Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

SKKN mot so bien phap to chuc thuc hien nang caochat luong giang dayhan che hoc sinh chua datchuan len lop

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.52 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY,HẠN CHẾ HỌC SINH CHƯA ĐẠT CHUẨN LÊN LỚP, TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG HUYỆN THĂNG BìNH. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Ngày 28 tháng 7 năm 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định ban hành kế hoạch tổ chức cuộc vận động "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục"và Chỉ thị nhiệm vụ năm học 2006-2007, 2007-2008 đề ra nhiệm vụ trọng tâm của cấp tiểu học: Triển khai sâu rộng cuộc vận động nói trên cùng với "Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và không cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp". Cuộc vận động được xác định là khâu đột phá của năm học 2007-2008 để toàn ngành giáo dục-đào tạo cả nước tự khẳng định, đổi mới vì sự phát triển của đất nước, của ngành, vì sự nghiệp và cuộc sống của mỗi thầy, cô giáo. Cuộc vận động chính là một sự cụ thể hoá yêu cầu "Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm"được triển khai trong nhà trường hiện nay "Từ khâu đột phá" nói không với tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục, không vi phạm đạo đức nhà giáo, không cho học sinh chưa đạt chuẩn lên lớp, sẽ tạo nên những bước phát triển mới như một quá trình tự nhiên, tất yếu, phá vỡ vòng luẩn quẩn đang tồn tại hiện nay, đưa giáo dục nước ta phát triển bền vững và từng bước hội nhập quốc tế... Song hành với cuộc vận động đó, cả nước đang tiếp tục tiến hành triển khai thực hiện chương trình tiểu học mới và đã gặt hái kết quả khả quan. Hầu hết giáo viên, PHHS và dư luận xã hội đều đồng tình hưởng ứng. Bộ mặt nhà trường tiểu học đổi mới rõ rệt, cách dạy và cách học của GV, học sinh ngày càng đổi mới, hiệu quả chất lượng giáo dục và uy tín nhà trường tăng lên. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới phương pháp giáo dục chúng ta còn gặp đâu đó " sức ì " cản trở đổi mới phương pháp dạy học từ giáo viên, chương trình, SGK, CSVC đúng như đánh giá của Hội nghị lần thứ II BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII: "Phương pháp giáo dục đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học". Nhìn vào thực tế, những năm qua ngành giáo dục chúng ta đã mắc phải một căn bệnh trầm kha "bệnh thành tích". Vì nặng “thành tích ”, vì sức ép "chỉ tiêu lên lớp" mà từ cấp trên đã tạo áp lực cho cấp dưới, cuối cùng một loạt học sinh không đạt chuẩn đã bị đưa lên lớp trên, một loạt học sinh ngồi nhầm lớp. Hai năm qua, cùng với cả nước trường tiểu học Kim Đồng đã triển khai cuộc vận động bằng nhiều biện pháp tích cực. Và có lẽ , đúng như ai đó đã nói "Bất cứ công việc gì dù phức tạp đến đâu thì nó cũng là kết quả của một chuỗi những công việc đơn giản". Là một phó hiệu trưởng, được hiệu trưởng phân công quản lý chuyên môn, tôi đã cùng các lãnh đạo nhà trường tổ chức thực hiện một số biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng học sinh lên lớp.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> chưa đạt chuẩn, chống học sinh ngồi nhầm lớp. Sau đây tôi xin được trình bày các công việc đã làm ,đã đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý chỉ đạo tại trường TH Kim Đồng như sau: II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN: Học sinh yếu kém ở đâu cũng có, cơ sở giáo dục nào cũng có. Báo cáo về kết quả rà soát, giúp đỡ học sinh yếu kém,Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Văn Vọng cho biết cả nước hơn 2,1 triệu học sinh có học lực yếu và kém, chiếm tỉ lệ 13% so với tổng số học sinh phổ thông toàn quốc.và theo Báo Giáo dục và thời đại số đặc biệt tháng tư năm 2007 .Học kỳ 1 năm học 2007-2008 tiểu học có 417.155em , chiếm 5,7 % tổng số học sinh tiểu học cả nước,tỉnh có tỷ lệ học sinh yếu kém cao nhất là Sơn La (13,34,),thấp nhất là Thừa Thiên -Huế (0,57%). Đề cập đến nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên ,thứ trưởng Nguyễn Văn Vọng cho rằng :”có nhiều lý do từ phía các cơ quan quản lý,do đội ngũ nhà giáo còn bất cập, phía người học chưa cố gắng và cả nguyên nhân khách quan là một bộ phận học sinh thuộc diện chậm phát triển trí tuệ học hoà nhập... Ý kiến của Huỳnh Công Minh Giám đốc Sở Giáo dục -đào tạo Tp Hồ Chí Minh thì cho rằng trong những nguyên nhân thì vấn đề giáo viên là cốt lõi hơn cả, vì .những năm qua ,giáo viên chúng ta lo dạy theo theo CT-SGK ( cũ và mới) và “ đối phó “ với thi cử cho đại bộ phận học sinh trong lớp , trong trường mà chưa có điều kiện đi sâu vào từng đối tượng cụ thể .Điều này đã dẫn đến đến việc bỏ sót một bộ phận nhỏ là học sinh diện yếu kém ..”. Riêng đối với trường Kim Đồng , qua việc bàn giao chất lượng và điều tra nắm tình hình hoc sinh yếu ở các khối lớp đã thống kê và phân loại như sau:: Năm học 20072008. Khối 1 X. Khối 2. Khối 3. Khối 4. Khối 5. 7 em. 10 em. 4 em. 8 em. Tổng cộng 29 em(6em KT). Phân tích nguyên nhân : 1)Một số học sinh yếu do thiểu năng tuệ (khuyết tật) 2)Một số lớn do mất căn bản từ các lớp duới, nhất là mất căn bản từ lớp 1 3)Một số do cha mẹ không quan tâm,cha mẹ bất hoà, gia đình khó khăn... 4)Một số em ham chơi hơn ham học... Chúng tôi xác định tình trạng học sình chưa đạt chuẩn lên lớp hoặc ngồi nhầm lớp trách nhiệm không phải chỉ ở giáo viên mà đó là sự “tổng hợp trách nhiệm” từ nhiều phía: lãnh đạo nhà trường, giáo viên ,cha mẹ học sinh.bản thân học sinh... Đây cũng không phải là vấn đề mới mẻ, xa lạ mà gần như là vấn đề “muôn thuở” ,”khổ lắm nói mãi” II/GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> “Mỗi cây mỗi hoa ,mỗi nhà mỗi cảnh”. Trường chúng tôi đã đạt chuẩn Quốc gia năm 2001 ,chất lượng học sinh đại trà ,học sinh giỏi luôn dẫn đầu toàn Huyện ,thế nhưng chúng tôi vẫn thừa nhận là trong số học sinh đã lên lớp hằng năm vẫn còn một số ít chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng(KTKN)(vì nhiều lý do đã phân tích ở trên) Để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng trên ,chúng tôi đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy,thực hiện tốt cuộc vận động của ngành. Trên cơ sở nhiệm vụ được phân công tôi xin phép được trình bày cụ thể các việc đã làm trong thời gian qua đem lại hiệu quả trong công tác tổ chức,quản lý chỉ đạo như sau: 1. Triển khai đầy đủ và kịp thời các văn bản chỉ đạo của cấp trên. 2.Tổ chức khảo sát chất lượng và phân loại học sinh yếu 3.Tổ chức tốt việc triển khai thay sách, đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên . 4.Đầu tư CSVC,trang thiết bị phục vụ dạy và học. 5.Tăng cường công tác kiểm tra dự giờ thăm lớp. 6.Đổi mới công tác tổ chức thi kiểm tra định kỳ ,thống kê,xử lý thông tin sau kiểm tra để đánh giá đúng thực chất lượng. 7. Đổi mới trong việc soạn bài và kên lớp. 1)Triển khai các văn bản kịp thời và đầy đủ: Văn bản chỉ đạo của cấp trên tạo cơ sở pháp lý cho người quản lý thực hiện chức năng của mình. Ngay từ đầu năm học Hiệu trưởng nhà trường đã kịp thời triển khai và quán triệt trong HĐSP các Công văn, Chỉ thị của cấp trên: - Quyết định 3859/QĐ-BGD&ĐT ngày 28/7/2006 về kế hoạch tổ chức cuộc vận động "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục". - Chỉ thị nhiệm vụ năm học của Bộ GD-ĐT, của Sở GD-ĐT Quảng Nam, của Phòng GD-ĐT Thăng Bình. - Quyết định 23 về giáo dục học sinh khuyết tật. - Quyết định 30 về đánh giá xếp loại học sinh tiểu học - Quyết định 16 vế chuẩn KTKN cấp Tiểu học - Công văn 896 về thực hiện giảm tải của Bộ . -Công văn 2910 'Tăng cường biện pháp giúp đỡ học sinh yếu" của Sở GD Quảng Nam. Các văn bản trên đã được photocopy gởi đến giáo viên và các tổ chuyên môn và thường xuyên được chúng tôi lưu ý nhắc nhở thực hiện. .Ngoài ra chúng tôi còn tuyên truyền sâu rộng đến PHHS về mục đích ý nghĩa cuộc vận động, làm cho phụ huynh học sinh thông suốt chủ trương,xác dịnh nếu con em mình học yếu thì thà ở lại học thêm 1 năm nũa còn tốt hơn là lên lớp mà mất căn bản . Đây là một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho cuộc vận động thành công. (thực tế có một số phụ huynh còn nặng thành tich mà đôi khi gây áp lực cho giáo viên.. ) 2)Trang bị cơ sở vật chất cho dạy và học :Chúng ta không thể nói đến dạy tốt học tốt khi các điều kiện dạy học thiếu thốn ,CSVC ọp ẹp.Các năm qua nhà trường đã tập trung đầu tư mua sắm các trang thiết bị dạy học :như trang bị 100% bảng chống lóa cho các phòng học, các phòng đều có quạt mát, điện sáng, Sách giảng dạy ,sách.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> tham khảo,ĐDDH cung cấp đầy đủ cho giáo viên ....Ngoài ra ,hằng năm còn tổ chức thi làm đồ dùng dạy học để làm phong phú thêm nguồn ĐD DH của trường. 3.)Tổ chức khảo sát, phân loại học sinh yếu dựa theo chuẩn kiến thức kỹ năng cần đạt: Muốn phân loại học sinh, chúng tôi đã tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm và tổ chức bàn giao chất lượng giữa giáo viên cũ và mới Đây là việc làm cần thiết để giáo viên nắm được thực chất chất lượng học sinh. Quan trong là giáo viên biết xử lý các thông tin sau kiểm tra để phân loại học sinh, đề ra các biện pháp giảng dạy với từng đối tượng học sinh -Tổ chức phân loại học sinh yếu dựa theo chuẩn kiến thức kỹ năng cần đạt: Hiện nay hầu như khi lên lớp giáo viên đều dạy theo một trình tự rập khuôn, máy móc cho tất cả các đối tượng học sinh.Khi đó trong một lớp nào là học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh trung bình ,học sinh yếu kém có cả. Bởi vậy giáo viên phải phân loại trình độ học sinh để có PPDH thích hợp.Học sinh yếu kém không tiếp cận được kiến thức bài học thì chán nản sinh ra lười biếng ,bỏ học .. Chúng tôi đã chỉ đạo cho giáo viên phân loại các đối tượng học yếu và tổng hợp như sau : Môn Tiếng Việt: 1. Nhóm học sinh không đọc được (KTẬT). 2.Nhóm học sinh vừa đọc vừa đánh vần 3.Nhóm học sinh viết sai chính tả. 4..Nhóm học sinh viết không đảm bảo tốc độ dẫn đến không hoàn thành bài viết 5,Nhóm yếu tập làm văn. Môn Toán : 1Nhóm học sinh không làm được các phép tính (cộng ,trừ ,nhân,chia) 2.Nhóm học sinh không đọc được ,hoặc đọc chưa thành thạo nên không biết bài toán nói gì 3Nhóm học không biết giải toán có lời văn. Và có thể tùy tình hình thực tế mà giáo viên phân loại đối tượng yếu cụ thể hơn Thí dụ em A và em B cùng yếu Toán nhưng yếu của em A sẽ khác yếu của em B.Có thể em A không làm Toán chia được do không thuộc bảng nhân, có thể em B không làm Toán chia được do chưa nắm kỹ thuật chia... -Tổ chức bàn giao chất lượng giữa giáo viên chủ nhiệm cũ và mới; MẪU :Bàn giao chất lượng học sinh. Thời gian; Địa điểm: Tham dự: Nội dung bàn giao : -Học lực ,hạnh kiểm: -Các biện pháp đã thực hiện : -Nhũng nội dung cần tiếp tục quan tâm đối với các đối tượng (G,K,TB,Y).

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Riêng đối tượng học sinh yếu đã được giáo viên cũ cung cấp thông tin cặn kẽ hơn về nhũng biện pháp giáo viên đã thực hiện trong năm qua và nhũng hạn chế ,tồn tại cần tiếp tục khắc phục.Những thông tin giáo viên đã nắm được là cơ sở để giáo viên làm tốt hơn công tác chủ nhiệm . 6).Đổi mới công tác tổ chức kiểm tra định kỳ: Mỗi năm có 4 lần KTĐK và 1 lần KSCL đầu năm.Để việc kiểm tra mang lại hiệu quả” thi thật” nhà trường đã đổi mới trong công tác tổ chúc thi như sau: - KSCL GK1,CK1 giáo viên chủ nhiệm tự coi thi lớp mình phụ trách trên tinh thần coi nghiêm túc ,đánh giá đúng thực chất học sinh để phát hiện học sinh chưa đạt chuân ,kịp thời điều chỉnh việc dạy học của mình và có biện pháp phụ đạo.. - Đến GK2, CK2 chúng tôi đổi chéo giáo viên coi thi giữa các khối lớp (khối 5 coi khối 4, khối 3 coi khối 2.... ),coi thi như vậy vừa đảm bảo tính khách quan vừa tránh được tình trạng giáo viên hay than phiền, đổ lỗi về việc lớp dưới coi thi dễ dãi để học sinh quay cóp dẫn đến cho học sinh lên lớp chưa đạt chuẩn. Mỗi phòng thi bố trí không quá 23 em. Học sinh được xếp theo trình độ: Có thể mỗi loại (G,K,TB,Y) ngồi riêng một phòng hoặc G+K, K+TB nhưng riêng đối tượng học sinh YẾU chúng tôi đặc biệt quan tâm xếp các em ngồi riêng , mục đích không tạo cơ hội để các em quay cóp bài dẫn đến đánh giá sai lệch trình độ. -Chấm bài thi: bài thi được đổi chấm chéo giữa các giáo viên trong khối lớp và trực tiếp ghi điểm vào bảng thống kê để tránh trường hợp giáo viên nâng điểm cho HS. -Thống kê :Thống kê theo mẫu quy định sau chúng tôi nhận thấy còn chung chung, chưa cụ thể, chưa toàn diện. GIỎI. MÔN TOÁN KHÁ TB. YẾU. MÔN TIẾNG VIỆT GIỎI KHÁ TB YẾU. 7.Đổi mới mẫu thống kê chất lượng Về phía trường ,chúng tôi đã thực hiện thống kê theo mẫu riêng của trường với mục đích thống kê chi tiết đến từng phần cụ thể : đọc hiểu, đọc thành tiếng, viết âm ,viết vần, viết câu,.chính tả, tập làm văn. Bảng thống kê xuyên suốt các lần kiểm tra từ đầu năm đến cuối năm nên giáo viên có thể theo dõi học sinh chặt chẽ hơn ..Qua bảng thống kê giáo viên đánh giá được tình hình chất lượng lớp mình đến từng yêu cầu các chuẩn kiến thức..Thông thường sau khi nộp bài thi giáo viên quên các lỗi mà từng em học sinh mắc phải hoặc ít nhớ điểm số của từng yêu cầu nhỏ trong cơ cấu của đề thi. Giáo viên sử dụng bảng thống kê này để báo cáo với phụ huynh rất ,cặn kẽ, rõ ràng. Thí dụ một em học sinh A xếp loại môn Tiếng Việt loại TB, nếu giáo viên chỉ công bố như thế thì phụ huynh có thể nghĩ là con mình đã đạt yêu cầu, nhưng theo mẫu thống kê của trường giáo viên sẽ có một thông báo cụ thể là TViệt xếp loại.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> chung là TB nhưng có thể là: Đọc thành tiếng :giỏi, đọc hiểu :khá ; chính tả :yếu, TLV :yếu Như vậy phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn tình hình học tập của con mình và giáo viên cũng sẽ theo đó mà đề ra biện pháp phụ đạo thích hợp. Mẫu thống kê như sau: MÔN TIẾNG VIỆT: Từ lớp 2 đến lớp 5 thống kê theo mẫu sau: GIỮA KỲ 1 Đọc th Đọc Chính tiếng hiể tả u. CUỐI KỲ 1 Tập làm văn. Đọc th. tiếng. Đọc hiểu. Chín h tả. GIỮA KỲ 2 ->CK2 Tập l Đọc văn th tiếng. Riêng lớp 1 thống kê theo mẫu sau: : GIỮA KỲ... Đọc thành tiếng. Đọc hiểu. Viết âm. Viết vần. Viết tiếng. Viết câu. Đọc hiểu. Chín h tả. Tập l văn. CUỐI KỲ... Đọc thành tiếng. Đọc hiểu. Viết âm. Viết vần. Viết tiến g. Viết câu. 8.Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học(Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học là giáo viên thực sự dạy đến các đối tượng học sinh ,phát huy tính tích cực của học sinh..) Kế hoạch là một trong những chức năng của người quản lý nhằm hoạch định chiến lược thực hiện các mục tiêu đã được giao trong năm học hoặc cho những năm đến . Đầu năm học chúng tôi đã vạch kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho cả năm học và đưa ra bàn bạc kỹ ở hội nghị CBCC thành nghị quyết của nhà trường . Khi xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chúng tôi đã dựa vào các căn cứ sau - Chỉ thị nhiệm vụ năm học của ngành -Thiếu sót , hạn chế của giáo viên trong các năm qua -Nhu cầu bức thiết của giáo viên , tổ chuyên môn - Tổ chức chuyên đề , hội thảo theo hướng tích cực : Mặc dù đã được tập huấn trong hè , giáo viên cơ bản đã nắm được nội dung , CT, SGK , PPGD nhưng chúng tôi cho rằng thời gian đó còn quá ít ỏi . Để được nghiên cứu sâu hơn , chắc hơn , nhiều nội dung hơn thì việc tổ chức chuyên đề , hội thảo tại các trường là việc làm rất cần thiết . Các năm học trước chúng tôi đã tổ chức các buổi hội thảo về : dạy học bằng phiếu giao việc , tập dượt tổ chức dạy học bằng hoạt động nhóm , tổ chức thi giáo án tốt , tổ chức sưu tầm và sáng tác trò chơi học tập . Để việc bồi dưỡng giáo viên có tác dụng nâng cao giác ngộ nghề nghiệp , năng lực chuyên môn , phương pháp dạy học , chúng tôi đề ra quy trình buổi tổ chức hội thảo chuyên đề theo các hình thức sau : 1. Chọn nội dung sinh hoạt ( do trường hoặc tổ đề xuất ý kiến ) 2. Nêu câu hỏi để các tổ nghiên cứu thâm nhập và sẽ báo cáo trước tập thể ..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 3. Xây dựng các tiết dạy minh họa . 4. Viết phiếu góp ý giờ dạy theo nhóm , tổ - Các năm qua chúng tôi đã tổ chức được nhiều chuyên đề dạy học với hình thức luôn thay đổi nội dung phong phú , giúp giáo viên nắm vững qui trình , biện pháp và các hình thức dạy học các môn học . Chúng tôi hạn chế việc lãnh đạo nhà trường “ báo cáo thuyết trình “ , giáo viên nghe - ghi chép . Cách làm này sẽ hạn chế việc động não , tư duy của giáo viên . Chúng tôi tổ chức cho giáo viên , tổ chuyên môn nghiên cứu và báo cáo các nội dung liên quan giữa các khối lớp . Như tổ chức chuyên đề Tập làm văn lớp 3 ,chúng tôi sẽ tổ chức cho khối 2 , 4 , 5 nghiên cứu trình bày về phương pháp giảng dạy Tập làm văn lớp 2 , 4 , 5 để so sánh đối chiếu với phương pháp giảng dạy Tập làm văn lớp 3 hoặc chúng tôi cho nghiên cứu trình bày những ưu điểm hạn chế về phương pháp giảng dạy Tập làm văn chương trình 165 tuần với phương pháp giảng dạy Tập làm văn CTTH - 2000 Ví dụ minh họa : . Tổ chức chuyên đề : - Dạy Tập đọc - Kể chuyện lớp Ba - Luyện từ và câu lớp 2 , 3 . Từ 13h30/ -> 14h10/ : Dự giờ tiết Tập đọc - Kể chuyện bài : "Ở lại với chiến khu" Từ 14h20/ -> 15h00 : Dự giờ tiết Luyện từ và câu lớp 2: Bài Mở rộng vốn từ : Từ ngữ về thời tiết - Thay cụm từ Khi nào ? Từ 15h30/ - > 16h30/ : Các tổ trình bày nội dung đã nghiên cứu ,và thảo luận góp ý tiết dạy . Tổ 4, 5 : Trình bày quy trình dạy Tập đọc lớp Ba . Đối chiếu biện pháp dạy Tập đọc lớp 4 , 5 , rút kinh nghiệm trong việc vận dụng vào dạy Tập đọc lớp 4 , 5 . Tổ 1 : Trình bày quy trình dạy Luyện từ và câu lớp 2 , 3 . Tổ 2 : Nêu sự khác biệt của quy trình , biện pháp dạy Tập đọc và Kể chuyện ở khối Hai và khối Ba . Từ 16h30/ - 17h00 : Chủ tọa chốt lại , tổng kết và chỉ đạo thực hiện dạy Tập đọc - Kể chuyện lớp Ba và Luyện từ - câu lớp 2 , 3 . Cách làm này bắt buộc giáo viên một lần nữa nắm lại mục tiêu , nội dung , phương pháp giảng dạy khối lớp đang dạy ,và khối lớp chưa được phân công dạy , giúp các giáo viên có điều kiện tích lũy chuyên môn để có thể dạy toàn cấp . Chúng tôi cũng đã tập trung vào một số nội dung giảng dạy mà giáo viên đang gặp khó khăn hoặc làm chưa tốt : - Cách trình bày bảng như thế nào cho khoa học , đẹp mắt với từng môn học , từng loại bài ? - Tổ chức các hoạt động dạy học như thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh ?(trong đó đặc biệt chú ý đến đối tượng học sinh yếu) - Tổ chức dạy học theo nhóm như thế nào để đạt hiệu quả ? - Tổ chức trò chơi học tập như thế nào để đạt được mục đích “ chơi mà học"? Chúng tôi đã tổ chức được một số chuyên đề ở các năm học như sau :.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Chuyên đề Toán ,Tiếng việt (luyện từ và câu,Tập đọc ,Tập làm văn,Tập đọc -Kể chuyện,Khoa học ,Lịch sử .... 9. Dự giờ rút kinh nghiệm, tư vấn và thúc đẩy trong công tác chỉ đạo chuyên môn : - Dự giờ để kiểm tra trình độ nghiệp vụ sư phạm : xem xét trình độ nắm vững mục đích , yêu cầu , chương trình , nội dung giảng dạy , vị trí của bài giảng trong chương trình , mức độ nắm vững kiến thức kỹ năng bài dạy , xác định trọng tâm và mức độ thực hiện mục tiêu bài dạy , v.v... - Dự giờ để xem xét năng lực sử dụng phương pháp ( kỹ năng sư phạm ) . Đây là nội dung quan trọng nhất để làm căn cứ xem xét khi đánh giá năng lực sư phạm của giáo viên , vì nếu giáo viên chỉ nắm chắc kiến thức thì chưa đủ làm cho học sinh nắm bài tốt Kế hoạch dự giờ của chúng tôi được vạch ra trên các cơ sở : - Mục tiêu của dự giờ ( như đã nêu trên ) - Phân bố rải đều các tháng trong năm học . - Đủ các môn học , không coi nhẹ môn nào . - Đủ các giáo viên trong khối lớp - Đủ các khối lớp . - Đủ các hình thức : đột xuất , báo trước .. Quan sát giờ dạy lên lớp của giáo viên chúng tôi đặc biệt xem xét đến các khía cạnh mà giáo viên cần thực hiện để giảng dạy theo hướng tích cực như : - Giáo viên có chọn và sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp để phát huy tính tích cực , giúp học chủ động tìm kiếm chiếm lĩnh kiến thức , rèn luyện kĩ năng chưa ? Có quan tâm đối tượng học sinh yếu hay không ? - Các biện pháp giáo viên tổ chức có thúc đẩy học sinh chủ động học tập ? - Nề nếp học tập của học sinh : sử dụng SGK , vở bài tập , các đồ dùng học tập khác ? - Phân phối thời gian có hợp lí hay không ? Có tận dụng tối đa thời gian cho học sinh được làm việc hay không ? - Sử dụng ĐDDH có đúng lúc , đúng mục đích , khoa học, hiệu quả ? Trong năm học chúng tôi đã dự giờ được 100% giáo viên , kiểm tra toàn diện 40% giáo viên . Qua dự giờ chúng tôi đã góp ý , điều chỉnh , rút kinh nghiệm ( tư vấn và thúc đẩy ) để giờ dạy của giáo viên ngày một hoàn hảo hơn . Chúng tôi luôn chia sẻ những việc thành công và những việc chưa thành công trong giờ dạy với giáo viên . Và để nhận xét giờ dạy của giáo viên một cách hiệu quả , chúng tôi quan sát tiết dạy và ghi chép tỉ mỉ , suy nghĩ để nhận xét tiết dạy , để tránh chủ quan , chúng tôi thường nêu một số câu hỏi của cá nhân để hiểu rõ ý định của người dạy . , phương pháp , kết quả ) . Quá trình dự giờ, chúng tôi đã đúc rút được một số tồn tại phổ biến cần khắc phục ở một số giáo viên như : - Còn lệ thuộc nhiều ở sách giáo viên , sách hướng dẫn , thiếu độc lập , sáng tạo từ đó dạy học ít gắn thực tiễn , chưa sát đối tượng học sinh của lớp ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Tổ chức hình thức dạy học theo nhóm chưa đạt hiệu quả , chưa thành kỹ năng , chưa thành nề nếp , còn mang tính hình thức . - Chưa phát huy tính tích cực , chủ động của học sinh , còn làm thay , nói thay học sinh . -Ít chú ý đến các em học sinh yếu ( áp lực về thời gian của tiết dạy) - Phân phối thời gian giữa các phần trong tiết học chưa hợp lý . - Trình bày bảng chưa khoa học, sử dụng ĐDDH chưa đạt hiệu quả - Khi giảng bài , giáo viên chủ yếu dùng lời nói , ít chú ý đến thiết kế hệ thống câu hỏi trong bài soạn dể dẫn dắt học sinh . - Chưa phối hợp tốt các hình thức dạy học , PPDH . Theo phương pháp " Mưa dầm thấm lâu " , chúng tôi tập trung dự giờ nhiều , chân tình góp ý " phát huy ưu điểm , khắc phục hạn chế ", tay nghề giáo viên ngày một nâng cao , tự tin hơn , vững vàng hơn Qua các đợt kiểm tra , thanh tra toàn diện, thanh tra ĐMCTGDPT của Phòng Giáo Dục , Sở Giáo Dục đã đánh giá cao về thực hiện ĐMCTGDPT của trường và kết quả như sau : - Năm học 2003 - 2004 : Phòng Giáo Dục kiểm tra ĐMCTGDPT dự giờ 4 tiết lớp 1 xếp loại Tốt 4/4 tiết - Xếp loại chung : Tốt - Năm học 2004 - 2005 : Phòng Giáo Dục kiểm tra ĐMCTGDPT dự giờ lớp 2 : 4 tiết , xếp loại tốt 4/4 tiết - Xếp loại chung : Tốt - Năm học 2005 - 2006 : Trường chúng tôi đón 3 đoàn kiểm tra ở học kỳ I và kết quả như sau : + Phòng Giáo Dục kiểm tra ĐMCTGDPT dự 6 tiết lớp 3 xếp loại 4 Tốt , 2 khá - Xếp loại chung : Tốt + Sở Giáo Dục Quảng Nam kiểm tra ĐMCTGDPT dự giờ 3 tiết xếp loại Tốt 3/3 tiết , xếp loại thực hiện ĐMCTGDPT của trường loại Tốt . + Đoàn kiểm tra toàn diện của Phòng Giáo Dục dự giờ khối 1 , 2 , 3 : 6 tiết xếp loại Tốt 6/6 tiết , xếp loại chuyên môn của trường : Tốt . -Năm học 2006-2007 :Phòng Giáo dục không kiểm tra 10.Đổi mới trong công tác soạn bài và lên lớp : -Tổ chức cho học sinh tự mình tìm ra kiến thức mới (thao tác lên lớp) Thầy giáo Nguyễn Đình Thực đã từng nói “Ta hãy coi việc dạy một kiến thức mới cũng giống như việc đưa học sinh đi từ tầng trệt lên lầu I của một ngôi nhà "( giả sử cao 3m ) " Hiển nhiên là các em còn non nớt nên không thể nhảy lên cao tới 3m được” Do đó giáo viên phải chia bài học thành những bậc thang nhỏ để học sinhcó thể tự leo lên được.. " Ví dụ , nếu ta làm cái cầu thang có 10 bậc (*) thì mỗi bậc chỉ cao 0,3m . Mọi học sinh nếu cố gắng một chút đều có thể leo lên được Trong giáo dục học , ta gọi việc làm chiếc cầu thang để học sinh tự leo như trên là một sự phân bậc . Nhờ có sự phân bậc này , ta đã tách một việc lớn mà trẻ không thể tự làm được ( leo lên cao 3m ) thành nhiều việc nhỏ , dễ hơn để trẻ có thể tự làm.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> được ( leo lên 10 bậc , mỗi bậc chỉ cao có 0,3m ) . Nơi nào học sinh quá yếu ( kém ) , ta lại phải chia nhỏ hơn nữa . Chẳng hạn phân thành 20 bậc , bây giờ mỗi bậc chỉ cao có 0,15m . Trẻ em , dù là yếu ( kém ) cũng đều có thể tự leo lên được " " Như vậy là tuỳ trình độ học sinh . Nơi nào học sinh khá , giỏi nhiều , ta chia bài học thành ít bậc , lúc này mỗi bậc sẽ cao hơn một chút (trong giáo dục học gọi kiểu này là cách phân bậc thô ) . Nơi nào học sinh yếu , kém nhiều , ta chia bài học thành nhiều bậc , lúc này mỗi bậc sẽ hơi thấp một chút cho vừa sức học sinh ( ta gọi kiểu này là cách phân bậc mịn ) . Có thể nói thực chất việc soạn bài là tạo ra một sự phân bậc , tức là chế ra , một cái cầu thang có các bậc cao vừa phải , phù hợ Cải tiến cách tổ chức cho học sinh hoạt động học tập bằng phát lệnh làm việc và kiểm soát việc làm của học sinh : Quá trình dự giờ giáo viên giáo viên , tôi vẫn thường thấy : - Giáo viên đặt câu hỏi . - Một số học sinh giơ tay . - Giáo viên chỉ vài em trả lời - Giáo viên chỉ vài em nhận xét câu trả lời của bạn Với cách làm như trên , có những hạn chế : - Câu hỏi của giáo viên . Không tác động đến HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP của TỪNG EM . Bởi vì : + Chỉ có một số ít học sinh giơ tay là có suy nghĩ ( hoạt động ) + Chỉ có một ít em được phát biểu ý kiến . + Đa số học sinh còn lại giáo viên không KIỂM SOÁT được các em đang suy nghĩ gì ?  Em nào không chịu suy nghĩ trước câu hỏi của giáo viên ? Giáo viên không biết .  Trong số các em có suy nghĩ : em nào nghĩ đúng , em nào nghĩ sai ? Giáo viên cũng không biết .  Có em mắt vẫn nhìn vào giáo viên rất trật tự nhưng trong đầu các em lại nghĩ vẩn vơ : nào là chơi điện tử , nào là đá banh , nào là đi chơi với bạn v.v... thì giáo viên làm sao biết được ( bởi các em đang nghĩ trong đầu ) Với cách dạy nói trên giáo viên chưa kiểm soát được hoạt động của cả lớp . Chưa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh . - Vấn đề đặt ra là : Làm thế nào để kiểm soát và tổ chức cho tất cả học sinh đều HOẠT ĐỘNG TÍCH CỰC ? + Trong số HS của cả lớp học , em nào không chịu suy nghĩ (không làm việc không hoạt động học tập ) ? Giáo viên cần biết để đôn đốc , nhắc nhở . Em nào có cố gắng suy nghĩ mà không làm nổi ? Giáo viên cần biết để giúp đỡ . + Trong số các em có suy nghĩ ( làm việc ) : em nào nghĩ đúng ( làm đúng ) , em nào nghĩ sai ( làm sai ) ? Giáo viên phải biết để điều chỉnh . Thay vì hỏi (đàm thoại) bằng một lệnh làm việc . Cụ thể là :  Thay câu : " Hãy nêu các từ ngữ miêu tả bộ lông của chú gà trống?.

<span class='text_page_counter'>(11)</span>  Bằng lệnh làm việc : " Hãy gạch 1 gạch dưới những từ ngữ miêu tả bộ lông của chú gà trống! " ( Giáo viên đã hướng dẫn học sinh gạch bằng bút chì để có thể tẩy được , không làm hư sách ) . Sau lệnh này , tất cả học sinh trong lớp đều phải làm việc :  Mắt thì đọc bài , tay thì cầm bút chì , thước gạch dưới những từ ngữ ấy . Trong lúc này giáo viên quan sát cả lớp :  Nếu thấy em nào không cầm bút để gạch một cái gì đó trong bài văn thì biết ngay em đó không chịu làm việc . Giáo viên đến bên cạch để đôn đốc , nhắc nhở , ...  Nếu thấy em nào mắt thì đọc bài toán , tay thì cầm bút chì nhưng cứ loay hoay không biết gạch ở đâu thì biết ngay em đó có cố gắng nhưng không làm nổi . Giáo viên đến bên cạnh để gợi ý , giúp đỡ ...  Trong lúc học sinh làm việc , giáo viên đi sát các em , nhanh mắt quan sát xem các em gạch có đúng không . Hoặc giả , nếu giáo viên muốn biết đích xác học sinh A đã làm đúng hay sai , thì chờ cho đến lúc đa số học sinh trong lớp đã tự gạch xong thì chỉ định em A đọc to cho cả lớp nghe xem đã gạch cái gì ... Như vậy chỉ cần thay đổi đơn giản từ câu hỏi vấn đáp thông thường bằng lệnh làm việc đã giải quyết được vấn đề kiểm soát học sinh , động viên được tính tích cực học tập của 100% học sinh trong lớp . - Trong dạy học . Ta phải tổ chức cho học sinh được thao tác , được trực tiếp làm . Bởi nhờ có làm ( thực hành ) mới nhớ lâu , hiểu sâu . Chuyển từ hình thức trực quan thông thường " thầy làm , trò xem " sang hình thức trực quan mới "trò làm , thầy xem ". .Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh giải toán , sau khi học sinh đọc xong đề toán , giáo viên thường đàm thoại : + Bài toán cho gì ? ( Vài học sinh giơ tay ... Giáo viên chỉ định 1, 2 em đứng dậy trả lời, chẳng hạn :" Bài toán cho: có 27 con gà, số vịt kém số gà 3 lần") + Bài toán hỏi gì ? ( Vài học sinh giơ tay ... giáo viên chỉ định 1 , 2 em đứng dậy trả lời , chẳng hạn : " Bài toán hỏi có tất cả bao nhiêu con gà và vịt ") Đó là cách đàm thoại cũ , nó không phát huy được tính tích cực trong học tập của 100% học sinh . Ta có thể chuyển cách đàm thoại trên bằng cách : Giáo viên nêu câu hỏi dưới dạng một lệnh làm việc : " Hãy gạch dưới những cái bài toán đã cho ! "( Mọi học sinh đều phải : mắt thì đọc đề toán , đầu óc suy nghĩ xem đâu là cái đã cho , tay cầm bút chì gạch chân chúng ) " Hãy gạch hai gạch dưới câu hỏi của bài toán " ( mọi học sinh đều phải tìm xem đâu là câu hỏi trong đề toán để gạch cho đúng ) Như vậy tất cả học sinh đều phải làm việc , em nào không chịu làm việc là giáo viên biết liền và nhắc nhở ngay .(Tiết dạy của cô Hải trong chuyên đề “chống học sinh ngồi nhầm lớp” đã minh họa.).

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Chuyển từ hình thức trực quan " thầy làm , trò xem " sang hình thức trực quan " trò làm , thầy xem " Ví dụ : khi dạy về số tròn chục (lớp 1) Giáo viên lấy một thẻ bìa tượng trưng (1 bó ,một chục) và hỏi :Đây là mấy chục? : " Học sinh trả lời; “Một chục". " như thế ít hiệu quả vì : Giáo viên thì làm ( đưa thẻ) còn học sinh thì chỉ có việc nhìn và nghe giáo viên thông báo . Có em không chịu nhìn mà cũng chẳng chịu nghe , giáo viên cũng không biết ( nếu học sinh đó vẫn giữ trật tự ... ) . Đặc điểm của cách dạy này là : thầy thì làm việc , còn trò chỉ xem thầy làm , chứ không làm .Vì trò không được làm nên cách dạy này không phát huy được tính tích cực của học sinh và như vậy là đã không phát huy được vai trò của đồ dùng dạy học Có thể thay đổi cách dạy trên như sau : - Giáo viên nói : . Hãy lấy bộ thẻ bìa ra ra ! ( Học sinh lấy ) . - Hãy đăt lên bàn môt bó một chục /(cả lớp làm theo ) . - Gọi vài học sinh nhắc lại: Một chục.. Trong cách dạy này 35 học sinh đều tự tay tìm ra được các bó tròn chục :một chuc,hai chục ... Trong khi học sinh làm , giáo viên có thể quan sát để nhắc nhở . Cách dạy như vậy chắc chắn sẽ hình thành được biểu tượng rõ ràng hơn về số tròn chục so với cách dạy cũ . Đặc điểm của cách sử dụng trực quan ở đây là " trò làm , thầy xem " : Học sinh làm là chính ,việc thầy làm chỉ có tính hỗ trợ , làm mẫu để học sinh bắt chước -Soạn bài: Trước đây,qua việc kiểm tra chúng tôi nhận thấy hầu hết giáo viên đã soạn bài theo kiểu đối phó, soạn bài thực chất là “sao chép” SGV,thiết kế chưa thể hiện được việc dạy đến từng đối tượng học sinh nhất là học sinh yếu Các năm học gần đây , theo tinh thần chỉ đạo của cấp trên chúng tôi đã quán triệt đến giáo viên việc soạn bài cốt để dạy chứ không phải để đối phó với kiểm tra . Ngoài việc giáo viên soạn bài bảo đảm các yêu cầu quy định của 1 thiết kế như:: MỤC TIÊU,CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC giáo viên phải bổ sung phần yêu cầu cần đạt đối với học còn yếu của lớp mình. -Phần kiểm tra bài cũ cũng phải có các câu hỏi dễ dành cho HS yếu. Thí dụ: -Tiết Tập đọc lớp 2: Các em yếu thì không thể đọc một đoạn văn như đa số học sinh trong lớp mà chỉ yêu cầu các em đọc một câu, hoặc đọc một số từ có vần mà các em chưa nắm vững ,hoặc khi luyện phát âm thì các em yếu giáo viên phải yêu cầu các em phân tích vần đánh vần rồi mới đọc trơn... -Khi dạy bài Nhân một số với 3 chữ số (Toán 4) thì học sinh yếu chúng ta nên kiểm tra có thể là đọc các bảng nhân,hoặc có thể là cho các em nhân một số với 2 chữ số. Thường thường các em yếu thì lại không có khả năng ghi nhớ nên giáo viên cho học sinh giỏi nêu rồi gọi các em lặp lại ,mỗi khi lặp lại được giáo viên cũng phải khen để các em phấn khởi....

<span class='text_page_counter'>(13)</span> -Phần bài mới: hệ thống câu hỏi để học sinh tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức mới cũng phải có nhũng câu hỏi nhỏ chẻ ra vùa sức với đối tượng này(hỏi những câu đơn giản, phân bậc kiến thức) -Phần luyện tập thực hành : đối với học sinh yếu không thể giải quyết lượng bài tâp như số học sinh đại trà trong lớp mà phải giảm bớt ,có giáo viên còn ra những bài tập riêng vùa sức cho học sinh yếu ( Chúng tôi đã nhiều lần kiểm tra việc làm này của giáo viên qua việc kiểm tra vở của đối tượng học sinh yếu để kịp thời nhắc nhở) Trong thiết kế giáo viên phải định hình học sinh giỏi, khá làm gì ?học sinh trung bình. yếu làm gì? Nói tóm lại là nhiều giáo viên đã thay đổi được cách dạy của mình , đã không bỏ quên các em học sinh yếu bên lề giờ dạy ,quan tâm đến các em nhiều hơn , tạo cho các em sự tự tin để vượt lên chính mình... 11,Tổ chức hội thảo, chuyên đề rút kinh nghiệm về chống học sinh ngồi nhầm lớp.hạn chế học sinh .không đạt chuẩn lên lớp: Sau quá trình thực hiện gần 2 năm,nhà trường đã tổ chứcchuyên đề để rút kinh nghiệm về việc chống học sinh ngồi nhầm lớp,hạn chế học sinh không đạt chuẩnlên lớp, . Nội dung chuyên đề gồm: -Các tiết dạy minh hoạ: Tiết Toán lớp 5 do cô Võ Thị Bích Hải dạy bài “Tính thể tích hình lập phương” và Tiết Tập đọc lớp 2 bài “Voi nhà” do cô Đinh Thị Kiều Hạnh dạy.(Cả 2 lớp đều có học sinh yếu và khuyết tật). - Các báo cáo tham luận: 1.Biện pháp giúp học sinh lớp Một đạt chuẩn kiến thức để lên lớp Hai của tổ Một. 2.Biện pháp giúp học sinh yếu học tốt môn Tiếng Việt và Toán của lớp 2 3.Kinh nghiệm phụ đạo học sinh yếu của khối lớp Bốn. 4.Kinh nghiệm Làm tốt công tác chủ nhiệm góp phần nâng cao chất lượng học tập của cô Trương Thị Nguyệt dạy lớp 5/4 . 5.Báo cáo của bộ phận chuyên môn về rút kinh nghiệm việc dạy học sinh yếu và đánh giá tình hình thực hiện chống học sinh ngồi nhầm lớp,không cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp. Qua báo cáo các kinh nghiệm giáo viên đã học tập lẫn nhau được một số kinh nghiệm trong công tác phụ đạo học sinh yếu ,chống học sinh ngồi nhầm lớp và công tác chủ nhiệm ; -Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý cho các em HSyếu (bàn đầu,ghép học sinh khá ,giỏi để kèm cặp) -Kết hợp với phụ huynh để phụ đạo học sinh yếu. -Đầu buổi học tổ chức ôn các bảng nhân ,chia... -Xây dựng tốt nế nếp lớp. V/KẾT QUẢ;.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Năm học 2006-2007 : tổng số học sinh ngồi nhầm lớp và hổng kiến thức là 16 em ở các khối lớp ,sau 1 năm học tích cực giảng dạy ,phụ đạo các em đã đạt được chuẩn để lên lớp là 15em /16 em Năm học 2007- 2008: Năm học này không có tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp nhưng sau thời gian nghỉ hè một số học sinh lại bị “rét” kiến thức, qua điều tra khảo sát đánh giá thì có 29 em hổng kiến thức (không có học sinh ngồi nhầm lớp). Thống kê số học sinh yếu Toán -Tiếng việt cuối học kỳ I như sau KHỐI TOÁN TIẾNG VIỆT GHI CHÚ I 2em 12em Hs lớp 1 mới HK I chưa kết luận II 2 em 2em 2 hs ktật III 4 em x 1 hs ktật IV 3 em 2 em 2hs ktật V 7 em 2 em 1 hs ktật Đến giai đoạn cuối kỳ I đã có một số em tiến bộ rõ rệt như: Khối 5: Nguyễn Văn Thế lớp 5/3, Nguyễn Thuý Phượng 5/4 ,Vũ Thị Lâm 5/4, Võ Thị Trâm Anh 5/4 . Khối4: Nguyễn Văn Tín 4/1 ,Lê Trung Th ắng 4/3. Khối 3: Lương Minh Phương 3/2,Nguyễn Văn Bảo 3/1,Trần Văn Đông 3/3,Hồ Thị Đan Tâm 3/5,Ngô Thị Phương Thảo 3/4. Khối 2 ;Nguyễn Đức Toàn 2/4, Cao Phạm Xuân Lộc 2/4, Nguyễn Công Hoàng Phụng 2/3., Lương Thảo Nhi 2/1, Trần Tấn Đạt 2/1 IV/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM: 1. Chống HS ngồi nhầm lớp chỉ có hiệu quả khi có sự đồng tâm nhất trí từ các cấp lãnh đạo, giáo viên và phụ huynh. 2. Chống học sinh ngồi nhầm lớp học sinh không đạt chuẩn lên lớp là quá trình lâu dài, cần phải làm triệt để nhưng không vội vàng, nôn nóng. 3. Đổi mới phương pháp giáo dục và đổi mới công tác thi cử, kiểm tra, xử lý thông tin sau kiểm tra là các vấn đề cần thiết để hạn chế học sinh lên lớp chưa đạt chuẩn, chống học sinh ngồi nhầm lớp. 4.Làm tốt công tác chủ nhiệm , điều tra thống kê nắm vững trình độ học sinh , có kế hoạch phụ đạo sát sao, chặt chẽ là điều kiện tốt nhất để chống học sinh ngồi nhầm lớp, giảm tình trạng học sinh chưa đạt chuẩn lên lớp 5.Hằng ngày cần dìu dắt trẻ từng bước tiến bộ,từng bước vựơt qua chính mình ,giúp các em tự tin ,tạo cho các em cơ hội được học, đừng bỏ quên các em yếu bên lề giờ dạy. THAY LỜI KẾT LUẬN: Kính thưa quý vị giám khảo! Kính thưa quý vị đồng nghiệp! Với tinh thần trao đổi học hỏi, chúng tôi đã trình bày những công việc đã làm và kết quả đạt được trong nhiệm vụ triển khai cuộc vận động chống học sinh ngồi.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> nhầm lớp, không cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp tại trường tiểu học Kim Đồng Thăng Bình hai năm qua. Nói như trong giáo dục học "Kinh nghiệm khắc phục những khó khăn và các biện pháp thông thường không giải quyết được hoặc có tác dụng nâng cao hiệu quả rõ rệt công tác giáo dục được coi là những sáng kiến dù nó chưa phải là những phát minh mới mẻ" . Rất mong được nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị giám khảo, của quý vị đồng nghiệp để đề tài được đầy đủ, hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn. Người thực hiện Nguyễn Thị Vân.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Một số vấn đề về đổi mới công tác quản lý giáo dục tiểu học.Đặng Huỳnh Mai. 2. Tạp chí thế giới trong ta các số chuyên đề. 3. Báo Giáo dục và thời đại..

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

×