Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

GDQP 11 cap cuu chuyen thuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.13 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đào Mai Linh Lớp:11A2</b>



<b>KĨ THUẬT CẤP CỨU VÀ CHUYỂN THƯƠNG</b>
<b>I.Cầm máu tạm thời :</b>


“ cầm máu tạm thời ngay sau khi bị thương, việc sơ cứu thường do nạn
nhân tự làm hoặc do những người xung quanh làm “


a. Ấn động mạch :


Dùng các ngón tay ấn, đè trên đường đi của động mạch, làm động mạch
bị ép chặt giữa ngón tay ấn & Xương


à Máu ngừng chảy ngay lập tức


( Phương pháp này có tác dụng cầm máu nhanh, ít gây đau & không gây
nguy hiểm cho người bị thương nhưng đòi hỏi phải là người có kiến
thức về giải phẫu )


* 1 số điểm ấn động mạch :


- Ấn động mạch trụ & quay ở cổ tay


- Ấn động mạch cánh tay ở mặt trong cánh tay
- Ấn động mạch dưới đòn ở hõm xương đòn
b. Gấp chi tối đa :


Gấp chi tối đa là biện pháp cầm máu đơn giản, mọi người đều có thể
làm được. Khi chi bị gấp mạnh các mạch máu bị đè lại bởi các Cơ
bao quanh làm máu ngừng chảy



( biện pháp này chỉ là giải pháp tạm thời vì không giữ được lâu.
Trường hợp gãy xương thì không được gấp chi )


- Gấp cẳng tay vao cánh tay : khi cần giữ lâu để vận chuyển thì cần cố
định vài vòng băng ghì chặt cổ tay vào phần trên cánh tay


- Gấp cánh tay vào thân người có con chèn : khi thấy máu chảy ở động mạch cánh tay lấy ngay 1 khúc gỗ tròn
đường kính 5 – 10cm, kẹp vao nách ở phía trên chỗ chảy máu, rồi cố định cánh tay vào thân người


c. Băng ép :


Là phương pháp băng vết thương với các vòng băng xiết tương đối
chặt, đè ép mạnh vào bộ phận bị tổn thương, tạo điều kiện nhanh chóng cho
việc hinfht hành các cục máu làm máu ngừng chảy ra ngoài


* Cách tiến hành băng ép :


- Đặt 1 lớp gạc & bông hút phủ kín vết thương
- Đặt 1 lớp bông mỡ dày phủ lên trên lớp gạc


- Băng theo kiểu vòng xoắn hoặc băng số 8 ( nên dùng loại băng thun vì
loại bang này có tính chun giãn tốt )


d. Băng chèn :


Băng chèn là kiểu băng đè ép giống như ấn động mạch, nhưng không phải
bằng ngón tay mà bằng vật cứng tròn, nhẵn không sắc cạnh gọi là con
chèn. Con chèn được đặt vào đường đi của động mạch, càng sát vết thương
càng tốt, sau đó cố định con chèn bằng nhiều vòng băng tương đối chặt.
e. Garo :



Là biện pháp cầm máu tạm thời bằng sợi dây cao su, xoắn chặt vào đoạn chi làm ngưng sự lưu thông máu
từ phía trên xuống phía dưới của chi


à Làm cho máu xẽ không chảy ra ở miệng vết thương
* Chỉ được garo trong 1 số trường hợp sau :


- Vết thương bị cắt cụt tự nhiên


- Vết thương phần mềm or gãy xương kèm theo tổn thương động mạch mà các biện pháp cầm máu khác
không có hiệu quả


- Bị rắn độc cắn
* Nguyên tắc Garo :


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Người bị đặt Garo phải nhanh chóng được chuyển về các tuyến cứu chữa, trên đường vận chuyển cứ 1 giờ
nới lỏng Garo 1 lần, không để Garo lâu 3 – 4 giờ


* Cách Garo : dây Garo thường dùng sợi dây cao su to, mỏng & có tính đàn hồi tốt
* Thứ tự Garo như sau :


- Ấn động mạch phía dưới vết thương
- Lót vải gạc chỗ định Garo


- Đặt dây Garo rồi từ từ xoắn, vừa xoắn vừa bỏ tay ấn động mạch ra, theo dõi thấy máu không chảy ở vết
thương là được


<b>II. CỐ ĐỊNH TẠM THỜI XƯƠNG GÃY :</b>


Kĩ thuật cố định tạm thời một số trường hợp xương gãy.


Cố định tạm thời xương bàn tay gãy, khớp cổ tay.


Cố đinh tạm thời xương cẳng tay gãy.
Cố định tạm thời xương cánh tay gãy.
Cố định tạm thời xương cẳng chân gãy.
Cố định tạm thời xương đùi gãy.


Đối với vết thương gãy xương hở, trước hết phải cầm máu,băng kín sau đó mới đặt nẹp cố định xương gãy.
*Cố định tạm thời xương bàn tay gãy (dùng nẹp tre to bản hoặc nẹp crame)


Đặt một cuộn băng hoặc một cuộn bông vào lòng bàn tay, để bàn tay
ở tư thế nửa sấp, các ngón tay nửa sấp.Đặt nẹp thẳng từ bàn tay đến
khuỷu tay.


Băng cố định tay, cẳng tay vào nẹp, để hở các đầu ngón tay để tiện
theo dõi sự lưu thông máu.


Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 90o


*Cố định tạm thời xương cẳng tay gãy (dùng hai nẹp tre hoặc nẹp crame):


Đặt nẹp ngắn ở mặt trước cẳng tay(phía lòng bàn tay) từ bàn tay đến
nếp khuỷu.


Đặt nẹp dài ở mặt sau cẳng tay (phía mu bàn tay) từ khớp ngón tay
đến mỏm khuỷu.


Buộc một đoạn ở cổ tay và bàn tay, một đoạn ở trên và dưới nếp
khuỷu để cố định cẳng tay, bàn tay vào nẹp.



Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 90o
*Cố định tạm thời xương cánh tay gãy


(dùng hai nẹp tre hoặc nẹp Crame)


Đặt nẹp ngắn ở mặt trong cánh tay từ nếp khuỷu đến hố nách.
Đặt nẹp dài ở mặt ngoài cánh tay từ mỏm khuỷu đến mỏm vai.


Buộc một đoạn ở một phần ba trên cánh tay và khớp vai, một đoạn ở trên
và dưới nếp khuỷu để cố định cánh tay vào nẹp.


Dùng băng tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 90o và
cuốn vài vòng băng buộc cánh tay vào thân người.


Nẹp tre
* Cố định tạm thời xương cẳng chân gãy
(dùng hai nẹp tre hoặc nẹp Crame)


Đặt hai nẹp ở mặt trong và mặt ngoài cẳng chân,từ gót đến giữa đùi,
Đặt bông đệm vào các đầu xương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

*Cố định tạm thời xương đùi gãy (dùng hai nẹp tre hoặc ba nẹp Crame)


Đặt nẹp sau từ ngang thắt lưng đến
gót chân.


Đặt nẹp ngoài từ hố nách đến gót chân.
Đặt nẹp trong từ nếp bẹn đến gót chân.
Dùng bông đệm lót các đầu xương.
Buộc một đoạn ở cổ chân hoặc



bàn chân, một đoạn ở trên và dưới gối,


một đoạn ở bẹn, một đoạn ở ngang thắt lưng, một đoạn
ở ngang hố nách để cố định chi gãy vào nẹp.


Buộc chi gãy đã cố định vào chi lành ở cổ chân,gối và
đùi trước khi vận chuyển (vận chuyển bằng cáng cứng)


<b>III. HÔ HẤP NHÂN TẠO : </b>
Các phương pháp hô hấp nhân tạo


- Phương pháp thổi ngạt và ép tim ngoài lòng ngực: là phương pháp dễ làm đem lại hiệu quả cao. Cần một
người hoặc có thể hai người làm.


+ Thổi ngạt:


Để nạn nhân nằm ngữa, kê một chiếc gối, chăn, màn ...dưới gáy cho đầu hơi ngữa về sau.


Người cấp cứu quỳ bên phải sát ngang vai người bị nạn, dùng một ngón tay cuốn miếng gạc, hoặc vải
sạch đưa vào trong miệng người bị nạn lau sạch đờm dãi, các chất nôn,...


Dùng một tay bóp kín hai bên mũi, một tay đẩy mạnh cằm cho miệng há ra, hít một hơi thật dài, áp miệng
mình vào miệng nạn nhân, thổi. Làm liên tục với nhịp độ 15 – 20 lần/phút.


+ Ép tim ngoài lồng ngực:


Ÿ Người cấp cứu quỳ bên phải ngang thắt lưng người bị nạn.


Ÿ Đặt bàn tay phải chồng lên bàn tay trái, các ngón tay xen kẻ nhau, đè lên 1/3 dưới xương ức, các ngón


tay chếch sang bên trái.


Ÿ Ép mạnh bằng sức nặng của cơ thể xuống xương ức của người bị nạn với một lực vừa đủ để lồng ngực
lún xuống 2-3 cm. Với trẻ nhỏ lực ép nhẹ hơn.


Sau mỗi lần ép thả lỏng tay cho ngực trở lại vị trí bình thường. Duy trì với nhịp độ 50 -60 lần/phút.Ÿ
Ÿ Trong trường hợp chỉ có một người làm nên duy trì 2 lần thổi ngạt, 15 lần ép tim.


Trường hợp có hai người làm, người thổi ngạt quỳ bên trái, người ép tim quỳ bên phải người bị nạn và duy trì
1 lần thổi ngạt, 5 lần ép tim.


Làm liên tục cho đến khi người bị nạn tự thở được, tim đập lại thì dừng.
- Phương pháp Sylveter:


+ Người bị nạn nằm ngữa, đầu quay về một bên có chăn hoạc gối đệm dưới lưng.
+ Người cấp cứu quỳ ở phía đầu, nắm chặt lấy hai cổ tay người bị nạn.


+ Thì thở ra: Đưa hai cẳng tay người bị nạn gập vào trước ngực, người cấp cứu hơi nhổm về trước, tay duỗi
thẳng ép mạnh để làm cho không khí ở trong phổi ra ngoài.


+ Thì hít vào: Người cấp cứu ngồi xuống đồng thời kéo hai cổ tay người bị nạn dang rộng ra tới chạm đầu
rồi lại đưa về tư thế ban đầu làm cho không khí ở bên ngoài
vào trong phổi.


+ Làm với nhịp độ 10 -12 lần/phút


* Những điểm chú ý khi làm hô hấp nhân tạo


- Làm càng sớm càng tốt , kiên nhẫn cho đến khi nạn nhân



thở được. Thông thường làm trong thời gian 40 – 60 phút,
không có hiệu quả thì dừng.


- Làm đúng nguyên tắc, lực đủ mạnh, giữ nhịp đều đặn


mới thực sự hữu hiệu.


- Làm tại chổ thông thoáng, nhưng cũng không làm ở chổ giá lạnh


- Không được làm hô hấp nhân tạo cho người bị nhiểm chất độc hóa học, bị sức ép, bị thương ở ngực, gãy
xương sườn và tổn thương cột sống.


- Tuyệt đối không được chuyển người ngạt thở về các tuyến sau, khi nạn nhân chưa tự thở được.
* Tiến triển của việc cấp cứu ngạt thở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hô hấp dần dần hồi phục, người bị nạn nấc và bắt đầu thở, nhip thở lúc đầu ngập ngừng, không đều và vẫn
tiếp tục hô hấp nhân tạo theo nhịp thở của người bị nạn cho đến khi thở đều, thở sâu, môi và sắc mặt hồng
trở lại.


b. Tiến triển xấu


Chỉ ngưng hô hấp nhân tạo khi người bị nạn có các dấu hiệu sau:
- Xuất hiện các mãng tím tái trên da ở những chổ thấp.
- Nhãn cầu mềm và nhiệt độ hậu môn dưới 250C.


- Bắt đầu có hiện tượng cứng đơ của xác chết.
<b>IV. Kỹ thuật chuyển thương : </b>


1. Mang vác bằng tay :



Mang vác bằng tay thường do 1 người làm vì vậy thường không di chuyển được xa. Có thể vận dụng 1 số ky
thuật sau :


- Bế nạn nhân
- Cõng trên lưng


- Dìu ( áp dụng với người bị thương nhẹ )
- Vác trên vai


2. Chuyển nạn nhân bằng cáng :


Ky thuật cáng thương :
- Đặt nạn nhân lên cáng


- Luồn đòn cáng & buộc dây cáng ( nếu là cáng
vóng )


- Với người bị gãy xương đùi, tổn thương cột
sống phải đặt 1 khung tre vào trong cáng
võng, tùy theo cáng gãy


- Ky thuật cáng thương :


+ mỗi người cáng cần có 1 gậy dài 1.4 – 1.5m có
chạc trên đầu để đỡ đòn cáng khi nghỉ or đổi vai


+ khi đi trên đường phải giữ tốc độ đều nhau, người trước báo cho người sau nhưng chỗ khó đi


+ khi di chuyển trên đường dốc cần phải cố giữ thăng bằng lên dốc đầu đi trước, xuống dốc đầu đi sau
<b>KỸ THUẬT SƠ CẤP CỨU VẾT THƯƠNG</b>



Hai điều ghi nhớ:


1. Tất cả vết thương đều nhiễm trùng: Vi trùng xâm nhập vào vết thương, có thể gây ra những hậu quả tai
hại. Vì vậy tất cả những vết thương đều phải được săn sóc dù chỉ là một vết thương nhỏ.


2. Vi trùng sinh sản rất nhanh: Vì thế các vết thương cần phải được săn sóc ngay càng sớm càng tốt.


Như vậy, sự săn sóc đầu tiên của người cứu thương có tầm mức quan trọng cho việc bình phục vết thương
sau này.


Sự vô trùng: là tình trạng của một vật mà trên đó không có vi trùng. Thí dụ: dụng cụ y khoa đã được khử
trùng bằng lò hấp. Người cứu thương khó thực hiện việc băng bó trong điều kiện hoàn toàn vô trùng. Tuy
nhiên, càng sạch chừng nào càng tốt chừng nấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Hành động của người cứu thương sẽ tùy thuộc vào vết thương nặng hay nhẹ. Vết thương nhẹ là những vết
thương trầy trụa, hay xây xát ngoài da. Ngoài ra các vết thương khác được xem là nặng.


Cách săn sóc một vết thương:
· Chuẩn bị vật dụng.


· Rửa sạch hai tay.
· Khử trùng dụng cụ.
· Săn sóc vết thương.


· Săn sóc vết thương do phỏng


<i>Người cứu thương phải thành thạo cách săn sóc một vết thương nhẹ, vì họ thường gặp nhất trong các tai</i>
<i>nạn thường ngày.</i>



<b>CHUẨN BỊ VẬT DỤNG</b>


1. 1 tấm vải dầy (cạnh 50x50cm) để trải ra khi làm việc cho sạch sẽ.
2. Gạc 5x10cm đựng trong hộp hay trong bao kín đã khử trùng.


3. Bông gòn thấm nước cắt thành từng ô để sẵn trong hộp kim khí đã khử trùng.


4. Bông gòn không thấm nước đã khử trùng và còn nguyên trong bao, khi cần dùng sẽ cắt theo ý muốn.
5. Một hộp kim khí đựng dụng cụ: 1 kéo đầu tròn, 2 kẹp.


6. Thuốc sát trùng để rửa vết thương:
7. Xà phòng nước.


8. Dung dịch Dakin hay nước ôxy già, hai loại này rất dễ bay hơi.
9. Thuốc đỏ.


10. Cồn 900 (chỉ dùng để khử trùng dụng cụ)


11. Băng keo dài bề ngang 2cm, hay băng cá nhân loại ở thân băng có sẵn thuốc sát trùng.
12. Vài cuộn băng: chiều ngang 5,7 hay 10cm.


<i>13. Kim băng.</i>


<b>RỬA SẠCH HAITAY</b>


Cắt ngắn móng tay. Dùng bàn chải và xà phòng chà xát từ bàn tay đến khủy tay trong 10 phút rồi rửa sạch
với nước và không được lau tay. Xoa hai tay với cồn 900 và để khô.


<b>KHỬ TRÙNG DỤNG CỤ</b>



Chỉ có 2 cách khử trùng tuyệt đối dụng cụ: đó là chưng và hấp khô dùng trong phẩu thuật. Tuy cách chỉ dưới
đây không khử trùng tuyệt đối, nhưng cũng đủ dùng trong lúc cấp cứu: nấu sôi, đốt nóng, hay nhúng vào cồn.
1. Đun sôi: phải đun sôi khoảng 20 phút.


2. Đốt nóng: để dụng cụ vào trong một cái mâm kim loại (hay nắp hộp) với một ít cồn 900 rồi châm lửa.
Chờ cho nguội lại rồi mới xử dụng.


<i>3. Nhúng dụng cụ và ngâm thường xuyên trong cồn 900.</i>
<b>SĂN SÓC VẾT THƯƠNG</b>


1. Rửa vết thương từ trong ra ngoài, và chung quanh vết thương bằng thuốc sát trùng.
2. a Cạo, cắt tóc, hay lông cho thật sạch.


3. Lấy ngoại vật thấy rõ ra.
4. Cắt bỏ da lòng thòng bằng kéo.


5. Nếu vết thương chảy máu, ta đắp gạc có tẩm ôxy già.


6. Khi vết thương đã sạch và khô, ta bôi thuốc sát trùng. Tránh dùng hỗn hợp nhiều loại thuốc, có thể gây
phản ứng, nguy hiểm.


7. Nếu có thể được, nên để trần vết thương. Những vết thương xây xát chút ít không nên băng lại. Ta chỉ
băng vết thương bị chảy máu hay rỉ nước.


8. Băng vết thương bằng cách đắp gạc rồi dùng băng keo dán lại. Nếu vết thương chảy máu hay cần che chở
đầy đủ, ta đắp thêm một lớp bông gòn thấm nước rồi một lớp bông không thấm nước sau đó băng lại.


9. Thay băng: Cách 3 hay 4 ngày ta thay băng một lần. Nếu vết thương chảy máu hay làm mủ, mỗi ngày ta
thay băng 1 hay 2 lần. Lúc mở băng nên cẩn thận: nên thấm ôxy già hay Dakin trước rồi mới gỡ miếng gạc
ra khỏi vết thương.



<i>10. Phải xem chừng vết thương: nếu vài hơm sau có dấu hiệu làm độc (đỏ, sưng, nhức, nóng) ta phải mời Y sĩ</i>
<i>đến.</i>


Vết thương nặng là những vết thương:
· Rộng (cần khâu lại).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

· Dính ngoại vật (đất, cát, mảnh kim loại…).


· Bầm dập (mô bị dập nát là chỗ cho vi trùng sinh sống).
· Phức tạp (gãy xương, xuất huyết).


· Làm độc.


<i>· Ở nơi nguy hiểm (mặt, ngón tay, xoang).</i>


Cấp cứu khi đứng trước một vết thương nặng: Người cứu thương không được sờ mó vào vết thương nặng.
Hành động của họ là tóm tắt trong ba công việc: Bao bọc, làm phiếu, tải thương. Chỉ có y sĩ mới có thẩm quyền
săn sóc vết thương nặng.


1. Bao bọc vết thương bằng vải thưa vô trùng, nếu có, hay vải sạch - Thực dụng nhất là băng cá nhân, băng
này được làm sẵn để cấp cứu, (ngoài ra người cứu thương cần lưu ý để ngăn chận xuất huyết động mạch
trầm trọng hay bó im xương gãy)


2. Cài 1 tấm phiếu vào áo nạn nhân trong đó ghi tên họ nạn nhân, tính chất, giờ và độ khẩn của vết thương.
<i>3. Di chuyển ngay nạn nhân đến bệnh viện gần nhất, không được chần chờ, vì họ có thể chết vì kích xúc</i>


<i>(chock) hay nhiễm trùng.</i>
<b>Vài trường hợp đặc biệt:</b>



Người cứu thương phải biết hành động khi gặp trường hợp vết thương ở ngực hay ở bụng.
I. Vết thương ngực:


Nạn nhân bị vết thương ở trước ngực hay lưng có thể chết vì ngưng thở nếu người ta để đầu thấp. Sau khi
băng kín vết thương, nạn nhân được tải thương theo tư thế nửa nằm, nửa ngồi hay nằm nghiêng về phía vết
thương, đầu cao (xem phần thế nằm của nạn nhân)..


Nếu vết thương thủng phổi (không khí ở phổi thoát ra bằng vết thương), ta phải bịt chỗ thủng ngay, bằng
cách dùng nhiều miếng gạc (compresse) phủ vải hay nylon ở ngoài rồi dùng băng keo hay băng 3 đuôi giữ chặt.
Nếu không có vật dụng ta có thể dùng khăn tay hay bàn tay giữ chặt lại.


II. Vết thương ở bụng:


Nếu lòi ruột ra ngoài, không nên tìm cách nhét vào. Bao bọc bằng vải sạch (không nên dùng compresse).
Lúc tải thương để đầu nạn nhân thấp, chân co lên.


Nếu dao vật nhọn, còn nằm tại chỗ, ta nên để nguyên, không được tìm cách lấy ra.
<b>NÊN NHỚ:</b> Vết thương ở ngực và bụng thường hay gây ra nội xuất huyết.


<b>HIỂU BIẾT VÀ CHĂM SÓC CÁC VẾT PHỎNG</b>
Phỏng do nhiều nguyên-nhân:


· Sức nóng (vật rắn, lỏng hay hơi rất nóng hoặc do sự bốc cháy).
· Ánh nắng mặt trời.


· Hóa chất (A-xít, ba-dờ…).
· Điện.


<i>· Tia ngoại tuyến.</i>



<i>Những sự cọ sát như mang giày chật cũng tạo ra những vết thương như phỏng.</i>
<i>Thế nào là phỏng nặng: Một vết phỏng là nặng nếu: rộng lớn, hoặc sâu.</i>
Một vết phỏng dù nhỏ cũng được coi là nặng:


· Khi ở vài nơi trên cơ-thể: nhiễm độc ở mông trẻ em, ở bàn tay những chỗ nếp gấp, ở mặt, hoặc ngộp thở
dần dần bởi hít phải khí nóng làm cháy đường hô-hấp.


· Khi bị bẩn.


<i>· Khi nạn-nhân yếu: Trẻ em, người già, người bệnh kinh niên (nghiện rượu, tiểu đường,...)</i>
Người ta phân biệt 3 độ phỏng như sau:


· Phỏng độ 1: da bị đỏ, bị phỏng nắng.


· Phỏng độ 2: da nổi lên một hay nhiều bong bóng nước.


· Phỏng độ 3: da bị cháy hay gây tổn-thương tới lớp mỡ, thần kinh, bắp thịt, mạch máu hay xương.


Phỏng độ 2 và 3 được kể là những vết thương. Sự nguy-hiểm là vì nhiễm độc. Vết phỏng nào cũng sạch
(không có vi trùng) lúc xảy ra, nhưng sẽ bị nhiễm trùng rất nhanh nếu ta không cẩn thận. Người cứu thương
không nên bôi thuốc hay pommade vào vết phỏng.


Hậu quả toàn thể: đó là phỏng sẽ gây ra tình trạng sốc. Đối với người cứu-thương đầu tiên phải tránh làm
tình trạng này trầm trọng hơn.


<i>Nạn nhân thường khát nước. Nếu họ không bị vết thương khác, hay ói mửa, người cứu thương có thể cho họ</i>
<i>uống một ít nước ấm hay nước đường. Rượu tuyệt đối cấm.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Người cứu thương phải phân biệt:
· Phỏng thường (nhẹ) có thể trị tại chỗ.


<i>· Phỏng nặng: phải mang vào bệnh viện.</i>
1) Phỏng Nhẹ


a) Vết phỏng độ 1 và nhỏ, thí dụ: vết đỏ vì nắng trên một diện tích nhỏ. Ta rắc bột khử trùng (Talc
stérile) và nên canh chừng nạn-nhân trong 24 giờ đồng hồ.


b) Vết-thương phỏng độ 2 rất nhỏ: bằng một đồng bạc chì, phỏng bởi đầu thuốc lá, vì đi giày chật.


Vết phỏng dễ bị nhiễm trùng nếu ta làm bể mộng nước (bong bóng nước), ta nên bôi thuốc đỏ lên bong bóng
nước và xung quanh, rồi dùng compresse vô trùng đắp lên.


Nếu bong bóng nước đã bể, ta chữa như vết thương thường: rữa tay sạch, bôi thuốc đỏ, cắt những chỗ da
cháy, bôi thuốc đỏ, đắp compresse rồi dán băng keo để tránh đụng chạm và làm bẩn vết thương.


Sau 48 giờ, tháo băng ra, bôi thuốc đỏ và để trần vết thương.
<i>Nếu có dấu hiệu làm độc ta phải mời y sĩ.</i>


2) Phỏng Nặng


Người cứu-thương hành động như đứng trước vết thương nặng:
- Băng vô trùng, nếu được, hoặc bao bọc nạn nhân bằng vải sạch.
- Khi di chuyển đến bệnh viện: quấn chăn, để nằm dài, đầu thấp.


Khi nạn nhân chưa được quấn chăn, không nên sờ mó vào trên chỗ bị phỏng.


Nếu quần áo cháy: cuốn nạn nhân bằng chăn hay lăn dưới đất. Tránh dùng bình cứu hỏa.
Chỉ nên cởi quần áo nạn nhân trong hai trường hợp:


- Quần áo đang thấm nước sôi (dội nước lạnh ngay, chỉ trong trường hợp này người ta không được cởi lớp
vải cuối cùng, lớp tiếp xúc với da).



- Quần áo hay quần áo lót bằng sợi tổng hợp tiếp tục cháy âm ỉ (nhiều khi không có ngọn lửa).
Những chỗ hở: bàn tay bàn chân bị phỏng nước sôi; đổ nước lạnh ngay.


<i>Lưu ý: không bao được đổ nước lên chất hóa chất cháy (xăng, dầu hỏa, rượu) ta dập tắt bằng cát hay bình</i>
<i>chữa lửa (cẩn thận tránh xịt vào mặt nạn nhân hay người khác)</i>


3) Phỏng Do Hóa Chất


- Phỏng A-xít (acide sulfuric, clorhyric, nitric…): Rửa bằng nước xà bông (savon) hay nước pha bicarbonate
de soude (1 muỗng biacarbonate de soude trong 1 lít nước)


- Phỏng Ba-dờ (soude, potasse, vôi sống): ta rửa bằng nước dấm.


Nói chung: dội ngay thật nhiều nước, băng vô trùng di chuyển ngay đến bệnh viện gần nhất.


<i>Khi hóa chất văng vào mắt: rửa ngay bằng dòng nước cho chảy ngay vào mắt (được giữ cho mở ra) rồi đưa</i>
<i>đến bác sĩ chuyên khoa mắt hay bệnh-viện.</i>


<b>Sơ cứu bỏng</b>


- Đặt nạn nhân nằm trên tấm drap sạch, chỗ bị bỏng ở phía trên. Nếu trẻ đang bị cháy, dập tắt lửa càng mau
càng tốt:


- Hắt nước lên người trẻ để dập tắt ngọn lửa nếu có sẵn xô nước.


- Chụp kín trẻ bằng tấm vải hay mền (không dùng nilông vì sẽ cháy) và lăn trên nền đất, làm như vậy sẽ hạn
chế oxy gặp lửa nên lửa sẽ tắt.


- Cởi bỏ quần áo bị cháy, bị dính hóa chất, nước nóng…



- Làm mát ngay vùng bị bỏng để không cho nhiệt gây tổn thương thêm da bằng cách giội nước lạnh lên vết
thương liên tục khoảng 10 phút.


- Đắp lên vết bỏng bằng băng, gạc hoặc vải sạch không có lông tơ để tránh nhiễm trùng. Nếu không có sẵn
băng gạc, bạn có thể dùng túi nhựa bao vùng bị bỏng ở tay chân lại.


- Nếu vết bỏng rộng và trẻ không nôn mửa, hãy cho trẻ uống nước để thay thế phần dịch mất qua vết bỏng.
- Nếu vết bỏng nhỏ, bỏng nông độ 1, luôn quan sát vết bỏng ít nhất 24-48 giờ để phát hiện dấu hiệu nhiễm
trùng: đỏ, sưng, đau. Nếu có thì nên đến cơ sở y tế.


- Nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế nếu có các dấu hiệu nguy hiểm như: ngất xỉu, bất tỉnh, tay chân
lạnh, khó thở; bỏng diện rộng trên 1/10 diện tích cơ thể, bỏng sâu hoặc bỏng vùng mặt vì nạn nhân có thể bị
mất một lượng lớn dịch tiết qua vết bỏng gây thiếu dịch đưa đến sốc bỏng.


<b>Chú ý:</b>


- Khi bị bỏng ở vùng mặt, trong miệng thường gây sưng, nghẽn đường thở làm khó thở, cần nhanh chóng
đưa nạn nhân đến cơ sở y tế để cấp cứu kịp thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

- Trấn an nạn nhân


- Làm nguội vết bỏng và giảm đau cho nạn nhân
- Hô hấp nhân tạo nếu cần thiết


- Hạn chế khả năng nhiễm trùng
- Đưa nạn nhân đến cơ sở y tế
<b>Những việc cần tránh:</b>


- Đừng bóc đi phần da chết hoặc làm bể các vết bỏng bọng nước do bỏng gây nên vì có thể gây nhiễm


trùng vết bỏng.


- Đừng dùng đá lạnh hoặc bôi bất cứ thuốc pommade hay mỡ, hóa chất nào lên vết bỏng.


- Không dùng các loại băng bằng bông có lông tơ mịn hoặc các băng dính dán lên vùng bị bỏng.
<b>Phịng ngừa bỏng:</b>


<b>KHƠNG:</b>


. Dùng loại bình gas nhỏ (bếp gas mini)
. Châm thêm dầu, alcool khi đang cháy
. Chơi lửa, gần bếp, đống un khói


. Ðể bình thủy, nồi nước sôi… , chai hóa chất trong tầm với của trẻ
<b>Điện giật</b>


Cách sơ cứu:


- Ngắt dòng điện bằng cách rút dây điện hoặc ngắt cầu chì.


- Nếu không thể ngắt được dòng điện, dùng vật không dẫn điện như chổi, ghế, tấm drap hay thảm chùi chân
để đẩy nạn nhân ra khỏi nguồn điện.


- Nếu nạn nhân bất tỉnh, nhanh chóng kiểm tra nhịp thở, mạch đập của nạn nhân, nếu ngưng thở ngưng tim
thì gọi ngay cấp cứu và tiến hành hô hấp nhân tạo.


- Nếu có vết bỏng do điện: cởi bỏ quần áo và rửa vùng bị bỏng dưới vòi nước lạnh cho tới khi cơn đau dịu
xuống rồi băng lại bằng băng, gạc không có lông tơ.


- Nhanh chóng đưa nạn nhân tới cơ sở y tế


<b>Chú ý:</b>


- Trong trường hợp điện cao thế hoặc trung thế: không đến gần nạn nhân cho tới khi biết chắc nguồn điện đã
bị ngắt. Đứng cách xa ít nhất 18m và không cho những người đứng xem lại gần.


- Dấu hiệu đưa đi bệnh viện:
. Bất tỉnh, chóng mặt


. Khó thở


. Vết bỏng do điện sâu.
<b>Những việc cần tránh</b>


- Chạm tay trực tiếp kéo nạn nhân ra trong khi nguồn điện chưa bị ngắt.
- Nếu có vết bỏng:


. Đừng bóc đi phần da chết hoặc làm bể các vết bỏng giộp.
. Đừng dùng đá lạnh, kem đánh răng hoặc mỡ bôi vào vết bỏng.
Phòng ngừa


. An toàn mắc điện


. An toàn sử dụng điện: giày dép khô, bút điện...
. Không để dụng cụ điện, ổ cắm ngang tầm tay trẻ.
. Bịt kín các ổ điện khi không sử dụng.


<b>CẦN BIẾT KHI SƠ CỨU NẠN NHÂN</b>


TTO - Trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi chúng ta gặp phải trường hợp nạn nhân bị chấn thương hoặc bị
ngưng thở, ngưng tim vì một lý do nào đó. Trước khi đội cấp cứu chuyên nghiệp đến, bạn có thể duy trì sự sống


cho nạn nhân hay giúp đỡ nạn nhân bằng những đợng tác sơ cứu.


<b>HƠ HẤP NHÂN TẠO</b>


Hơ hấp nhân tạo là động tác sơ cứu nhằm cung cấp oxy cho não và các cơ quan quan trọng khác trong khi
chờ đợi sự điều trị tích cực từ đội cấp cứu chuyên nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Bạn cần xác định nạn nhân tỉnh hay mê bằng cách lay gọi, hỏi thật to. Nếu nạn nhân mê bạn gọi ngay cấp
cứu hoặc nhờ ai đó gọi. Nhưng nếu bạn chỉ có một mình và nạn nhân từ 1-8 tuổi thì nên thực hiện hô hấp nhân
tạo trong hai phút trước khi gọi cấp cứu.


Bạn thực hiện các bước ABC sau:


Airway (thông đường thở): đặt nạn nhân trên nền cứng, quì cạnh cổ và vai bệnh nhân. Mở đường thở
của nạn nhân bằng thủ thuật ngửa đầu nâng cằm. Kiểm tra bệnh nhân có thở bằng cách nghe hơi thở, nhìn lồng
ngực di động. Nếu nạn nhân không thở thực hiện ngay giúp thở miệng - miệng hoặc miệng - mũi.


Breathing (thở): giúp thở miệng - mũi. Thực hiện cái đầu tiên và nhìn xem lồng ngực bệnh nhân có phồng
lên? Nếu không thực hiện tiếp cái thứ hai sau khi mở đường thở bằng thủ thuật ngửa đầu và nâng cằm. Sau đó
thực hiện ép ngực.


Circulation (giúp máu lưu thông): ấn ngực đi xuống 3,8-5cm (1.5 -2 inches). Ấn hai lần/giây hoặc 100
lần/phút. Khi bạn làm động tác này sẽ giúp tim bơm máu đi để đưa máu đến não và các cơ quan quan trọng
khác.


Sau 30 lần ấn ngực bạn làm thủ thuật ngửa đầu, nâng cằm bệnh nhân để thổi hơi. Thổi hai hơi liên tiếp. Bịt
mũi nạn nhân, thổi một hơi trong một giây, xem lồng ngực có phồng lên? Nếu có, thổi tiếp hơi thứ hai, nếu
không ngửa đầu nạn nhân và thổi hơi thứ hai. Mỗi chu kì gồm 30 lần ấn ngực và hai lần thổi hơi.


Nếu sau hai phút nạn nhân vẫn không cử động bạn nên tiếp tục hà hơi thổi ngạt cho đến khi đội cấp cứu


chuyên


Phương pháp cấp cứu người bị ngạt còn có 2 cách :đặt nạn nhân nằm ngửa và nằm sấp.


-Phương pháp nằm ngử: Trước tiên ta đặt nạn nhân nơi thoáng mát, nới lỏng quần áo, dùng tay móc sạch
rãi,đờm trong mồm nạn nhân để thông đường thở.Sau đó tiến hành "hà hơi thổi ngạt" và kết hợp ép tim lồng
ngực.Nếu có 2 người thì một người ngồi bên tiến hành hà hơi thổi ngạt,người kia quỳ 2 đầu gối kẹp sát bụng
nạn nhân ép tim lồng ngực đồng thời mở và khép 2 cánh tay nhạn nhân để giúp lồng ngực được mở.Phương
pháp này có ưu điểm là dể thực hiện.


-Phương pháp nằm sấp: Cũng đặt nạn nhân nơi thoáng mát và nới lỏng quần áo.sau đó người cứu quỳ trên
lưng nạn nhân dùng tay ấn vào hoành cách mô và kéo lên theo nhịp thở.Cử tiếp tục như thế cho đến khi nào nạn
nhân thở lại bình thường.Phương pháp này hiệu quả hơn phương pháp nằm sấp.Có ưu điểm là :ngăn không cho
chất rãi chảy vào trong làm tắt khí quản.


<b>Khi gặp một trường hợp đuối nước chúng ta cần tiến hành các bước sơ cứu sau:</b>


<i><b>1. Đối với người lớn và trẻ lớn:</b></i>


Khi thấy một người đang hốt hoảng trên mặt nước hãy nhanh chóng thảy cho họ bất cứ thứ gì có thể giúp họ
bám vào và nổi lên được. Nếu chỉ có một mình và 2 tay khơng, nếu khơng phải là một nhân viên cấp cứu
nhiều kinh nghiệm thì bơi ra cứu nạn nhân là điều rất mạo hiểm dù là một tay bơi giỏi vì trong cơn hoảng loạn
cực độ, nạn nhân thường có khuynh hướng vùng vẫy, níu kéo rất chặt gây khó khăn cho người cấp cứu và có
nguy cơ làm chết đuối ln cả hai. Nên ném cho nạn nhân một phao nổi trước cho nạn nhân bám vào, sau đó
mới cho nạn nhân bám vào ngưới cứu hộ.


Tại nơi xảy ra tai nạn: cấp cứu ngay ở dưới nước, nắm tóc kéo đầu nạn nhân nhơ lên khỏi mặt nước, tát mấy
cái thật mạnh vào má nạn nhân để gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại. Nhanh chóng quàng tay qua nách, hoặc
kêu thêm người hỗ trợ đưa nạn nhân vào bờ. Cấp cứu tại chỗ là quan trọng nhất, quyết định sự sống còn của
nạn nhân, nếu xử trí chậm, nạn nhân bị thiếu ôxy não rất khó cứu sống sau đó.



Khi đưa được nạn nhân lên bờ hay lên thuyền phải tiến hành ngay hô hấp nhân tạo, hà hơi thổi ngạt: khai
thông đường hô hấp bằng cách đặt nạn nhân nằm ưỡn cổ nghiêng sang một bên, dùng gạc hay khăn vải móc
đờm dãi, dị vật khỏi đường thở và miệng nạn nhân; đặt một khăn mùi soa hay miếng gạc qua miệng nạn
nhân, dùng hai ngón tay cái và trỏ bịt mũi nạn nhân rồi thổi hơi trực tiếp vào miệng nạn nhân. Nếu ngừng tim
(sờ mạch quay khơng có) phải ép tim ngoài lồng ngực. Dùng hai tay chồng lên nhau ép lên lồng ngực ngoài
tim, tần số ép khoảng 100 lần/1 phút.


- Nếu có một người cấp cứu thì thổi ngạt 2 - 3 hơi lại ép tim ngoài lồng ngực 10 - 15 nhịp.


- Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt, một người ép tim ngoài lồng ngực, làm kiên trì cho đến
khi tim đập và thở trở lại.


Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư thế an toàn, đầu nằm nghiêng, kê gối dưới
hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân khơng bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Chỉ bỏ cuộc khi đã hô
hấp nhân tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.


<b>2. Đối với trẻ nhỏ:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đặt trẻ nằm ở chỗ khơ ráo, thống khí. Nếu trẻ bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có cịn thở khơng bằng cách quan
sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là trẻ đã ngưng thở; thổi ngạt miệng qua
miệng 2 cái chậm. Nếu sau đó trẻ vẫn chưa thở lại được hoặc cịn tím tái và hơn mê thì xem như tim đã
ngưng đập, cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:


- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 đốt ngón tay (tức
khoảng bằng bề ngang một ngón tay).


- Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8 tuổi và người
lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 đốt ngón tay. Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8
tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi).



Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này trên đường chuyển trẻ tới cơ sở y tế, cho
đến khi tự thở lại được hoặc chắc chắn đã chết. Việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn.
Nếu lồng ngực còn di động tức là trẻ còn tự thở được, hãy đặt trẻ nằm ở tư thế an toàn, nghĩa là nằm nghiêng
một bên để nếu nơn ói thì chất nơn dễ dàng thốt ra ngồi và khơng trào ngược vào phổi, gây viêm phổi.
Dưới đây là hình ảnh minh họa các bước sơ cứu trước khi đưa trẻ đến cơ sở y tế:


Đặt trẻ nằm nghiêng Dùng 2 ngón tay ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối 2 đầu vú


- Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân
vẫn cịn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi
phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp
cứu. Quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho nạn
nhân.


- Trường hợp nạn nhân đã ngừng thở, ngừng tim thì nhanh chóng dốc
ngược đầu nạn nhân cho nước trong đường thở thoát ra hết; sau đó đặt
nạn nhân trên mặt phẳng cứng, ngửa cổ nạn nhân ra sau, móc hết đàm
nhớt, dị vật trong miệng nạn nhân ra, một tay đặt lên trán nạn nhân, bịt mũi
nạn nhân bằng ngón trỏ và ngón cái, sau đó hít sâu, áp miệng người cấp cứu vào miệng nạn nhân thổi 2 hơi
đầy; để lồng ngực tự xẹp và thổi tiếp lần thứ hai. Thực hiện cho đến khi nạn nhân thở được hoặc có xe cấp
cứu đến.


Nếu nạn nhân bị ngưng tim nên tiến hành xoa bóp tim ngồi lồng ngực song song với hơ hấp nhân tạo.
Những việc cần chú ý trong quá trình cấp cứu đưối nước


- Không được chậm trể trong cấp cứu người bị đuối nước: tìm cách gọi xe cấp cứu, tìm cho được và đầy đủ
các phương tiện cấp cứu . v.v... mà phải bằng mọi cách và khả năng hiểu biết cấp cứu ngay


- Khơng nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân


chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi
mà chỉ cần chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết rồi! Trong q trình hồi sức cấp cứu tim phổi, nước
trong phổi sẽ tự động thốt ra ngồi. Nếu là nước sơng, hồ thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do
hiện tượng thẩm thấu (nước sơng có nồng độ lỗng hơn máu).


- Khi làm xoa bóp tim ngồi lồng ngực, cần chú ý khơng q mạnh bạo vì có thể làm gãy xương sườn nạn
nhân, nhất là trẻ nhỏ.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×