Một trật tự tài chính thế giới an toàn hơn
Chủ đề của chúng ta hôm nay xoay quanh việc các tổ chức cung cấp dịch vụ tài
chính sẽ xoay sở ra sao với các quyết định phân tích phức tạp trong tương lai?
Theo quan điểm của cá nhân tôi, chủ đề này có ý nghĩa quan trọng với tất cả chúng
ta, vậy lý do là gì? Có thể bạn vẫn chưa quên rằng chính những quyết sách do họ
đưa ra đã phá hủy gần hết cả hệ thống tài chính và nền kinh tế của chúng ta. Cách
các thể chế tài chính đưa ra quyết định về phương thức vận hành và chế độ với
khách hàng chính là trung tâm của cuộc khủng hoảng tài chính chúng ta đang phải
đối mặt.
Người quản lý của những thể chế này đã hoàn toàn phó thác trách nhiệm ra quyết
định của mình cho những mô hình phân tích mà họ còn chẳng hiểu gì. Các nhà
điều hành thì cho phép các ngân hàng, các tổ chức xếp hạng, và những công ty tài
chính phi ngân hàng sản sinh ra hàng triệu triệu các quyết sách tệ kiểu như vậy. Sự
đổi mới tài chính vô tình đã dẫn tới sự vô trách nhiệm trong quá trình ra quyết
định.
Trong những tháng tới, thậm chí là một vài năm tới, đội ngũ các nhà điều hành và
nhà quản lý phải đưa mọi thứ trở lại quỹ đạo – toàn bộ hệ thống, quy trình và
chính sách – để hạn chế tối đa những quyết định xấu không kiểm soát nổi. Vậy,
theo bạn phương thức kiểm soát mới cần phải có những đặc điểm nổi bật nào?
Dưới đây là một vài ý kiến của cá nhân tôi:
Tính minh bạch: Tính minh bạch cao hơn là điều kiện tiên quyết, buộc phải có
trong các mô hình tương lai. Nhà điều hành, nhà quản lý, và trong một số trường
hợp là các khách hàng cần có những hiểu biết nhiều hơn về các quyết định đầu tư
mạo hiểm. Chẳng hạn, nếu chưa rõ ràng về việc một tài sản thế chấp bảo đảm cho
công việc vận hành ra sao, thì nhà điều hành không nên chấp thuận nó; và nhà
quản lý càng không nên triển khai nó. Tôi cho rằng yếu tố minh bạch cao là chìa
khóa then chốt của mô hình điều hành mới khi nó được phát triển.
Mỗi nhà quản lý là một cây sào: Nhà quản lý phải là người hiểu rõ nhất mô hình
tài chính sẽ hoạt động ra sao trước khi chấp thuận nó, họ phải học hỏi về những
mô hình định lượng, và cách thức vận hành của những mô hình này ra sao. Robert
Shiller, nhà kinh tế học của ĐH Yale, là một trong những người có đóng góp
chuyên môn lớn nhất vào việc lý giải khủng hoảng. Trong một cuộc phỏng vấn
gần đây với tuần báo McKinsey, ông phát biểu về vấn đề này như sau:
“Nếu bạn đang quản lý một doanh nghiệp, bạn phải là một người nhạy cảm với các
con số. Những chi tiết định lượng thực sự quan trọng. Và vì thế, bạn phải học cách
quan sát trực diện các mô hình. Nhưng theo tôi, một trong những duyên cớ đưa tất
cả chúng ta vào tình thế hiện nay có lẽ chính là việc chấp nhận một cách mù quáng
uy quyền của người khác – mà nếu xét trong mối quan hệ với các biến số khác của
mô hình kinh tế lượng hay trong mối tương quan với các nhân tố khác đang được
cân nhắc, thì chúng ta thường gán cho nó một giá trị cao hơn thực tế”.
Hiểu về dòng luân chuyển của mô hình. Rất nhiều các mô hình và quyết sách tài
chính được ra lò trong guồng công việc được điện tử hóa. Nếu bạn muốn biết được
tầm ảnh hưởng của chúng bên trong tổ chức ra sao, bạn cần phải biết tiến trình
công việc sẽ đi đến đâu và điều kiện rẽ nhánh là gì. Chẳng hạn, liệu mô hình tín
dụng có phải chỉ được ứng dụng trong những tổ chức cho vay khởi phát không,
hay cả những tổ chức tái cho vay cũng sử dụng chúng?
Dữ liệu phải đầy đủ: Các số liệu bị thiếu sót, về thu nhập của khách hàng là một
ví dụ, khởi điểm chỉ là một nhân tố loại trừ, nhưng về sau này chúng lại trở thành
một thói quen của rất nhiều tổ chức tín dụng. Chúng ta đều biết hậu quả kéo theo
từ thói quen đó là gì. Vì thế, trong tương lai chắc hẳn những nhà băng cận trọng
nhất sẽ không để tình trạng thu thập thiếu thông tin như vậy tái diễn nữa.
Cơ hội luôn đi cùng với rủi ro: Một thực tế đã tồn tại từ lâu trong hệ thống tài
chính là cơ hội và rủi ro thường được xem xét một cách tách rời. Nhưng bất kì
khoản vay hay giao dịch nào cũng đều liên quan tới cả hai yếu tố đó. Thật vô lý
khi xét chúng trên những phương diện độc lập mà không quan tâm tới yếu tố còn
lại – chẳng hạn như trong mô hình “tổng các giá trị ở mức độ rủi ro”. Các tổ chức
tín dụng, xếp hạng và cả những nhà đầu tư đều đã tự lừa mình khi cố chấp cho
rằng họ có thể giành giật được lợi nhuận cao mà không gặp phải sự rủi ro lớn nào.
Các giả định bề mặt: Mỗi mô hình định lượng đều được xây dựng dựa trên các
giả định – giả định về bối cảnh áp dụng, về cơ sở dữ liệu, và về hành vi ứng xử dự
đoán. Có thể lấy ví dụ về một vài giả định tiêu biểu như: “Mô hình bảo đảm tài sản
thế chấp thực sự chỉ phù hợp với những thị trường nơi mà giá nhà ở đang tiếp tục
leo thang”, hay “Mô hình định giá thẻ tín dụng giả định chi phí thanh toán tương
ứng với khoản ngân hàng bỏ ra vào giai đoạn từ năm 2000 đến 2005”.
Chỉ khi nào hiểu rất rõ những giả định đằng sau một mô hình thì bạn mới biết rằng
liệu mình có nên sử dụng nó hay không. Do đó, khi phát triển hay triển khai bất kì
mô hình nào, người chịu trách nhiệm cần liệt kê đầy đủ các giả định được sử dụng,
và không nên mạo hiểm ứng dụng mô hình đó mà không có các giả định đi kèm.
Đương nhiên, kể cả khi nắm rất chắc về các giả định rồi, người ta vẫn có thể đưa
ra các quyết định ngớ ngẩn, nhưng xác suất xảy ra là thấp hơn.
Tóm lại, hàm ý chung ẩn bên trong tất cả những đề xuất mà tôi nêu lên là phải làm
sao ứng dụng tốt những quy tắc tiếp cận quy trình ra quyết định mang nhiều nét
truyền thống này, mà vẫn đảm bảo không bóp nghẹt mầm đổi mới trong sản phẩm
và cơ chế vận hành tài chính.