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức, bộ
máy và quảng bá hình ảnh của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; đồng thời để cơ
quan, tổ chức và nhân dân có thể trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm; mặt khác,
Trang thông tin điện tử là diễn đàn để cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên và những
người quan tâm có thể tra cứu, khai thác văn bản quy phạm pháp luật và trao đổi
kinh nghiệm công tác.
Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng phải không ngừng
đổi mới, nâng cao chất lượng công tác phối hợp với Viện kiểm sát các cấp và các
Cơ quan điều tra khác. Nâng cao trách nhiệm phối hợp của Thủ trưởng các đơn vị

trực thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND các cấp theo tinh thần Công văn
số 3322/VKSTC-C1 ngày 26/8/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao, theo đó, Thủ
trưởng các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND các cấp chịu
trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND tối cao về việc quản lý tình hình vi phạm,
tội phạm trong hoạt động tư pháp xảy ra trong phạm vi địa phương, đơn vị mình
quản lý và kết quả phối hợp trong việc tiếp nhận, quản lý và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
Đồng thời, chủ động phát hiện các tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền
giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, kịp thời báo cáo ban đầu theo Quy
chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành KSND cho Cơ
quan điều tra để phối hợp xử lý. [28]
Điểm mới đáng lưu ý trong quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự đó
là: Trước đây Pháp lệnh năm 2004 quy định: “Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao điều tra các vụ án hình sự về một số loại tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tồ án nhân dân”, nhưng khơng có quy định cụ thể
“một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp” là những tội nào, các cơ quan nào là cơ
quan tư pháp, do đó gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xác định thẩm
quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như Cơ quan điều

13


tra Viện kiểm sát quân sự trung ương. Khắc phục bất cập này, Luật tổ chức cơ quan
điều tra hình sự đã quy định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiến
hành điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức
vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong
hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm

quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử
của Tịa án nhân dân. Điều này cũng bảo đảm đồng bộ với quy định tại Điều 20 của
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, theo đó khi người phạm tội là cán bộ, cơng
chức thuộc Cơ quan điều tra, Tịa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án,
người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp trong khi tiến hành hoạt động tư
pháp theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan mà phạm tội xâm
phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ thì thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát quân sự trung ương.
Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng phải kiến nghị với
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh tội phạm. Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội là vấn đề cần
phải chứng minh trong vụ án hình sự mới được quy định trong BLTTHS năm 2015,
thơng qua đó, Cơ quan điều tra VKSND tối cao kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu
quan xử lý và phòng ngừa tội phạm. Trong những năm qua, Cơ quan điều tra
VKSND tối cao đã thực hiện tốt công tác này, thông qua kết quả kiểm tra, xác minh
và điều tra vụ án hình sự đã ban hành trung bình mỗi năm khoảng 80 văn bản kiến
nghị gửi cơ quan tư pháp các cấp và cơ quan, đơn vị hữu quan khác. Đồng thời, tổ
chức nghiên cứu, tổng hợp các dạng vi phạm điển hình, kiến nghị cơ quan tư pháp
trung ương phòng ngừa vi phạm, tội phạm trong toàn hệ thống. Kiến nghị với cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện làm
phát sinh tội phạm.
Như vậy, Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 đã quy định rất rõ nhiệm vụ
của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, trong thời gian tới, bên cạnh thực hiện có

14


hiệu quả nhiệm vụ điều tra vụ án theo thẩm quyền, Cơ quan điều tra VKSND tối
cao phải thực hiện tốt các nhiệm vụ mới được giao, gồm: Trực ban hình sự, kiến

nghị xử lý và phịng ngừa vi phạm, tội phạm, tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và điều tra vụ án hình sự, giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
1.3. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 42 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Điều 4 Luật Tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 xác định CQĐT Viện kiểm sát nhân dân
tối cao là một trong những cơ quan điều tra chuyên trách, được tổ chức ở cấp trung
ương, trực thuộc VKSND tối cao, trụ sở chính tại Hà Nội, có Đại diện Thường trực
Cơ quan điều tra và các phòng nghiệp vụ đặt tại các khu vực do Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quyết định thành lập, Cơ quan điều tra có con dấu và tài
khoản riêng, tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước. Với cơ cấu tổ chức, bộ máy hiện
nay được thành lập theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (ban hành kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1
ngày 28/5/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) vừa đảm bảo việc
phát hiện và phân loại xử lý thông tin tội phạm được kịp thời, chính xác, việc điều
tra xử lý tội phạm đảm bảo thời hạn tố tụng, vừa bảo đảm hoạt động độc lập, chỉ
huy thống nhất của Thủ trưởng CQĐT và chỉ đạo kịp thời của Viện trưởng VKSND
tối cao.
1.3.1. Lãnh đạo Cơ quan điều tra
Điều 91 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; Điều 57 Luật tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự 2015 và Điều 5, Điều 6, Điều 7 Quy chế tổ chức và
hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao quy định, Lãnh đạo Cơ quan điều
tra gồm: Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
Trong đó, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức. Như vậy, có thể thấy CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan được
tổ chức theo mơ hình chế độ Thủ trưởng nhằm bảo đảm sự chỉ đạo, chỉ huy tập
trung thống nhất, hiệu lực, hiệu quả; phân công, phân cấp rành mạch, chuyên sâu,

15



tránh chồng chéo và được kiểm soát chặt chẽ. Theo đó, cá nhân chịu trách nhiệm
trước cấp trên và trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Cụ thể: (i) Thủ
trưởng Cơ quan điều tra chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao trong quản lý, chỉ đạo, điều hành về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra. Phân công công việc, ủy quyền cho các Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cho
lãnh đạo Phòng thuộc Cơ quan điều tra thực hiện các công việc cụ thể theo quy định
của pháp luật, quy định, quy chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quy định,
quy chế của Cơ quan điều tra (ii) Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được Thủ trưởng
Cơ quan điều tra phân công phụ trách một số lĩnh vực và địa bàn khu vực được
phân cơng; phụ trách một số phịng nghiệp vụ và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn của Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật và theo sự phân
công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra; chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, trước pháp luật về những quyết định của mình. Khi Thủ trưởng Cơ quan
điều tra điều chỉnh sự phân công giữa các Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra thì các
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải bàn giao nội dung công việc, hồ sơ, tài liệu
liên quan cho nhau và báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra.(iii) Việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức và cấp, thu hồi Giấy chứng nhận Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan Điều tra trong Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quy định (iv) Điều tra viên cao cấp hoặc Điều tra viên
trung cấp có năng lực tổ chức, chỉ đạo hoạt động Điều tra thì có thể được bổ nhiệm
làm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra.
1.3.2. Tổ chức, bộ máy
Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự
năm 2015 xác định tổ chức, bộ máy Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao gồm có các phịng Điều tra và bộ máy giúp việc. Nhằm cụ thể hóa quy đinh của
Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và tăng cường hơn nữa hiệu quả
công tác điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày
28/5/2019, Viện trưởng VKSND tối cao đã ký Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1

ban hành kèm theo Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSND tối cao, theo
đó quy định tên gọi, phạm vi hoạt động và nhiệm vụ của 10 phòng nghiệp vụ trực

16


thuộc CQĐT VKSNDTC; đổi tên Phòng Tham mưu, tổng hợp thành Văn phòng
CQĐT để phù hợp với Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015. Cụ thể, tại khoản 2, khoản
3, khoản 4, khoản 5 Điều 5; Điều 8 Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quy định như sau:
Về Đại diện Thường trực Cơ quan điều tra gồm có:
- Đại diện Thường trực Cơ quan điều tra tại các tỉnh miền Trung - Tây
Nguyên đặt tại thành phố Đà Nẵng, phụ trách, quản lý Phòng 4, Phòng 9;
- Đại diện Thường trực Cơ quan điều tra tại các tỉnh miền Nam đặt tại thành
phố Hồ Chí Minh, phụ trách, quản lý Phịng 5, Phòng 10.
Đại diện Thường trực Cơ quan điều tra do một Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra phụ trách, giúp Thủ trưởng Cơ quan điều tra tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Cơ quan điều tra tại địa bàn khu vực được phân công. Tiếp nhận, thu thập
các nguồn tin về tội phạm tại địa bàn khu vực được phân cơng, chuyển giao cho
Văn phịng Cơ quan điều tra trình Lãnh đạo Cơ quan điều tra xem xét, quyết định.
Các đại diện thường trực quản lý, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cơng chức, người lao
động và tài sản phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hình sự, vũ khí, cơng cụ hỗ trợ
để phục vụ cho hoạt động của Cơ quan điều tra.
Hiện nay, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có 10 phịng
hoạt động trên phạm vi cả nước bao gồm:
Phòng Tiếp nhận, thu thập, quản lý và xử lý nguồn tin về tội phạm (Phòng
1);
Văn phòng Cơ quan điều tra (Phòng 2);
Phòng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền Bắc (Phòng 3);
Phòng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền Trung (Phòng 4);

Phòng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền Đông Nam bộ (Phòng 5);
Phòng Điều tra tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư
pháp (Phòng 6);
Phòng Kỹ thuật hình sự (Phịng 7);
Phịng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền núi phía Bắc (Phịng 8);
Phòng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh Tây Nguyên (Phòng 9);

17


Phòng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền Tây Nam bộ (Phịng 10).
Trong các phịng có các Đội nghiệp vụ do Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết
định. Việc thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các phòng trực thuộc Cơ quan
điều tra do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định trên cơ sở đề
nghị của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ.
1.3.3. Công chức và người lao động
Từ năm 2003 do có sự thu hẹp đầu mối theo hướng tinh gọn bộ máy, để đáp
ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới và đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống
nhất trong Ngành, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và các văn bản
hướng dẫn đã có những quy định chi tiết về cơ cấu thành phần của CQĐT Viện
kiểm sát nhân dân tối cao bao gồm các quy định về chỉ tiêu, biên chế, số lượng ,
tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh cũng như cách thức bổ nhiệm các chức danh
trong CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Theo quy định tại khoản 2 điều 93 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy
định: “số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi có ý kiến của Chính phủ.”
“Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định biên chế, số lượng
Kiểm sát viên, công chức khác, viên chức và người lao động khác của các đơn vị
trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân cấp

dưới.”
Để cụ thể hóa quy định trên tại Khoản 6 Điều 5 Quy chế tổ chức và hoạt động
của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định: “Biên chế của Cơ quan điều tra
thuộc biên chế công chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra và
thẩm định của Vụ Tổ chức cán bộ”
Về biên chế, theo Nghị quyết 522e/2012/NQ-QH13 ngày 26/7/2012 của Quốc
hội thì biên chế của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao được quy định là 185 biên
chế, 35 Điều tra viên cao cấp. Theo chủ trương tinh giản biên chế (theo Quyết định số
190/QĐ-VKSTC ngày 14/5/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao về điều chỉnh biên

18


chế năm 2019 của ngành Kiểm sát nhân dân) đến nay, CQĐT Viện kiểm sát nhân dân
tối cao giảm, còn 170 biên chế (Trong đó cơng chức làm chun mơn nghiệp vụ điều
tra 146/170; công chức làm chuyên môn khác 24/170).
Theo quy định tại Điều 19, Điều 42, Điều 43 Quy chế tổ chức và hoạt động
của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì cơng chức và người lao động CQĐT
VKSNDTC thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo lĩnh vực chuyên môn được lãnh
đạo Cơ quan điều tra, lãnh đạo phịng phân cơng và chịu trách nhiệm về hành vi và
việc tham mưu đề xuất của mình. Thực hiện các quy định của pháp luật về công
chức hoặc chế độ hợp đồng lao động.
Lãnh đạo Cơ quan điều tra tiếp nhận công chức; điều động, phân công trong nội
bộ Cơ quan điều tra với công chức theo quy định đảm bảo đúng cơ cấu công chức và
lãnh đạo cấp phòng; Xây dựng quy hoạch, đề nghị bổ nhiệm các chức danh quản lý,
lãnh đạo trong Cơ quan điều tra, đề xuất chỉ tiêu biên chế báo cáo lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tối cao phê duyệt. Chịu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá trình độ
chun mơn nghiệp vụ của những người được đề nghị tiếp nhận. Đề xuất, kiến nghị
việc đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật

và thực hiện chính sách đối với công chức trong Cơ quan điều tra. Cử người hướng
dẫn tập sự đối với người tập sự trong Cơ quan điều tra; nhận xét, đánh giá kết quả
tập sự và đề nghị quyết định bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc hủy bỏ quyết định
tuyển dụng.
Việc quản lý công chức và người lao động của Cơ quan điều tra thực hiện
theo quy định của pháp luật và quy định của ngành Kiểm sát nhân dân. Mọi công
chức và người lao động Cơ quan điều tra phải chấp hành nghiêm kỷ luật nghiệp vụ
và kỷ luật lao động, đảm bảo hiệu quả, năng suất, chất lượng công tác.
Công chức và người lao động của Cơ quan điều tra được mời tham gia
những hoạt động chung của cơ quan hoặc của các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, nếu không thuộc phạm vi nhiệm vụ của Cơ quan điều tra phải được sự
đồng ý của lãnh đạo Cơ quan điều tra.

19


1.4. Hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
1.4.1. Nguyên tắc hoạt động
Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nói chung và hoạt động điều tra của
CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng là hoạt động của CQĐT chun
trách, có tính chun nghiệp; đồng thời là công cụ sắc bén trong quá trình thực hiện
chức năng thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát. Do vậy, để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của Luật tổ chức Cơ
quan điều tra hình sự năm 2015 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác thì
hoạt động của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng phải tuân thủ các nguyên
tắc nhất định được quy định tại Điều 4 Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT
Viện kiểm sát nhân dân tối cao Ban hành kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1
ngày 28/5/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao như sau:
Mọi hoạt động của Cơ quan điều tra phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
quy định, quy chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thủ trưởng Cơ quan điều tra chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trong quản lý, chỉ đạo, điều hành về tổ chức và hoạt động của
Cơ quan điều tra.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, các phòng, đội nghiệp vụ,
Điều tra viên, Cán bộ điều tra, công chức khác và người lao động phải thực hiện
đúng nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.
Hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra thuộc
thẩm quyền của Cơ quan điều tra chịu sự kiểm sát của Vụ Thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra
trong hoạt động tư pháp (Vụ 6) Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đảm bảo tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết công việc theo đúng
quy định của pháp luật, các quy định, quy chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
chương trình, kế hoạch, lịch làm việc và Quy chế làm việc, trừ trường hợp đột xuất
hoặc có yêu cầu khác của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

20


Bảo đảm phát huy năng lực và sở trường của công chức, người lao động,
tăng cường sự phối hợp công tác, trao đổi thông tin trong giải quyết công việc theo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
Bảo đảm dân chủ, minh bạch trong tổ chức và hoạt động gắn với thực hiện
chủ trương cải cách hành chính, cải cách cơng vụ, cơng chức của Đảng, Nhà nước
và của ngành Kiểm sát nhân dân.
1.4.2. Đặc thù về hoạt động
Hoạt động điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp của CQĐT Viện kiểm sát nhân
dân tối cao là một hoạt động điều tra đặc thù như của CQĐT trong CAND, Quân
đội nhân dân. Với vị trí pháp lý là một đơn vị nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao có trách
nhiệm phối hợp với các đơn vị khác trong ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện chức

năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến
pháp năm 2013; Luật Tổ chức VKSND năm 2014. CQĐT Viện kiểm sát nhân dân
tối cao còn phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền điều tra theo quy định
tại Điều 30 Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015. Hoạt động điều tra của CQĐT Viện
kiểm sát nhân dân tối cao mang tính đặc thù cao, khác biệt so với cán bộ, công chức
nhà nước thông thường [15, tr. 16], cụ thể:
- Về thời gian thực hiện nhiệm vụ: CQĐT không phải là cơ quan hành chính
làm việc theo Bộ luật lao động, mà do u cầu cơng việc, ngồi việc Điều tra viên,
Cán bộ điều tra phải thực hiện theo giờ hành chính cịn phải trực ban hình sự 24/24
giờ và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, khi có sự việc xảy ra phải thực hiện nhiệm
vụ ngay, hoạt động ngồi giờ hành chính hoặc ngày nghỉ, ngày lễ. Hoạt động điều tra
mang tính chủ động, tính chiến đấu, khi nhận được tin báo, tố giác tội phạm thuộc
thẩm quyền là phải phân công Điều tra viên kịp thời đến tận nơi xảy ra để thực hiện
nhiệm vụ (VD: Khám nghiệm hiện trường, tử thi, thu thập dấu vết, chứng cứ, khám
xét khẩn cấp, bắt, giữ đối tượng… (có thể gây nguy hại đến sức khỏe và tính mạng
Điều tra viên).
- Phạm vi hoạt động điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao không
giới hạn về địa hạt hành chính và lĩnh vực hoạt động (trong từng lĩnh vực, địa bàn, từng

21


khâu công tác nghiệp vụ như các đơn vị nghiệp vụ Kiểm sát) mà trải rộng khắp cả
nước (Bắc, Trung, Nam) có thể là nước ngồi, với rất nhiều lĩnh vực hoạt động chun
mơn nghiệp vụ (Hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động, giam
giữ, thi hành án…), do đó việc đi lại gặp khó khăn, tốn kém.
- Để khám phá tìm ra tội phạm, người phạm tội, CQĐT phải áp dụng mọi biện
pháp theo luật định, trong đó có biện pháp trinh sát, mua thơng tin, sử dụng mạng lưới cơ
sở, nằm vùng để theo dõi, thu thập dấu vết, nguồn chứng cứ…
- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Ngoài việc đào tạo đội ngũ Điều

tra viên, Cán bộ điều tra nắm vững các quy định của pháp luật, có trình độ chun
mơn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị như các Cơ quan hành chính và các cơ
quan tiến hành tố tụng khác như: Cơng an, Tịa án, Thi hành án. CQĐT VKSND tối
cao còn phải đào tạo chuyên sâu về hoạt động thực tiễn đối với tất cả các hoạt động
tố tụng theo quy định của BLTTHS: Tổ chức thực hiện khám nghiệm hiện trường;
khám nghiệm tử thi; thực nghiệm điều tra; thu thập dấu vết; chụp ảnh, quay phim;
ghi âm, ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,
người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan đến vụ án; sử dụng vũ khí,
cơng cụ hỗ trợ khi tác nghiệp các hoạt động điều tra trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam bị can chống đối, gây thương vong, thiệt hại đến tài sản nhà nước và công
dân…và rất nhiều các hoạt động thực tiễn cần thiết phải đào tạo (cầm tay chỉ việc)
cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra thì mới đáp ứng được yêu cầu địi hỏi của tính
chất hoạt động điều tra mang tính đặc thù của CQĐT VKSND tối cao theo quy định
của các đạo luật mới.
Để tổ chức được một khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra hình sự cho
Điều tra viên, Cán bộ điều tra, CQĐT phải liên hệ ký hợp đồng đào tạo, giảng dạy
với các trường đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành, các cơ quan chức năng chuyên
môn, như: Học viện Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Phịng
giám định kỹ thuật hình sự - Bộ quốc phịng, Phịng giám định hình sự - Bộ Công
an, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội; các nhà khoa học, các nhà
thực tiễn có kinh nghiệm trong hoạt động điều tra để truyền đạt lý luận cũng như
kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động điều tra; ngồi ra cịn phải chuẩn bị các phương

22


×