Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn quận 1, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.37 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VÕ PHƯƠNG QUỲNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VÕ PHƯƠNG QUỲNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ BÍ BO

HÀ NỘI, NĂM 2021




LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh
tế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó có thành
phần hộ kinh doanh cũng có vai trị đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển
kinh tế của cả nước.
Từ thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội Quận 1 giai đoạn 2015 – 2019,
mặc dù có những dấu hiệu tăng trưởng tích cực với những chương trình hỗ
trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, HKD được phát huy hiệu quả giúp
các thành phần kinh tế ổn định và phát triển sản xuất, kinh doanh... nhưng quy
định pháp luật về quản lý nhà nước đối với HKD vẫn còn nhiều bất cập, chưa
có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể về hoạt động của HKD như DN nên có
phần nào ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa
phương về lĩnh vực kinh tế, chưa thể phát huy hết hiệu quả của các loại hình
kinh tế trên địa bàn. Trong khi đó, với đặc trưng mơ hình hoạt động của HKD
nhỏ, lẻ, ít chi phí, có khả năng duy trì hoạt động và phát triển tốt, nhất là
những trường hợp cá thể khởi nghiệp với nhiều sáng kiến độc đáo, đa dạng,
tập trung ở lĩnh vực thương mại – dịch vụ, góp phần phát triển kinh tế Quận 1
nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung; mức đóng góp ngân sách nhà
nước tăng hàng năm và vượt dự toán thu ngân sách nhà nước được giao theo
pháp lệnh.
Việc tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn quy định
pháp luật về công tác quản lý nhà nước đối với HKD trong phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Quận 1 nhằm đưa ra quan điểm và giải pháp thích hợp bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả của quy định pháp luật trong việc quản lý hoạt động
của thành phần kinh tế này, phát huy được giá trị thực chất, đáp ứng nhu cầu

1



phát triển kinh tế - xã hội của Quận 1 nói riêng, Thành phố Hồ Chí Minh nói
chung. Đây là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nên tác giả luận văn
đã chọn nghiên cứu đề tài khoa học: “Quản lý nhà nước đối với HKD từ
thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về cơng
tác quản lý nhà nước đối với HKD nhưng phần lớn tiếp cận vấn đề này ở
những mức độ khía cạnh, pháp lý khác nhau, tiêu biểu là:
+ TS Ngô Huy Cương (2009) Phân tích pháp luật về HKD để tìm ra các
bất cập, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội. Bài viết này tập trung
vào việc tìm ra các bất cập của pháp luật về HKD, từ khái quát nguồn gốc đặc
trưng của HKD, một loại hình kinh doanh đặc biệt có tính đặc thù của hệ
thống tổ chức kinh doanh ở Việt Nam, gồm ba dạng nhưng không có quy định
pháp luật điều chỉnh cụ thể từng dạng. Cho nên phát sinh nhiều bất cập trong
pháp lý hoạt động thực tiễn của HKD và giải pháp điều tiết các mối quan hệ
để giải quyết các tranh chấp liên quan HKD.
+ Lê Quang Mạnh, Luận án Tiến sĩ (2011) Phát huy vai trò của Nhà
nước trong phát triển DN nhỏ và vừa Việt Nam. Nghiên cứu này đã chứng
minh vai trò của Nhà nước phát triển DN nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, cụ thể phân tích các vấn đề: xây dựng mơi trường kinh
doanh thuận lợi cho DN; thực hiện tốt chức năng điều chỉnh cơ cấu, tạo ra
nhiều cơ hội kinh doanh, động lực đầu tư cho DN nhỏ và vừa; hỗ trợ DN nhỏ
và vừa vượt qua các khó khăn nội tại. Từ đó, tác giả đã đề xuất 05 quan điểm
nền tảng và 04 nhóm giải pháp cụ thể, trong đó khuyến nghị cơ bản là Nhà
nước cần tập trung hơn vào việc tạo dựng và duy trì một mơi trường kinh
doanh thuận lợi cho mọi loại hình DN, thúc đẩy để gia tăng tính chất kinh tế
thị trường trong nền kinh tế bằng việc khuyến khích sự phát triển của các thị

2



trường yếu tố sản xuất cho DN, thị trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các
thị trường sản phẩm, tránh việc cung cấp trực tiếp dịch vụ hỗ trợ cho DN nhỏ
và vừa, việc này thị trường đảm nhiệm sẽ có hiệu quả hơn.
+ Nguyễn Hồng, Luận án Tiến sĩ Kinh tế (2013) Hoàn thiện quản lý
nhà nước đối với thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Luận án vận dụng cơ sở
lý thuyết thuế cổ điển và hiện đại vào việc nghiên cứu quá trình phát triển hệ
thống thuế ở Việt Nam, kết hợp với khảo sát đánh giá về những tồn tại của hệ
thống thuế, ảnh hưởng của chính sách, thái độ chấp hành pháp luật của người
nộp thuế, cơ quan thuế. Tác giả đã đề xuất lộ trình cải cách chính sách thuế
thu nhập cá nhân, tăng cường quản lý thu nhập của người nộp thuế, ứng dụng
công nghệ thông tin vào quản lý thuế, mở rộng và đẩy nhanh tiến độ áp dụng
khi nộp thuế điện tử, hợp nhất hệ thống cơ sở dữ liệu của các cơ quan quản lý
nhà nước.
+ Nguyễn Thị Ngân, Luận án Tiến sĩ Quản lý công (2016) Quản lý nhà
nước đối với DN nhỏ và vừa ở Việt Nam. Nghiên cứu chỉ rõ sự phát triển của
các DN nhỏ và vừa về số lượng, chất lượng, đóng góp quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng với đó là cơng tác QLNN đối với
DN nhỏ và vừa đã được đổi mới, khắc phục nhiều yếu kém. Đặc biệt trong
quá trình nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập thì cơng tác QLNN đòi
hỏi phải thay đổi hơn nữa để tạo ra mơi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng,
minh bạch, thơng thống. Tác giả cũng đã phân tích được một số tồn tại và
ngun nhân chính của tồn tại đó.
+ Nguyễn Thị Hồng Nhâm, Luận án Tiến sĩ kinh tế (2019) Các yếu tố
tác động đến khả năng tiếp cận tài chính của DN nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Nghiên cứu đã làm rõ sự khác nhau giữa các yếu tố tác động đến nhu cầu tiếp
cận tài chính chính thức từ tín dụng ngân hàng, khả năng tiếp cận nguồn tài
chính từ ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, luận án cũng đánh giá được đối


3


với các DN nhỏ và vừa có nhu cầu tiếp cận đồng thời cả hai nguồn tài chính
là chính thức và phi chính thức. Từ các kết quả phân tích, tác giả đưa ra các
khuyến nghị chính sách trong bối cảnh kinh tế hiện nay, các cơ quan Nhà
nước cần: rà sốt lại các quy định, thơng tư, hướng dẫn, … để loại bỏ những
quy định mang tính chất chồng chéo; tạo mơi trường kinh doanh bình đẳng;
cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế… Ngân hàng thương mại phát
triển mạnh mẽ phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong khu vực
DN nhỏ và vừa, tránh tình trạng bất cân xứng thông tin cũng như giảm bớt
các thủ tục phức tạp, mất thời gian; mở rộng hình thức cho vay tín chấp; triển
khai rộng rãi hình thức bao thanh toán… Đối với các DN nhỏ và vừa cần: cải
thiện năng lực quản lý, kinh doanh; minh bạch trong hoạt động tài chính, …
+ Trịnh Đức Chiều (2019) Thực trạng hoạt động của HKD ở Việt Nam,
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. Tác giả cho rằng Kinh tế hộ
gia đình hoạt động sản xuất, kinh doanh là một lực lượng quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam nên Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách
tạo điều kiện phát triển khu vực HKD.
+ TS Hoàng Xuân Nghĩa và TS Nguyễn Văn Hưởng (2019) Chính thức
hóa hộ kinh doanh ở Việt Nam: khía cạnh lý luận, thực tiễn và lập pháp, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số 11. Bài viết phân tích lý luận về khái niệm HKD,
một khái niệm có tính lịch sử và quá độ ở Việt Nam. Hiện nay nó đang bộc lộ
các bất cập và mâu thuẫn với yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện
đại và mơi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch. Vì thế, chính thức hóa
HKD có tính cấp bách và cần những giải pháp đồng bộ cả trên phương diện tư
duy lý luận, lập pháp và hoạt động thực tiễn.
Những cơng trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực
tiễn của vấn đề quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân, song cụ thể
về HKD ở địa bàn Quận 1 nói riêng thì chưa có.


4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước đối với HKD bảo
đảm hiệu quả của quy định pháp luật, dựa trên việc hệ thống cơ sở lý luận và
đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước từ thực tiễn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh đối với thành phần kinh tế này.
3.2. Nhiệm vụ: Đề tài thực hiện việc hệ thống cơ sở lý luận và quy định
pháp luật về quản lý nhà nước đối với HKD. Tiến hành việc đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước đối với HKD tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Đề
xuất phương hướng, giải pháp quản lý nhà nước đối với HKD.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về Quản lý nhà
nước đối với HKD tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là nghiên cứu
về: quy định pháp luật, phương pháp và cách thức quản lý.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quản lý nhà nước đối với HKD tại Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2015 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê mô tả: được áp dụng nhằm mô tả các hoạt
động, kết quả thực hiện các chỉ tiêu phản ánh thực trạng tại địa phương
nghiên cứu, thơng qua đó đánh giá được mức độ của các hoạt động cần
nghiên cứu, làm căn cứ để phát hiện được xu hướng và nguyên nhân các vấn
đề phát sinh cần giải quyết để đạt được mục đích nghiên cứu.
5.2. Phương pháp điều tra: khảo sát, lấy thông tin trực tiếp từ các HKD
trên địa bàn Quận 1 để phân tích, thống kê mơ tả đánh giá kết quả công tác
quản lý nhà nước đối với HKD tại Quận 1.
5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: được vận dụng trong nghiên cứu
đề tài nhằm phân tích từng nội dung, vấn đề trọng tâm để đưa ra những nhận

định đánh giá kết quả thực hiện hàng năm, từ đó đưa ra các kết luận phù hợp.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn đề cập một cách có hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn của công tác quản lý nhà nước đối với HKD; sự cần
thiết khách quan và nội dung quản lý nhà nước đối với HKD trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà
nước đối với HKD từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra
những nhận xét về ưu điểm, hạn chế, bất cập của quy định pháp luật hiện
hành về công tác này. Trên cơ sở thực tiễn, đề xuất các giải pháp tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung cụ thể luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về quản lý nhà nước đối với
hộ kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh từ thực
tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hộ kinh doanh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
1.1. Những vấn đề chung về hộ kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh
HKD là một loại hình kinh doanh đặc biệt có tính đặc thù của hệ thống
tổ chức kinh doanh ở Việt Nam. Loại hình này có một số yếu tố thuộc về lịch
sử của Việt Nam và một số yếu tố do Nhà nước tạo nên. Vì vậy, khó có thể
đưa ra một định nghĩa chính xác về bản chất của HKD là cá nhân kinh doanh,
thương nhân đơn lẻ hay thương nhân thể nhân.
Theo pháp luật Việt Nam quy định về đăng ký kinh doanh qua các giai
đoạn thì HKD được khái quát như sau:
- Nghị định số 27-HĐBT ngày 09 tháng 3 năm 1988 của Hội đồng Bộ
trưởng ban hành bản “Qui định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư
doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tải”. Các đơn
vị kinh tế này được tổ chức theo những hình thức: (1) hộ cá thể; (2) hộ tiểu
công nghiệp; và (3) xí nghiệp tư doanh. Theo Điều 1 quy định:
+ “Hộ cá thể”: Tư liệu sản xuất và các vốn khác thuộc quyền sở hữu của
người đứng tên đăng ký kinh doanh; Chủ đăng ký kinh doanh phải là người
lao động trực tiếp; Những người lao động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, con
hoặc những người thân khác có tên trong sổ đăng ký hộ khẩu của người đứng
tên đăng ký kinh doanh; Thu nhập sau khi đóng thuế thuộc quyền sở hữu của
chủ hộ. Quy định này có thể hiểu đây chính là cá nhân kinh doanh hay thương
nhân thể nhân tiến hành hoạt động kinh doanh cho chính mình. Dấu ấn gia
đình Việt Nam và dấu ấn quan niệm về các thành phần kinh tế trong cơ chế cũ
vẫn còn cho đến ngày nay, người ta vẫn gọi cá nhân kinh doanh là HKD.

7


+ “Hộ tiểu công nghiệp”: Là các công xưởng hay các cửa hàng; được
thuê mướn lao động theo hợp đồng giữa chủ và người làm thuê; và chủ hộ có

thể là người đóng vai trị chính về kỹ thuật sản xuất và tự điều hành sản xuất
kinh doanh. Quy định này có thể hiểu bản chất của hộ tiểu cơng nghiệp cũng
là cá nhân kinh doanh hay thương nhân thể nhân, nhưng có sản nghiệp thương
mại hay cơ sở kinh doanh.
- Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm
2004 của Chính phủ định nghĩa: “HKD cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia
đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng khơng
q mười lao động, khơng có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.” [6, tr.27]
- Khoản 1 Điều 36 Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm
2006 của Chính phủ định nghĩa: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân
Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được kinh
doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, khơng có con dấu
và chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh.” [7, tr.31]
- Khoản 1 và Khoản 3 Điều 66 của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày
14 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp định nghĩa:
“1. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá
nhân là cơng dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh.
3. Hộ kinh doanh có sử dụng từ mười lao động trở lên phải đăng ký
thành lập DN theo quy định”. [8, tr.53]

8


Như vậy khái niệm “hộ cá thể” và “hộ tiểu công nghiệp” theo Nghị định
số 27-HĐBT ngày 09 tháng 3 năm 1988 đã có nhiều thay đổi qua ba Nghị

định vừa dẫn. Bản chất cá nhân kinh doanh và dấu ấn gia đình đã ngày càng
mờ đi mặc dù thuật ngữ “hộ gia đình” vẫn được sử dụng trong các định nghĩa.
HKD khơng hồn tồn là cá nhân kinh doanh mà đơi khi có sự hùn vốn của
các cá nhân khác. Cho nên quan niệm HKD hay HKD cá thể là cá nhân kinh
doanh hay thương nhân đơn lẻ là khơng hồn tồn đúng.
- Theo khoản 4 Điều 170 Luật Doanh nghiệp năm 2005 cho đến khoản 2
Điều 212 Luật Doanh nghiệp năm 2014 vẫn giữ nguyên nội dung quy định:
“Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 (mười) lao động trở lên phải
đăng ký thành lập DN hoạt động theo quy định của Luật này. Hộ kinh doanh
có quy mô nhỏ thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của
Chính phủ.” [19, tr.115]. Điều này cho thấy, HKD có bản chất của DN nhưng
kinh doanh với quy mơ nhỏ, giống với loại hình DN nhỏ và DN siêu nhỏ là
một loại hình của DN nhỏ, sử dụng dưới 10 lao động.
Vậy có thể xem thuật ngữ HKD là DN theo pháp luật Việt Nam quy định
vì nó cũng là một thực thể hay một hình thức kinh doanh và có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh. Xét từ nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của HKD, có thể thấy
HKD có bản chất là thương nhân. Nếu HKD do một cá nhân làm chủ thì có
thể coi đó là thương nhân thể nhân. Mặt khác, HKD do một hộ gia đình hoặc
một nhóm người làm chủ thì khó có thể coi đó là thương nhân thể nhân hay
thương nhân pháp nhân mặc dù nó cũng được hưởng quyền và thực hiện
nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay
chưa xác định rõ “tư cách pháp lý” của HKD cá thể như DN nên ảnh hưởng
đến địa vị pháp lý và làm hạn chế thẩm quyền của loại chủ thể này trong một
số lĩnh vực so với DN (như lựa chọn ngành, nghề kinh doanh; giao kết hợp
đồng kinh tế, tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp với nước ngoài...).

9


Từ những vấn đề pháp lý phân tích nói trên, tác giả tạm thời đưa ra khái

niệm về HKD như sau:
“Hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình là người Việt Nam làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của hộ kinh doanh.
Hộ kinh doanh có quy mơ hoạt động nhỏ, chỉ sử dụng dưới mười lao động,
phải thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của Chính
phủ. Hộ kinh doanh khơng có tư cách pháp nhân và không được phép kinh
doanh xuất, nhập khẩu.”
1.1.2. Phân loại hộ kinh doanh
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay có thể phân loại HKD thành ba loại
căn cứ vào chủ thể tạo lập ra nó: (1) HKD do một cá nhân làm chủ; (2) HKD
do hộ gia đình làm chủ; (3) HKD do một nhóm người làm chủ.
Cá nhân kinh doanh ở đây được hiểu là từng người cụ thể, là công dân
Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ
thì được quyền đăng ký thành lập HKD. Trong hoạt động kinh doanh, cá nhân
này phải nhân danh mình và tự chịu trách nhiệm về các hành vi thương mại
của mình.
“Hộ gia đình” khơng phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân,
mà là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam từ truyền thống đặc trưng
của dân tộc Việt Nam, bởi vì phần lớn các quốc gia trên thế giới không thừa
nhận hộ gia đình là một thực thể được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh giống như một thương nhân hoặc một cơng ty. Việc quy định “hộ gia
đình” được kinh doanh dưới hình thức HKD xuất phát từ Bộ luật Dân sự năm
1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “hộ gia đình” là chủ thể của quan
hệ pháp luật dân sự, cụ thể theo Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2005 định
nghĩa: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp cơng

10



sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất, nông, lâm, ngư nghiệp hoặc
một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. [16, tr.27]
Theo pháp luật hiện hành, khái niệm về “hộ gia đình” chưa xác định rõ
các điều kiện hay các tiêu chí xác lập một hộ gia đình. Xuất phát từ thực tiễn
xã hội Việt Nam cũng như căn cứ vào quy định của pháp luật, thông thường
các thành viên trong hộ gia đình phải có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng; cùng cư trú ở một nơi, có cùng hoạt động kinh tế
chung trên một sản nghiệp chung. Việc xác định tư cách thành viên hộ gia
đình là rất quan trọng. Bởi lẽ, từ đó xác định được các quyền sở hữu khối tài
sản chung và nghĩa vụ liên đới phát sinh nếu có rủi ro trong giao dịch. Tuy
nhiên, từ Bộ luật Dân sự năm 2005 đến Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chưa
có nội dung quy định rõ ràng về vấn đề xác định tư cách thành viên hộ gia
đình. Và trên thực tế, số lượng các thành viên trong hộ gia đình có thể thay
đổi và hầu như chỉ thỏa thuận bằng miệng với nhau dựa vào tình cảm gia
đình, khơng có cơ sở pháp lý rõ ràng nên việc xác định tập hợp các thành viên
của hộ gia đình khơng dễ dàng, đặc biệt là khi xảy ra tranh chấp sẽ rất khó
giải quyết.
Ngồi ra, điều đặc biệt ở loại hình kinh doanh này là có thể đăng ký kinh
doanh dưới hình thức HKD hoặc khơng cần đăng ký trong trường hợp tại
khoản 2 Điều 66 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015
của Chính phủ quy định: “Hộ gia đình sản xuất nơng, lâm, ngư nghiệp, làm
muối và những người bán hàng rong, quà vặt, bn chuyến, kinh doanh lưu
động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh
doanh các ngành, nghề có điều kiện, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa
phương”. [8, tr.53]

11



Trước đây, Hội đồng Bộ trưởng đã từng ban hành quy định một nhóm
người được đăng ký kinh doanh dưới hình thức HKD theo Nghị định số 66HĐBT ngày 02 tháng 3 năm 1992. Tuy nhiên, tại Điều 17 Nghị định số
02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ lại không quy
định đối tượng được đăng ký kinh doanh dưới hình thức HKD đối với chủ thể
là một nhóm người: “HKD cá thể do một cá nhân hoặc một hộ gia đình làm
chủ, kinh doanh tại một điểm cố định, khơng thường xun th lao động,
khơng có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh”. [5, tr.11]
Từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường của
Việt Nam, Nhà nước ta nhận thức được tác dụng to lớn của nhóm đối tượng
này đối với nền kinh tế chung nên lần lượt ban hành những quy định pháp luật
tương ứng từng thời điểm phát triển kinh tế của đất nước như: Nghị định số
109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP
ngày 29 tháng 8 năm 2006, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4
năm 2010 và Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 của
Chính Phủ, theo đó đã cho phép chủ thể “một nhóm người” được đăng ký
kinh doanh dưới hình thức HKD.
HKD do một nhóm người làm chủ trên tinh thần tự nguyện hùn vốn kỹ
thuật cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh, cùng hưởng lãi, cùng chịu lỗ
và cùng chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của nhóm. Tuy nhiên, quy
định pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn bất cập khi chỉ quy định việc đăng
ký kinh doanh mà chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các cá nhân trong
nhóm và chế độ quản trị HKD; khơng có quy định giới hạn số lượng thành
viên trong một nhóm mà chỉ quy định số lượng lao động dưới 10 (mười), nếu
sử dụng hơn 10 (mười) lao động thì HKD phải đăng ký kinh doanh dưới hình
thức DN.

12



1.1.3. Đặc điểm của hộ kinh doanh
Nghiên cứu về HKD, chúng ta cũng cần so sánh HKD với DNTN để làm
rõ hơn những đặc trưng cơ bản của HKD theo quy định pháp luật hiện nay ở
Việt Nam.
Bảng 1.1: So sánh doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh
Tiêu chí
Tư cách
pháp nhân
Chủ hộ kinh

DNTN

HKD

Khơng có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm vô hạn đối với các quyền và nghĩa vụ của

doanh

DNTN, HKD
Nhỏ hơn DNTN, là hình

Quy mơ
kinh doanh

Quy mơ nhỏ nhưng lớn

thức kinh doanh do một cá


hơn HKD. Có thể do cá

nhân hoặc một nhóm người

nhân nước ngồi làm chủ

là người Việt Nam hoặc một
hộ gia đình làm chủ.

Số lượng
người lao
động
Điều kiện
kinh doanh

Không giới hạn số lượng
lao động

Dưới 10 lao động, nếu trên
10 lao động phải đăng ký
thành lập DN

Phải có Giấy đăng ký kinh

Có Giấy chứng nhận đăng

doanh, có con dấu

ký HKD


Người Việt Nam, có thể là
Chủ thể
thành lập

người nước ngoài, thỏa
mãn các điều kiện về hành
vi thương mại do pháp luật
nước đó quy định

13

Phải là người Việt Nam


Loại hình
kinh doanh
Cơ cấu tổ
chức, quản lý

Được phép kinh doanh

Khơng được phép kinh

xuất, nhập khẩu

doanh xuất nhập khẩu

Cơ cấu tổ chức, quản lý ở DNTN chặt chẽ hơn ở HKD

Nguồn: Trang Thư viện Pháp luật, 2016

Các phân tích so sánh ở trên cho thấy những đặc điểm pháp lý cơ bản
của HKD gồm:
Thứ nhất, HKD khơng có tư cách pháp nhân
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ trước đến nay về hoạt động kinh
doanh có nhiều sự thay đổi, như trước đây căn cứ Nghị định số 27-HĐBT,
ngày 09 tháng 3 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về “chính sách
đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công
nghiệp, xây dựng, vận tải”, Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân của
HKD. Và hiện nay, theo Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định một tổ
chức được cơng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: (1) Được
thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; (2) Có cơ cấu
tổ chức theo quy định tại Điều 83 Bộ Luật này; (3) Có tài sản độc lập với cá
nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (4) Nhân
danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy, có thể
hiểu quan niệm pháp luật Việt Nam hiện nay về tư cách pháp nhân, Nhà nước
chỉ công nhận đối với tổ chức (nhóm người) khi bộ máy quản trị của tổ chức
đó có khả năng tồn tại và hoạt động độc lập trước pháp luật. Tuy nhiên, không
phải tổ chức nào, nhóm người nào cũng đều được Nhà nước cơng nhận tư
cách pháp nhân.
Trong khi đó, đặc trưng của HKD là do một cá nhân thành lập có nghĩa
bản chất của HKD là cá nhân kinh doanh. HKD và cá nhân thành lập nên
HKD đó khơng phải là hai chủ thể pháp lý độc lập với nhau. Mọi tài sản của
14


HKD đều là tài sản của cá nhân tạo lập nó và cá nhân đó sẽ được hưởng tồn
bộ số lợi nhuận kinh doanh sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính, thanh
tốn theo quy định của pháp luật, đồng thời cũng chịu mọi trách nhiệm liên
quan đến hoạt động của HKD khi xảy ra tranh chấp hoặc vi phạm pháp luật.
Vì vậy căn cứ quy định nói trên cho thấy HKD khơng có tư cách pháp nhân.

Đối với trường hợp HKD được tạo lập bởi một nhóm người cũng khơng
có tư cách pháp nhân. Về thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh loại hình
này gần giống với công ty hợp danh và tổ hợp tác: Tổ hợp tác được hình
thành trên cơ sở hợp đồng tự nguyện từ 3 cá nhân trở lên, có cam kết về nghĩa
vụ giữa họ với nhau; liên đới trách nhiệm về tài sản riêng của mình, theo phần
tương ứng với phần đóng góp của mỗi người, trừ khi họ có thỏa thuận khác về
mức chịu trách nhiệm. Như vậy, về nguyên tắc tổ hợp tác phải chịu trách
nhiệm vô hạn, là một tổ chức đối nhân.
Như đã phân tích ở trên, hộ gia đình là một chủ thể đặc biệt của pháp
luật Việt Nam vì hộ gia đình khơng phải là cá nhân mà tập hợp các thành viên
có tài sản chung. HKD được tạo lập bởi hộ gia đình, thì HKD đó có bản chất
là hộ gia đình kinh doanh. Do đó, HKD cũng khơng phải là pháp nhân.
Thực chất HKD, do cá nhân chủ hộ hoặc các cá nhân thành viên của hộ
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về các rủi ro
trong kinh doanh một cách cá nhân (hoặc liên đới giữa các cá nhân) và trực
tiếp. Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, ngày 14 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ
khơng có quy định nói về vấn đề này, nhưng thực tế hộ gia đình kinh doanh
khơng thể nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật.
Thứ hai, chủ HKD chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của
HKD.
Theo Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, chủ HKD được xác định là cá nhân
người đầu tư trong trường hợp HKD do cá nhân làm chủ, các thành viên trong

15


trường hợp HKD do một nhóm người làm chủ hoặc tất cả các thành viên của
hộ gia đình trong trường hợp HKD do một hộ gia đình làm chủ. HKD và chủ
thể sáng lập ra nó (chủ HKD) khơng phải là hai thực thể độc lập, có tài sản
tách biệt với nhau. Nên chủ HKD phải chịu chế độ trách nhiệm vơ hạn đối với

khoản nợ của HKD, có nghĩa là, chủ HKD phải chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình.
Trường hợp 1: HKD do một cá nhân làm chủ, thì chủ hộ phải chịu trách
nhiệm vơ hạn đối với các khoản nợ của HKD, bởi trong trường hợp này HKD
có bản chất là cá nhân kinh doanh hay thương nhân thể nhân.
Trường hợp 2: HKD do một hộ gia đình làm chủ, thì việc xác định
trách nhiệm của từng thành viên hộ gia đình được thực hiện theo quy định tại
Điều 103 và Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, tài sản chung của
hộ gia đình sẽ làm tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ chung khi xảy
ra sự cố gì. Trường hợp tài sản chung không đủ thực hiện nghĩa vụ của HKD
thì các thành viên trong hộ gia đình phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài
sản riêng của mình. Mức góp phụ thuộc vào thỏa thuận của các thành viên
trong hộ gia đình và các thành viên này phải có trách nhiệm thanh tốn hết nợ
cho các chủ nợ của HKD. Nếu một trong các thành viên không có khả năng
góp thêm để trả nợ như thỏa thuận của hộ thì các thành viên khác có nghĩa vụ
lấy tài sản của mình để tiếp tục trả nợ.
Trường hợp 3: HKD do một nhóm người làm chủ, thì việc xác định chế
độ trách nhiệm của các thành viên sẽ phức tạp hơn hai trường hợp trên, bởi
chế độ trách nhiệm của thành viên trong nhóm khơng được Nghị định số
78/2015/NĐ-CP xác định rõ và Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng khơng có quy
định về trách nhiệm dân sự của các đối tượng này.
Tóm lại, đối với HKD do một cá nhân làm chủ thì cá nhân đó được toàn
quyền quyết định về mọi hoạt động kinh doanh của hộ (như chủ DNTN đối

16


với DNTN). Đối với HKD do một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ,
mọi hoạt động kinh doanh của hộ do các thành viên trong nhóm hoặc trong hộ
quyết định. Nhóm người hoặc hộ gia đình cử một người đủ điều kiện làm đại

diện cho nhóm hoặc cho hộ để tham gia giao dịch với bên ngoài.
Thứ ba, HKD là hình thức kinh doanh có quy mơ nhỏ.
Tại Việt nam, quy mô kinh doanh được xem là tiêu chí để phân biệt
HKD và DNTN. Vốn pháp định là cơ sở để xác định quy mô kinh doanh theo
Nghị định số 66-HĐBT ngày 02 tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng
và Luật DNTN năm 1990 quy định. Đây cũng là tiêu chí để phân biệt cá nhân
và nhóm kinh doanh (HKD) với DNTN. Muốn thành lập DNTN phải có đủ
vốn pháp định tối thiểu, trong khi đó đối với cá nhân và nhóm kinh doanh
khơng nhất thiết phải như vậy và loại hình kinh doanh này khơng được coi là
HKD. Tuy nhiên, thực tế quy định này khơng hợp lý vì một số HKD lại đầu
tư một số vốn rất lớn, vượt xa mức vốn pháp định địi hỏi phải có đối với một
DNTN trên cùng một lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Đến khi Luật DN
năm 1999 ra đời thì tiêu chí vốn pháp định mới được bỏ đi, mà thay thế bằng
quy định số địa điểm kinh doanh và số lượng lao động. Nếu HKD có sử dụng
thường xuyên trên 10 lao động phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức DN.
HKD chỉ được đăng ký tại một địa điểm và nếu quy mô hoạt động của HKD
tăng lên đến mức có nhu cầu mở thêm địa điểm kinh doanh thì chủ sở hữu
HKD đó phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức DN vì đối với DNTN, pháp
luật không quy định giới hạn số lượng địa điểm kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, HKD bị giới hạn số lượng lao
động dưới 10 người và chỉ hoạt động kinh doanh tại một địa điểm, điều này
đã làm hạn chế quyền tự do kinh doanh và khả năng phát triển của HKD. Việc
buộc HKD sử dụng thường xuyên hơn mười lao động phải đăng ký kinh
doanh dưới hình thức DN có lẽ chưa tính đến đặc trưng của từng ngành nghề

17


kinh doanh. Vì với những HKD về lĩnh vực dịch vụ, ăn uống thì tổng số lao
động có thể lên tới hàng chục người.

HKD là hình thức kinh doanh quy mơ rất nhỏ nhưng khơng phải là đối
tượng có quy mô kinh doanh nhỏ nhất; so với một số hộ gia đình sản xuất
nơng, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, làm
dịch vụ có thu nhập thấp thì loại hình kinh doanh này vẫn được coi là có quy
mơ kinh doanh lớn hơn và ổn định hơn. Những đối tượng này đây không bị
bắt buộc đăng ký kinh doanh mặc dù vẫn thực hiện hành vi kinh doanh để
kiếm lời. Dấu hiệu để phân biệt những đối tượng này với HKD là mức thu
nhập thấp và do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy
định cụ thể mức thu nhập được coi là thấp tại từng thời điểm nhất định.
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh
Quản lý nhà nước là hoạt động quản lý gắn liền với khu vực công và
quyền lực nhà nước. Trong xã hội, có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động
quản lý xã hội với những công cụ khác nhau và mục đích khác nhau. Trong số
các chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước đóng vai trị quan trọng hàng đầu trong
hoạt động quản lý xã hội.
Khái niệm “quản lý nhà nước” có thể hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
- Nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là dạng hoạt động quản lý xã hội đặc biệt
mang tính chất quyền lực Nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước
trong hệ thống hành pháp với chức năng chấp hành và tổ chức thực hiện pháp
luật trong đời sống xã hội nhằm đạt mục tiêu đã được định sẵn.
- Nghĩa rộng, quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, do
tất cả các cơ quan nhà nước (cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp) sử
dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, quá trình và
hoạt động của xã hội nhằm bảo đảm tính trật tự và phát triển xã hội.

18


Theo Giáo trình Lý luận Hành chính Nhà nước của Học viện Hành chính
Quốc gia, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2010, khái niệm quản lý nhà nước thể

hiện như sau: “Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang
tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh
hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các
cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn
định và phát triển của xã hội”.
Từ các khái niệm nói trên, chúng ta có thể khái niệm “quản lý nhà nước
đối với HKD” cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.
- Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước tác động, định hướng, điều
chỉnh các hoạt động của HKD bằng những chính sách, quy định pháp luật
nhằm đạt được mục tiêu chung là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
- Nghĩa hẹp: Đó là quá trình tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan
trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều chỉnh các
hoạt động và hành vi của HKD chấp hành theo đúng quy định của pháp luật
của Nhà nước.
Theo hai khái niệm trên, chủ thể quản lý nhà nước đối với HKD là các
cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp (theo nghĩa
rộng) và là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp các cấp (theo
nghĩa hẹp). Khách thể quản lý nhà nước đối với HKD là hoạt động của HKD.
Từ những nhận định trên, tác giả tạm thời đưa ra khái niệm:
Quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để
điều chỉnh hành vi của hộ kinh doanh nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế, đồng thời phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động

19


của hộ kinh doanh trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với hộ kinh
doanh
Hoạt động quản lý nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội nên HKD cũng là một đối tượng của hoạt động này. Nó rất quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và cũng rất phức tạp nếu
không quản lý tốt các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế hoạt động trong
toàn bộ nền kinh tế. Cho nên, Nhà nước phải tăng cường công tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với HKD vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, vai trò và ảnh hưởng của HKD rất đa dạng, phức tạp, tác động
đến nhiều mặt của đời sống xã hội, tiêu biểu là giải quyết việc làm cho những
người lao động khơng có trình độ chun mơn nghiệp vụ hay chưa qua đào
tạo, những người quá độ tuổi lao động nhưng gặp khó khăn trong đời sống.
Trong nền kinh tế thị trường, HKD đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, HKD huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo ra
hoặc hỗ trợ người dân được tiếp cận những sản phẩm với giá cả hợp lý, đáp
ứng nhu cầu của xã hội. Để hoạt động hiệu quả, HKD phải giải quyết hàng
loạt những vấn đề mà trong đó có những vấn đề chủ hộ không đủ khả năng
giải quyết. Thông qua hoạt động của mình, Nhà nước định hướng các HKD
hoạt động thơng qua các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách hỗ trợ, đáp
ứng các nhu cầu chính đáng của HKD.
Thứ hai, để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn 2011 – 2020 (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI) tiếp tục phát huy
quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi cơng dân để làm giàu cho bản
thân và đóng góp cho xã hội, cần phải tập hợp và xây dựng vững chắc cơ sở
hạ tầng mà phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đóng vai trị quyết định.

20



Trong đó, thành phần kinh tế cá thể là một trong những thành phần trọng tâm
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Thứ ba, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng công tác quản lý đối với
HKD của Nhà nước trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số vấn đề ảnh
hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế của nước ta nói chung và ở địa
phương nói riêng như: quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước ta chưa hoàn thiện; hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về HKD cịn thiếu, chưa đầy đủ, chưa có sự thống nhất với nhau
dẫn đến việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong công tác quản lý HKD ở
một số địa phương còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, dễ phát sinh nhiều vấn
đề nhạy cảm, khiếu nại, tố cáo. Những vấn đề tồn tại này cần phải được nhanh
chóng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước nói
chung và quản lý nhà nước đối với HKD nói riêng.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh
Trong hoạt động quản lý, cơ quan nhà nước cũng đã xây dựng các
phương pháp quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực nhằm đảm bảo thiết chế
XHCN và các quy định pháp luật chuyên ngành, bảo đảm nguyên tắc mềm
dẻo, linh hoạt, sáng tạo, đem lại hiệu quả cao trong thực tiễn và phải phù hợp
đường lối chính trị, quy định, chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ
thể. Luận văn sẽ tập trung phân tích đánh giá cơng tác QLNN đối với HKD
trên các phương diện sau:
Thứ nhất, ban hành pháp luật về hoạt động của HKD. Pháp lý là công cụ
quản lý chủ yếu khi thực hiện chức năng QLNN đối với HKD. Vì vậy, rất cần
có khung khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, rõ ràng để HKD có thể yên
tâm hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển hiệu quả hơn trong nền kinh tế
thị trường.

21



Thứ hai, định hướng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển HKD trên cả nước và từng địa phương. Đây là nội dung quan trọng của
hoạt động QLNN, đòi hỏi việc hoạch định chiến lược phải trọng tâm, trọng
điểm, mục tiêu phát triển với hệ thống các chỉ tiêu cụ thể, đề ra biện pháp
ngắn hạn và dài hạn để định hướng cho sự phát triển của HKD theo mục tiêu
chung của phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tập trung phát triển các ngành
mũi nhọn cũng như các ngành trọng điểm, giúp HKD phát huy năng lực của
mình trong hoạt động sản xuất phát triển kinh doanh.
Thứ ba, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động
của HKD. Nhà nước có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực
hiện các quy phạm pháp luật kinh doanh, bảo đảm tính minh bạch, cơng khai,
khơng phân biệt loại hình kinh doanh, tạo lòng tin và thuận lợi cho hoạt động
của HKD. Hiện nay, ý thức chấp hành pháp luật của HKD còn thấp, các quy
định pháp luật chưa rõ ràng đối với loại hình kinh doanh này nên việc tiếp cận
các văn bản pháp lý của HKD cũng còn nhiều khó khăn. Đó là ngun nhân
mà HKD khơng ý thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Thứ tư, xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ HKD. Nhằm phát
triển năng lực tự có của HKD theo định hướng phát triển chung của từng địa
phương, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng các văn bản chính sách hỗ trợ cụ thể
đối với HKD ở từng giai đoạn. Trong đó, cần tập trung hỗ trợ HKD tiếp cận
các nguồn vay ưu đãi để chủ động trong sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh cơng
tác cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của HKD, cải
thiện mơi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, góp phần quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của HKD và giải quyết
khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động của HKD. Đây là một trong những
nội dung quan trọng nhất trong quản lý nhà nước đối với HKD hiện nay được

22



×