Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành về truyền thông giáo dục sức khỏe của cán bộ y tế xã, phường – tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.91 KB, 10 trang )

KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHOẺ CỦA CÁN BỘ Y TẾ XÃ, PHƯỜNG
– TỈNH THỪA THIÊN HUẾ NĂM 2011
Lê Trung Quân, Nguyễn Minh Dũng, Hầu Văn Nam, Tôn Thất Hiền,
Thái Văn Khoa, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Phương Huy, Nguyễn Văn Cương
Trung tâm Truyền thơng GDSK tỉnh Thừa Thiên Huế
Tóm tắt nghiên cứu
Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành về truyền thông giáo dục sức khoẻ
(TT-GDSK) của cán bộ y tế xã phường đã phỏng vấn và quan sát 888 người tại Thừa
Thiên Huế. Kết quả cho thấy tỷ lệ thái độ rất đúng chiếm 67,7% nhưng tỷ lệ thực hành
tốt chỉ chiếm 14,3% và khơng có cán bộ y tế (CBYT) nào có kiến thức loại tốt. Vẫn cịn
thiếu hụt về kiến thức: chỉ 7,9% CBYT biết các dấu hiệu cơn sốt rét điển hình, 5,0% biết
được đầy đủ các bước chế biến của một bữa ăn bổ sung. Trong thực hành kỹ năng truyền
thơng, chỉ có 22,1% thực hiện thảo luận để giải quyết khó khăn với đối tượng. Nghiên
cứu chỉ ra mối liên quan giữa tìm hiểu thơng tin y học, tham gia thực hiện và được đào
tạo các các nội dung của chương trình mục tiêu quốc gia về y tế với kiến thức, mối liên
quan giữa thời gian cơng tác, sự hài lịng về mức thu nhập với thái độ và mối liên quan
giữa sự tham gia đóng vai trong tập huấn, có đầy đủ tài liệu truyền thông với thực hành
về TT-GDSK.
1. Đặt vấn đề
Trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ Việt Nam, trạm y tế xã, phường là nơi đầu
tiên người dân tiếp cận khi ốm đau. Nhiệm vụ của trạm y tế xã, phường là tổ chức thực
hiện các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu. CBYT xã, phường có vai trị quan
trọng trong vận động và thực hiện công tác xã hội hố y tế nói chung và đặc biệt là cơng
tác TT- GDSK, các lời khuyên của họ đều thiết thực hữu ích, dễ được người dân chấp
nhận làm theo. Để thực hiện tốt nhiệm vụ TT-GDSK người truyền thông cần được trang
bị kiến thức về y học, kiến thức về tâm lý, khoa học hành vi, đặc biệt là kỹ năng truyền
thông, giao tiếp. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm TT-GDSK Trung ương năm
2004, nguồn cung cấp thông tin sức khỏe đến với người dân thông qua cán bộ y tế là
92,3%, và 65,1% người dân cho rằng nguồn thông tin này là dễ hiểu.
Như vậy, để đáp ứng nhu cầu người dân tìm kiếm thơng tin về sức khỏe và làm sao


để nguồn thơng tin này chính xác, dễ hiểu, dễ được người dân chấp nhận thì cần phải
thường xuyên đào tạo về kiến thức và kỹ năng TT-GDSK cho đội ngũ CBYT.
Trên cơ sở đó, việc đánh giá năng lực hoạt động TT-GDSK của CBYT tại trạm
y tế xã, phường nhằm đưa ra các giải pháp, xây dựng một kế hoạch chương trình đào
tạo kỹ năng TT-GDSK phù hợp cho cho đội ngũ cán bộ y tế xã, phường. Vì vậy, chúng
tơi tiến hành đề tài Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành truyền thông giáo dục sức khoẻ
của cán bộ y tế xã, phường - tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011.
109


2. Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành TT-GDSK của CBYT xã, phường tỉnh Thừa
Thiên Huế.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành TT-GDSK
của CBYT xã, phường tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: CBYT xã, phường, thị trấn của tỉnh Thừa Thiên Huế
3.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng.Thực hành về TT-GDSK của cán bộ y tế xã, phường
Kỹ năng truyền thông trực tiếp là một kỹ năng truyền thông quan trọng mà bất
cứ truyền thông viên (TTV) nào cũng cần được trang bị qua các lớp đào tạo, tập huấn và
thực hiện thường xuyên trong công tác TT-GDSK. Tuy nhiên qua nghiên cứu vẫn còn
một số thiếu hụt trong kỹ năng này cần được tập trung công tác đào tạo, tập huấn trong
thời gian đến. Kết quả thực hành kỹ năng truyền thông trực tiếp, số CBYT đạt loại tốt
và khá rất ít (14,3% và 24,0%), phần lớn vẫn là loại trung bình (42,7%). Vẫn cịn số
CBYT bị loại kém (19,0%).
Kỹ năng hỏi là một kỹ năng quan trọng trong truyền thông trực tiếp bằng cách sử
dụng các câu hỏi mở. Nghiên cứu cho thấy phần lớn CBYT chỉ hỏi 1-2 câu (59,7%), hỏi
3-4 câu chiếm 29,2% và 11,1% người không đặt câu hỏi nào. Về nội dung các câu hỏi thì
tỷ lệ CBYT đặt câu hỏi để tìm ra được những điều đối tượng đã biết (77,4%), tìm ra được
những điều đối tượng đã làm đúng (45,3%), tìm ra được những điều đối tượng đã làm

chưa đúng (40,3%) và tìm ra được những khó khăn đối tượng (19,9%). Nhìn vào kết quả
trên, phần lớn nội dung câu hỏi đều thiên về khai thác sự hiểu biết của đối tượng, còn đi
sâu vào hành vi đúng và chưa đúng hoặc khó khăn khi thực hiện hành vi mới đều rất thấp.
Điều này làm giảm hiệu quả của công tác truyền thông, khi khuyên nhủ đối tượng, CBYT
sẽ chỉ cung cấp thơng tin mang tính một chiều là chính.
Kỹ năng khun nhủ là kỹ năng quan trọng nhất, chiếm nhiều thời gian nhất
trong một cuộc truyền thông trực tiếp và là kỹ năng có liên quan mật thiết đến kỹ năng
hỏi. Nếu khơng hỏi để khai thác tốt thơng tin thì khi khuyên nhủ truyền thông viên sẽ
cung cấp thông tin mang tính 1 chiều hoặc áp đặt một cách chủ quan đối với những điều
đối tượng nên làm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng đã phản ảnh vấn đề trên, nội
dung khuyên nhủ của CBYT phần lớn là bổ sung, cung cấp thông tin (92,1%), kế đến là
hướng dẫn điều cần làm (74,8%) và rất ít CBYT tiến hành thảo luận giải quyết khó khăn
để giúp đỡ đối tượng (22,1%).
Kỹ năng kiểm tra khá đơn giản, dễ làm nhưng đa số CBYT đều bỏ qua, có đến
71,3% khơng thực hiện kỹ năng này. Cùng với tiêu chí đặt câu hỏi kiểm tra (trong kỹ
năng kiểm tra) để đánh giá nhanh về kiến thức của đối tượng có hiểu vấn đề được trao
115


đổi, thì tiêu chí cam kết nhằm đánh giá sự thay đổi thái độ của đối tượng sau khi được
truyền thơng. Đây là kỹ năng khơng khó nhưng chỉ có 24,2% CBYT thực hiện.
5.3. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và TT-GDSK của CBYT
Mức độ kiến thức chung đạt cao hơn ở những CBYT có tham gia vào hoạt động
từ 3 CTMTQGYT trở lên so với CBYT tham gia ít hơn 3 chương trình (33,0% so với
15,1%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy, với kết quả trên ta
cũng có thể đưa ra các khuyến nghị đối với công tác quản lý CTMTQGYT tại TYT.
Trưởng trạm nên luân phiên phân công CBYT tham gia vào các chương trình y tế khác
nhau, ngồi việc phải chịu trách nhiệm thực hiện chương trình, trong công tác truyền
thông, mỗi bản thân CBYT phải tự tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức về các thơng điệp
truyền thông để đáp ứng nhu cầu công việc.

Trong 10 lĩnh vực khảo sát (bao gồm kiến thức, kỹ năng cơ bản về TT-GDSK và
9 CTTMTQGYT), nhóm CBYT có tham gia tập huấn từ 3 lĩnh vực trở lên mức độ kiến
thức chung đạt cao hơn so với CBYT chỉ tham gia tập huấn ít hơn 3 lĩnh vực (27,3% so
với 9,1%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy, công tác đào tạo tập
huấn là quan trọng trong việc nâng cao kiến thức cho CBYT, công tác nên được tiến
hành thường xuyên. Tuy nhiên với nguồn lực hạn chế như hiện nay, cũng cần xây dựng
kế hoạch đào tạo hợp lý, ưu tiên tập trung cho những nhóm đối tượng và chương trình
có kết quả thấp.
Nhóm CBYT có quan tâm tìm hiểu thơng tin y học thì mức độ kiến thức chung đạt
cao hơn (21,1% so với 10,8%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy với
kết quả này, chúng ta có thể đề xuất các hình thức và khuyến khích CBYT dành một ít thời
gian của cơng việc hàng ngày vào việc tìm hiểu thơng tin y học.
Nghiên cứu khơng tìm thấy sự liên hệ nào trình độ chun mơn và kết quả thái
độ chung về TT-GDSK. Tỷ lệ mức độ thái độ rất đúng ở những CBYT có trình độ Đại
học Y Dược là 73,8%, nhóm CBYT có trình độ khác là 66,5% (p>0,05). Điều này có
thể giải thích được là ngồi kiến thức, thái độ có thể chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
khác như niềm tin, kinh nghiệm sống và ảnh hưởng của những người xung quanh.
Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ thái độ chung mức độ rất đúng cao 74,9% ở nhóm
CBYT có thời gian cơng tác từ 5 năm trở lên. Trái lại nhóm CBYT cơng tác dưới 5 năm thì
mức độ thái độ rất đúng thấp hơn (53,8%) (p<0,05). Như vậy cũng có thể thấy rằng khi thời
gian công tác lâu hơn, CBYT tích lũy kinh nghiệm thu được trong cuộc sống, trong cơng việc
hàng ngày và họ càng có thái độ tốt hơn về công tác TT-GDSK.
Tỷ lệ thái độ rất đúng ở những CBYT cho rằng mức thu nhập hàng tháng đủ
đảm bảo nhu cầu cho sinh hoạt, chi tiêu là 83,2%, nhóm cho rằng khơng đủ là 65,6%
(p<0,05). Như vậy, có thể thấy ràng, khi đời sống kinh tế của CBYT được đảm bảo, họ
có thái độ đúng đối cơng tác TT-GDSK.

116



Nghiên cứu không cho thấy sự liên quan nào giữa việc CBYT có đầy đủ trang
thiết bị hay khơng và mức độ thực hành đạt. Nhóm CBYT có đầy đủ trang thiết bị thì
mức độ thực hành đạt là 40,8%, nhóm CBYT có khơng đầy đủ thì mức độ này là 35,7%,
sự khác biệt này khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong khi đó, nhóm CBYT có
đầy đủ tài liệu truyền thơng thì mức độ thực hành đạt chiếm 44,3%, tỷ lệ này cao hơn
nhóm khơng có đầy đủ tài liệu truyền thơng (32,5%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Như vậy có thể thấy rằng tài liệu truyền thơng có thể ảnh hưởng đến kỹ
năng thực hành của CBYT, trong khi đó thiết bị truyền thơng như: âm ly, loa đài…thì
khơng. Điều này có thể giải thích là các trang thiết bị truyền thơng chủ yếu là phương
tiện để chuyển tải thông tin đến người dân, và đặc biệt hiện nay CBYT ít tham gia vào
hoạt động viết bài phát thanh, soạn và đọc các tin tức, nội dung truyền thông chủ yếu
phát từ các băng, đĩa hình tiếng đã được cung cấp sẵn. Trong khi đó tài liệu truyền
thơng ln là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho CBYT trong khi truyền thông trực tiếp. Có
thể là khi có đầy đủ tài liệu truyền thơng, CBYT có hứng thú và giúp cho họ tự tin hơn
trong khi truyền thông, và họ thường xuyên thực hiện cơng tác truyền thơng trực tiếp từ
đó nâng cao kỹ năng thực hành của mình. Nghiên cứu cũng quy định tiêu chuẩn có trên
3 loại tranh lật là tiêu chuẩn bắt buộc để đánh giá trạm y tế có đầy đủ tài liệu truyền
thơng hay khơng vì đây là tài liệu truyền thông quan trọng nhất, chứa đựng nhiều nội
dung, thường được sử dụng nhiều trong truyền thông trực tiếp và bền hơn các loại tài
liệu khác. Từ kết quả nghiên cứu này, cần có kế hoạch tăng cường sản xuất đầy đủ các
chủng loại tài liệu truyền thông, đặc biệt là tranh lật.
Trong số những CBYT có tham dự các lớp tập huấn, đào tạo có nội dung thực
hành kỹ năng truyền thơng (n=570), thì tỷ lệ mức độ thực hành đạt ở nhóm có tham gia
đóng vai thực hành cao hơn nhóm khơng tham gia đóng vai (26,1% so với 7,4%),
(p<0,05). Từ kết quả này, làm cơ sở để xây dựng kế hoạch các lớp tập huấn về kỹ năng
truyền thơng, trong đó chú trọng đến số lượng học viên vừa đủ, không nhiều quá và phải
dành thời gian cho mọi học viên được đóng vai thực hành.
6. Kiến nghị
-


Cần tổ chức đào tạo nâng cao kiến thức và thực hành TT-GDSK cho đội ngũ
CBYT xã phường, tập trung vào nhóm điều dưỡng, kỹ thuật viên, nữ hộ sinh…
Tổ chức nhiều hình thức lồng ghép để CBYT có điều kiện tìm hiểu và cập nhật
thêm thơng tin y học.

-

Xây dựng, biên soạn đầy đủ, cập nhật thông tin tài liệu tập huấn về TT-GDSK
để cung cấp cho tuyến y tế cơ sở.

Lãnh đạo ngành y tế cần có giải pháp để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống
cho CBYT cơ sở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

117


1. Cục Y tế dự phòng (2007), Báo cáo nghiên cứu nhu cầu cơ sở vật chất, trang thiết
bị và nhân lực phòng chống bệnh truyền nhiễm của 60 huyện trong địa bàn dự án
khu vực tiểu vùng sông Mê Kông, Hà Nội, tr.26-39.
2. Nguyễn Tiến Lân (2003), Nghiên cứu tình hình hoạt động của trạm y tế xã tỉnh Kontum năm 2002-2003, Luận án chuyên khoa II, Đại học Y Dược Huế, tr.67.
3. Tạc Văn Nam (2010), “Thực trạng nguồn lực phục vụ công tác truyền thông giáo dục
sức khoẻ của ngành y tế tỉnh Bắc Kạn năm 2007-2008 và đề xuất một số giải pháp
đến 2015”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học về TT-GDSK giai đoạn 2001-2010,
Nhà xuất bản Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội, tr.122-130.
4. Nguyễn Quang Thuận và Cs (2007), “ Một số khái niệm cơ bản về truyền thônggiáo dục sức khỏe’’, Khố học về các kỹ năng truyền thơng- giáo dục sức khoẻ,
Trung tâm TT- GDSK Trung ương, Hà Nội, tr.8-12.
5. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
phịng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006

- 2010, Hà Nội.
6. Trung tâm truyền thông GDSK TW-Dự án Y tế Nông thôn (2010), “Thực trạng
công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ tại 13 tỉnh dự án y tế nông thôn”, Kỷ yếu
các đề tài nghiên cứu khoa học về TT-GDSK giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản
Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội, tr.294-300.
7. Hashim D.S, Al Kubais W. and Al DulaymeA (2003), “Knowledge, attitudes and
practices survey among health care workers and tuberculosis patients in Iraq”,
Eastern Mediterranean Health Journal, Vol. 9, No.4, 2003, p.718-731.
8. Malaria Research Lead Program of the South African Medical Research Council
(2008), Brief report Evaluation of Malaria Health Education Interventions using
Knownledge, Attitudes and Practices (KAP) in South Africa, pp.5.
9. Nighat Nisar, Muddasir Mirza, Majid Hafeez Qadri (2010), “Knowledge, Attitude
and Practices of mothers regarding immunization of one year old child at Mawatch
Goth, Kemari Town, Karachi”, Pak J Med Sci, 26(1), pp.183-186.
10. Nguyen Toan Tran, Richard Taylor, Song Il Choe, Hae Suk Pyo, Ok Suk Kim,
Hyon Chol So (2011), “Knowledge, Attitude and Practice (KAP) Concerning
Cervical Cancer and Screening among Rural and Urban Female Healthcare
Practitioners in the Democratic People’s Republic of Korea” Asian Pacific Journal
of Cancer Prevention, Vol 12, 2011, pp.3023-3028.

118



×