Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nghiên cứu thực trạng xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo dục sức khỏe ở trung tâm y tế dự phòng huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 109 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI



BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ




NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE TUYẾN HUYỆN VÀ XÂY DỰNG
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC
SỨC KHỎE Ở TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG HUYỆN




Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn văn Hiến
Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
Mã số đề tài:




8159


HÀ NỘI 2010
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI







BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE TUYẾN HUYỆN VÀ XÂY DỰNG
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC
SỨC KHỎE Ở TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG HUYỆN




Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn văn Hiến
Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
Mã số đề tài:


Thời gian thực hiện: từ 11/2007 - 4/2010
Tổng kinh phí thực hiện đề tài: 430 triệu đồng
Trong đó kinh phí SNKH: 430 triệu đồng



HÀ NỘI 2010
i


BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ
1. Tên đề tài: “Nghiên cứu thực trạng truyền thông giáo dục sức khỏe tuyến
huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo dục sức khoẻ ở
Trung tâm y tế dự phòng huyện”
2. Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Văn Hiến
3. Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
4. Cơ quan quản lý: Bộ Y Tế
5. Thư ký đề
tài: TS. Lê Thị Tài
6. Phó chủ nhiệm đề tài hoặc ban chủ nhiệm đề tài: không có
7. Danh sách những người thực hiện chính:
TS. Nguyễn Văn Hiến BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN
TS. Lê Thị Tài BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN
ThS. Trần Thị Nga BM Tổ chức và Quản lý y tế, Khoa Y tế công
cộng Trường Đại học YHN
TS. Kim Bảo Giang BM Giáo dục sứ
c khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN
ThS. Phạm Bích Diệp

BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN.
BS. Nguyễn Lập Quyết

Sở Y tế tỉnh Hà Nam
BS. Ngô Văn Sâm Sở Y tế tỉnh Hà nam


BS. Nguyễn Xuân Sỹ

Trung tâm Y tế huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam

CN. Lê Thị Tuyết Phòng Tài chính kế toán trường Đại học YHN

8. Các đề tài nhánh (đề mục) củ
a đề tài: không có
9. Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 4 năm 2010

ii

Môc lôc
Nội dung Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Chương 1: TỔNG QUAN
3
1.1. Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong công tác chăm sóc
sức khỏe
3
1.2. Những đóng góp của hệ thống truyền thông giáo dục sức khỏe trong
thành quả chung của ngành Y tế ở Việt Nam
5
1.3. Các yếu tố làm cho truyền thông giáo dục sức khỏe có hiệu quả 7
1.4. Hệ thống Truyền thông Giáo dục sức khỏe ở Việt Nam 10
1.5. Chỉ đạo của Bộ Y tế về công tác Truyền thông Giáo dục sức khỏe 14
1.6. Nghiên cứu hoạt động truyền thông giáo dục sức khoẻ 15
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
20

2.1. Thiết kế nghiên cứu 20
2.2. Thời gian nghiên cứu 20
2.3. Địa bàn nghiên cứu 20
2.4. Đối tượng nghiên cứu 21
2.5. Chọn mẫu và cỡ mẫu nghiên cứu 22
2.6. Công cụ và phương pháp thu thập thông tin 23
2.7. Nội dung nghiên cứu chính 24
2.8. Xây dựng mô hình can thiệp 25
2.9. Phân tích số liệu 27
2.10. Sai số và cách khống chế 27
2.11. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu 27
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
30
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu 30
3.2. Thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực của các phòng
TT-GDSK
32
3.3. Thực trạng về hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện hiện nay 37
3.4. Những thuận lợi khó khăn trong thực hiện hoạt động TT-GDSK ở
tuyến huyện hiện nay
40


iii

3.5. Ý kiến đề xuất về xây dựng phòng TT-GDSK Hoạt động tại trung
tâm y tế huyện
45
3.6. Kết quả xây dựng và hoạt động của phòng TT-GDSK huyện Bình
Lục

49
Chương 4. BÀN LUẬN
66
4.1. Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực của phòng
TT-GDSK thuộc Trung tâm y tế huyện
66
4.2. Thực trạng hoạt động TT-GDSK tuyến huyện 70
4.3. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động TT-GDSK ở tuyến
huyện

73
4.4. Hoạt động xây dựng và đánh giá mô hình thí điểm Phòng TT-GDSK
tại huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam
77
4.5. Ảnh hưởng của phòng TT-GDSK đến hoạt động TT-GDSK ở tuyến
xã và kiến thức, thực hành của dân về một số vấn đề sức khỏe, bệnh tật
thường gặp
81
4.6. Một số hạn chế của nghiên cứu 83
KẾT LUẬN
84
KHUYẾN NGHỊ
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
PHỤ LỤC
93










iv

BẢN TỰ ĐÁNH GIÁ
Về tình hình thực hiện và những đóng góp mới
của đề tài khoa học & công nghệ cấp bộ
1. Tên đề tài: “Nghiên cứu thực trạng truyền thông giáo dục sức khỏe tuyến
huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo
dục sức khỏe ở trung tâm y tế dự phòng huyện”.
• Mã số:
2. Thuộc chương trình (nếu có): Tuyển chọn
3. Chủ nhiệ
m đề tài: TS. Nguyễn Văn Hiến
4. Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
5. Thời gian thực hiện (BĐ-KT): 11/2007 - 4/2010
6. Tổng kinh phí thực hiện Đề tài: 430 triệu đồng
Trong đó, kinh phí từ NSNN: 430 triệu đồng
7. Tình hình thực hiện đề tài so với đề cương:
7.1. Về mức độ hoàn thành khối lượng công việc: Đã hoàn thành đầy đủ khối
lượng công việc như
đã viết trong đề cương với các sản phẩm:
- Hoàn thành báo cáo tổng kết đề tài trên 90 trang với các số liệu đảm bảo tính
khoa học và tin cậy.
- Công bố 8 bài báo khoa học trên 3 tạp chí là: 03 bài trên tạp chí Y học thực
hành, 02 bài trên tạp chí Y học Việt Nam và 02 bài trên tạp chí Nghiên cứu y học,

01 bài trên tạp chí Y học dự phòng.
- Hướng dẫn hai khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên y đa khoa đã bảo vệ
đạt loại xuất s
ắc.
- Một đề cương luận văn cao học đã thông qua hiện đang thực hiện.
- Một đề cương nghiên cứu sinh đã thông qua hiện đang thực hiện.
7.2. Về các yêu cầu khoa học và chỉ tiêu cơ bản của các sản phẩm KHCN:
Thực hiện đầy đủ và đảm bảo chất lượng khoa học.
7.3. Về tiến độ thực hiện:
Thực hiện đ
úng tiến độ theo đề cương nghiên cứu được phê duyệt và sự gia hạn
của Bộ y tế.

v

8. Về những đóng góp mới của đề tài:
Nghiên cứu về TT-GDSK gần như là lĩnh vực mới ở Việt Nam, các số liệu đã
được công bố của đề tài trên các tạp chí khoa học đều là các thông tin mới. Khi
so sánh với các thông tin và số liệu đã được công bố trên các ấn phẩm trong và
ngoài nước đến thời điểm kết thúc đề tài, đề tài có những điểm mới sau đây:
8.1. Về gi
ải pháp khoa học - công nghệ
8.1.1. Lần đầu tiên chúng tôi đưa ra các số liệu đáng tin cậy về thực trạng
nguồn lực của các phòng truyền thông giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK) và hoạt
động TT-GDSK ở tuyến huyện của 6 tỉnh/thành phố. Các kết quả về thực trạng
nguồn lực và hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện cho thấy hiện nay các phòng
TT-GDSK rất thiếu về nguồn lực, nhất là ngu
ồn nhân lực vì thế chưa đáp ứng
được nhiệm vụ chuyên môn được giao. Hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện
được thực hiện đa dạng nhưng chất lượng còn hạn chế do năng lực cán bộ hạn

chế, phần lớn chưa được đào tạo kiến thức và kỹ năng TT-GDSK.
8.1.2. Mô tả được các thuận lợi, khó khăn trong hoạt động TT-GDSK ở tuyến
huy
ện:
Thuận lợi: Những thuận lợi chính đối với hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện
là phòng TT-GDSK được thành lập là cơ sở pháp lý để đẩy mạnh triển khai các
hoạt động TT-GDSK ở huyện. Do có tổ chức chịu trách nhiệm về hoạt động
TT-GDSK nên cán bộ được bố trí cho hoạt động TT-GDSK rõ ràng hơn. Nhóm
tuổi 31-45 tuổi: chiếm 43,2%, đây là nhóm tuổi trẻ, nhiệt tình, thời gian làm
việc còn dài,
đây cũng là nhóm tuổi đã có số năm công tác nhất định, tích lũy
được kinh nghiệm, kiến thức trong công việc. Hoạt động TT-GDSK có sự trợ
giúp của đội ngũ cộng tác viên đông đảo và nhiệt tình ở địa phương. Một thuận
lợi khác được tỷ lệ lớn cán bộ nhấn mạnh là: Hoạt động TT-GDSK của huyện
được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp là một thuận lợ
i rất lớn. Có sự phối hợp
với các ban ngành đoàn thể và phối hợp liên ngành giúp làm giảm những khó
khăn do thiếu nhân lực. Hoạt động TT-GDSK được chỉ đạo theo ngành dọc từ
tuyến trung ương đến tuyến huyện, đây là thuận lợi rất cơ bản.
Khó khăn: Các khó khăn chung của huyện đề cập đến nhiều nhất là thiếu nhân
lực; sau đó là thiếu TTB, phương ti
ện, thiếu tài liệu/ấn phẩm; thiếu cơ sở vật
chất; thiếu kinh phí. Rất ít cán bộ muốn lựa chọn công tác ở phòng TT-GDSK
vi

vì theo ý kiến của cán bộ được phỏng vấn thì đây là lĩnh vực mà điều kiện làm
việc còn rất khó khăn, thu nhập lại thấp. Tình trạng phổ biến ở các phòng
TT-GDSK là các cán bộ đều mới làm công tác TT-GDSK: >90% có thâm niên
≤2 năm, chưa được đào tạo/tập huấn gì, 89,9% cán bộ nêu ý kiến họ thiếu kiến
thức kỹ năng TT-GDSK. Phòng TT-GDSK có cán bộ trình độ đại học chiếm tỉ lệ

th
ấp dưới 40%.
8.1.3. Đề xuất mô hình phòng TT-GDSK và thực hiện đánh giá kết quả bước
đầu xây dựng phòng TT-GDSK ở huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam
8.1.3.1. Xây dựng mô hình phòng TT-GDSK tuyến huyện
Căn cứ vào Nghị định số 172/2005/NĐ-CP quy định về tổ chức cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh và dựa
trên kết quả điều tra thực trạng, các ý kiến đề xuấ
t của các cán bộ trong lĩnh vực
TT-GDSK, sau hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia về xây dựng phòng
TT-GDSK chúng tôi đề xuất các hoạt động xây dựng phòng TT-GDSK như sau:
- Thành lập phòng Truyền thông giáo dục sức khỏe thuộc Trung tâm y tế huyện.
- Cơ cấu nhân sự cho phòng: 4 cán bộ, một trưởng phòng, một phó phòng và 2
nhân viên.
- Sắp xếp địa điểm làm việc độc lập cho phòng truyền thông GDSK.
- Cung cấp trang thiết bị cần thiết cho hoạ
t động của phòng TT-GDSK huyện và
cho hai trạm y tế xã thực hiện thí điểm.
- Xây dựng chức năng nhiệm vụ và triển khai các hoạt động của phòng TT-GDSK,
trong đó chú trọng đến chức năng quản lý của phòng TT-GDSK.
- Đào tạo các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cán bộ phòng TT-GDSK và cán
bộ y tế xã.
8.1.3.2. Các kết quả xây phòng TT-GDSK
- Sở Y tế Hà Nam đã ra quyết định thành lập Phòng TT-GDSK để đảm b
ảo tính
pháp lý chính thức cho phòng đi vào hoạt động (phụ lục 2)
- Cơ cấu nhân sự của phòng gồm 4 người: trưởng, phó phòng và 2 nhân viên.
- Sắp xếp địa điểm làm việc độc lập cho phòng truyền thông
- Cung cấp trang thiết bị: Thực hiện việc mua các trang thiết bị cần thiết cho
hoạt động của phòng TT-GDSK huyện và cho 2 trạm y tế xã thực hiện thí điểm

dựa trên kết quả khảo sát nhu cầ
u thực tế (phụ lục 8).
vii

- Thảo luận xây dựng chức năng nhiệm vụ cụ thể làm cơ sở cho triển khai các
hoạt động của phòng TT-GDSK (phụ lục 3).
- Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ của phòng (phụ lục 4).
- Thực hiện đào tạo để trang bị kiến thức, kỹ năng về TT-GDSK cho cán bộ, là
điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh các hoạt động TT-GDSK trong huyệ
n.
- Phòng TT-GDSK xây dựng kế hoạch hoạt động theo tháng, quý, năm, chú
trọng đến cả các hoạt động TT-GDSK định kỳ theo chủ đề và đột xuất khi có
nhu cầu, đồng thời hướng dẫn các trạm y tế xã cùng xây dựng kế hoạch.
- Phân công cán bộ phòng TT-GDSK thực hiện theo dõi/giám sát hàng tháng để
hỗ trợ, đào tạo cho cán bộ y tế xã/thôn là hoạt động rất hiệu quả.
- Ban giám đốc TTYT huyện chỉ đạo hoạt
động phối hợp, lồng ghép TT-GDSK
theo các chương trình y tế và phối hợp các cán bộ các khoa chuyên môn của
TTYT huyện cùng tham gia thực hiện TT-GDSK.
- Thống nhất trưởng TYT các xã chịu trách nhiệm phụ trách công tác TT-GDSK.
- Thực hiện giao ban chuyên đề về TT-GDSK trong giao ban hàng tháng của
trưởng TYT với TTYT huyện. Thông qua giao ban thực hiện đào tạo, chia sẻ
kinh nghiệm và động viên khuyến khích cán bộ đẩy mạnh công tác TT-GDSK ở
xã/thôn.
- Khi so sánh một số hoạt động TT-GDSK năm 2008 (chưa có phòng TT-GDSK)
và năm 2009 (có phòng TT-GDSK) t
ại các xã mà trưởng TYT đã nêu cho thấy
hoạt động TT-GDSK ở các xã năm 2009 đã có các bước phát triển tốt hơn năm
2008.
- Những thay đổi chính trong hoạt động TT-GDSK mà các trưởng TYT xã nêu

ra là: Số cán bộ TYT xã được đào tạo về kiến thức kỹ năng TT-GDSK năm
2009 đã tăng lên 2 lần so với năm 2008, số cán bộ đánh giá kỹ năng TT-GDSK
của cán bộ ở mức độ khá năm 2009 cũng tăng lên h
ơn 2 lần so với năm 2008.
Các hoạt động TT-GDSK cả trực tiếp và gián tiếp năm 2009 đều tăng có ý
nghĩa thống kê so với năm 2008.
- Ảnh hưởng của việc đẩy mạnh hoạt động TT-GDSK ở các xã cũng đã có tác
động đến thay đổi kiến thức thực hành của dân về một số vấn đề sức khoẻ bệnh
tật thường gặp ở cộng đồ
ng.

viii

8.2. Về phương pháp nghiên cứu
- Chọn lựa được phương pháp nghiên cứu phù hợp với tình hình thực tế và tính
chất của đề tài. Chúng tôi đã kết hợp phương pháp nghiên cứu mô tả với nghiên
cứu can thiệp, sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính,
trong đó có sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia để xây dựng phòng
TT-GDSK và đánh giá kết quả cũng như đề xuất để hoàn thiệ
n xây dựng phòng
TT-GDSK của TTYT huyện.
- Xây dựng bộ công cụ nghiên cứu bao gồm bộ câu hỏi cho nghiên cứu định
lượng và các hướng dẫn cho nghiên cứu định tính để đánh giá thực trạng hoạt
động TT-GDSK ở tuyến huyện và xã, cũng như để thu thập thông tin sau khi
thực hiện hoạt động can thiệp xây dựng phòng TT-GDSK.
- Đề xuất xây dựng mô hình phòng TT-GDSK và đã thực hiện các hoạt động
triển khai mô hình phòng TT-GDSK ở huyện Bình L
ục. Trong đó có các hoạt
động chính là đào tạo cán bộ.
- Các kết quả bước đầu đã cho thấy phòng TT-GDSK được thành lập và đi vào

hoạt động đã có ảnh hưởng tích cực đến các hoạt động TT-GDSK trong huyện
Bình Lục. Các hoạt động và quản lý hoạt động TT-GDSK từ huyện đến xã, thôn
của huyện Bình Lục đã đi vào nề nếp và chất lượng đang được tiếp tục nâng cao.
- S
ở Y tế tỉnh Hà Nam đánh giá cao hoạt động phòng TT-GDSK tại huyện Bình
Lục và đã có chỉ đạo phổ biến mở rộng áp dụng mô hình phòng TT-GDSK
huyện Bình Lục ra tất cả các huyện/thành phố của tỉnh Hà Nam (Phụ lục 6).
8.3. Những đóng góp mới khác:
Đóng góp cho sự nghiệp khoa học: Đã công bố 8 bài báo trên các tạp chí khoa
học của ngành, qua đó nhiều người có thể tham khảo các kết quả nghiên cứu
c
ủa đề tài.
Đóng góp cho đào tạo đại học và sau đại học:
- Đào tạo được 2 bác sĩ đa khoa làm khóa luận tốt nghiệp đó là:
• Tên khóa luận 1: Thực trạng hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
tại tuyến huyện của 6 tỉnh/thành phố: Yên Bái, Hà Nam, Đắc Lắc, Tiền
Giang, Hải Phòng và Cần Thơ Năm 2008. Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị
Thu Trang; Khóa 2003-2009; Tổ 14 Y6D; Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Tài.
ix


Tên khóa luận 2: Hoạt động Truyền thông giáo dục sức khỏe và kiến thức,
thực hành của dân về một số vấn đề sức khỏe bệnh tật tại xã Đồng Du và
Tràng An huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam năm 2008. Sinh viên thực hiện:
Trần Vũ Hoàng khóa 2003-2009; Tổ 14 Y6D; Người hướng dẫn: TS.
Nguyễn Văn Hiến.
- Xây dựng được một đề cương nghiên cứu sinh cho một thành viên của nhóm
nghiên cứu là ThS. Tr
ần Thị Nga, nghiên cứu sinh chuyên ngành Y tế Công
cộng khóa 27 của Trường Đại học Y Hà Nội, đề cương đã được thông qua, hiện

nay nghiên cứu sinh đang thực hiện đề tài nghiên cứu.
- Xây dựng một đề cương cho một thạc sỹ: Nguyễn Bích Ngọc; học viên cao
học Y tế Công cộng khóa 17 của Trường Đại học Y Hà Nội, đề cương đã được
thông qua, hiện nay học viên đang thực hiện
đề tài nghiên cứu.
Ngày 28/4/2010 đề tài đã được Hội đồng khoa học công nghệ nghiệm thu cơ sở
đề tài cấp Bộ đánh giá đạt mức A (xuất sắc).
Ngày 18/6/2010 đề tài được Hội đồng khoa học công nghệ nghiệm thu cấp Bộ
đánh giá đạt mức A (xuất sắc).


Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 2010
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
(Họ, tên và chữ ký)




Nguyễn Văn Hiến








x





Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t

BHYT Bảo hiểm y tế
BVSK Bảo vệ sức khỏe
BVTV Bảo vệ thực vật
CMNV Chuyên môn nghiệp vụ
CSSK Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ Chăm sóc sức khỏe ban đầu
CT/DA Chương trình/Dự án
ĐB Đồng bằng
ĐT Đô thị
GDSK Giáo dục sức khỏe
LĐ Lãnh đạo
LKH Lập kế hoạch
MN Miền núi
NĐTP Ngộ độc thực phẩm
NS-VSMT Nước sạch -Vệ sinh môi trường
PV Phỏng vấn
TCC Tiêu chảy cấp
TCYTTG Tổ chức y tế thế giới
TLN Thảo luận nhóm
TTB Trang thiết bị
TT-GDSK Truyền thông Giáo dục sức khỏe
TTYT Trung tâm y tế
TTYTDP Trung tâm y tế dự phòng
TYT Trạm Y tế

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) có vai trò quan trọng
trong công tác chăm sóc sức khỏe (CSSK) cộng đồng vì thế đã được Tổ chức
y tế Thế giới (TCYTTG) xếp là nội dung số một trong các nội dung về Chăm
sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) [6], [40]. Ở nước ta nhận thức được vai trò
quan trọng của TT-GDSK trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, Đảng, Nhà
nước và Bộ Y tế rất quan tâm
đến hoạt động TT-GDSK. Nghị quyết số 46-
NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị đã khẳng định công tác
thông tin, truyền thông, giáo dục sức khỏe là một trong những nhiệm vụ quan
trọng và giải pháp chủ yếu để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân trong tình hình mới [1]. Truyền thông giáo dục sức khỏe góp phần tích
cực trong tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
về y tế
, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để mỗi người, mỗi gia đình,
mỗi cộng đồng có thể chủ động phòng bệnh, xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn
luyện thân thể, hạn chế những lối sống và thói quen có hại với sức khỏe,
phòng chống dịch bệnh và tham gia hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tại
cộng đồng, góp phần t
ạo ra sự bình đẳng trong CSSK [5].
TT-GDSK là hoạt động mang tính xã hội và áp dụng các phương pháp hợp lý
để thông tin và gây tác động đến quyết định của mỗi cá nhân và cộng đồng
nhằm nâng cao sức khỏe (NCSK), bao gồm quá trình giúp đỡ, động viên để
mọi người hiểu được vấn đề sức khỏe của họ và từ đó lựa chọn được cách giải
quyết vấn đề thích hợp. TT-GDSK là một quá trình thường xuyên, liên tục và
lâu dài, nó tác
động đến ba lĩnh vực của đối tượng được TT-GDSK: kiến thức
của đối tượng về vấn đề sức khỏe, thái độ của đối tượng đối với vấn đề sức
khỏe và thực hành hay hành vi ứng xử của đối tượng để giải quyết vấn đề sức

khỏe, bệnh tật [12], [14].
Hiện nay ở nước ta hệ thống TT-GDSK đã được hình thành từ tuyến trung
ương đến tuyến cơ sở. Tuy nhiên, tổ chức phòng TT-GDSK của Trung tâm y
tế (TTYT) huyện chỉ mới được hình thành theo Nghị định của Chính phủ số
172/2005/NĐ-CP [10], [9]. Theo chương trình hành động TT-GDSK đến
năm 2010 do Bộ trưởng Y tế phê duyệt, tuyến huyện là tuyến có vai trò quan
trọng trong chỉ đạo và thực hiện chương trình hành động TT-GDSK [8]. Để
có thể đảm nhậ
n các chức năng nhiệm vụ của phòng TT-GDSK và tổ chức

2
thực hiện, quản lý tốt các hoạt động TT-GDSK trên địa bàn huyện, phòng
TT-GDSK phải có đủ các điều kiện tối thiểu về nguồn lực. Trước hết cần có
đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và được đào tạo kiến thức, kỹ năng TT-
GDSK. Bộ Y tế-Bộ Nội vụ cũng đã có Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-
BYT-BNV, ngày 05/6/2007 hướng dẫn định mứ
c biên chế sự nghiệp trong các
cơ sở y tế nhà nước [13], nhưng thực tế tình hình nhân lực của các phòng TT-
GDSK thuộc TTYT huyện hiện nay như thế nào? Liệu đội cán bộ có đủ năng
lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình không? Họ cần được đào tạo và
quản lý như thế nào để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chuyên môn? Mặt khác, để
thực hiệ
n tốt nhiệm vụ, phòng TT-GDSK cũng cần có cơ sở vật chất, trang
thiết bị/phương tiện tối thiểu để thực hiện TT-GDSK. Điều quan trọng khác là
phòng TT-GDSK phải có những quy định cụ thể về phân công nhiệm vụ, xây
dựng kế hoạch và cơ chế hoạt động, quản lý thích hợp. Nhưng hiện nay chúng
ta còn thiếu thông tin về các vấn đề này để có thể xác định cụ th
ể hơn nhu cầu
về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị/phương tiện cho thực hiện TT-GDSK
ở tuyến huyện như thế nào? Mô hình hoạt động của phòng TT-GDSK tuyến

huyện như thế nào là thích hợp? Đây là các câu hỏi đặt ra cần được trả lời. Để
cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch và xây dựng các phòng TT-GDSK
chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu thực trạng truy
ền thông giáo dục sức
khỏe tuyến huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo dục
sức khỏe ở trung tâm y tế dự phòng huyện”.
Nghiên cứu này tìm hiểu những khía cạnh thực tế hiện nay liên quan đến hoạt
động TT-GDSK tại tuyến huyện và đề xuất mô hình phòng TT-GDSK của
TT-YTDP huyện với mong muốn đẩy mạnh hoạt động TT-GDSK tại tuyến
huyện, góp phần tích cực nâng cao sức khỏe c
ộng đồng.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá thực trạng về nguồn lực, tổ chức và hoạt động TT-GDSK
khỏe của Trung tâm Y tế Dự phòng huyện.
2. Xác định các yếu tố tăng cường và hạn chế năng lực hoạt động của
Phòng TT-GDSK huyện thuộc Trung tâm Y tế dự phòng huyện.
3. Thực hiện và đánh giá mô hình thí điểm Phòng TT-GDSK tại một
huyện
đồng bằng.





3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong công tác chăm sóc
sức khỏe

Truyền thông Giáo dục sức khỏe được xếp là nội dung số một trong các nội
dung CSSKBĐ mà hội nghị Alma Ata năm 1978 về CSSKBĐ đã nêu ra.
Nhiều tài liệu của TCYTTG đã đề cập đến vai trò quan trọng của TT-GDSK
trong CSSKBĐ [6], [14]. Để đẩy mạnh công tác CSSK nói chung và
CSSKBĐ nói riêng có thể lựa chọn hai giải pháp, gi
ải pháp thứ nhất là đầu tư
cho đào tạo nhiều loại hình cán bộ y tế để mở rộng thực hiện các nhiệm vụ
CSSK cho nhân dân; Giải pháp thứ hai là cung cấp các kiến thức, nâng cao
trình độ hiểu biết để mọi người có thể tự CSSK cho mình, cho gia đình và cho
cộng đồng. Thực tế cho thấy các cá nhân, gia đình và cộng đồng đưa ra hầu
hết các quyết định CSSK cho họ chứ không phải cán b
ộ y tế. Chính vì vậy,
giải pháp thứ hai mang tính khả thi cao, được nhiều người ủng hộ vì giá thành
đầu tư thường thấp và được nhân dân chấp nhận. Lựa chọn giải pháp thứ hai
có nghĩa là phải đẩy mạnh các hoạt động TT-GDSK ở các tuyến, nhất là tuyến
cơ sở vì TT-GDSK là quá trình giúp đỡ, động viên để mọi người hiểu và chọn
được cách giải quyết thích hợp nhất vấn đề sức kh
ỏe của họ [12], [14], [45].
TT-GDSK là một quá trình cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu
dài, kết hợp nhiều phương pháp. Hoạt động TT-GDSK không phải chỉ đơn
thuần là phát đi các thông tin hay thông điệp về sức khỏe, hay cung cấp thật
nhiều thông tin về sức khỏe cho mọi người, mà là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch vào con người nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và cách
thực hành của mỗi người nh
ằm NCSK cho họ và cho cả cộng đồng. Hoạt
động TT-GDSK thực chất là tạo ra môi trường hỗ trợ cho quá trình thay đổi
hành vi sức khỏe của mỗi người nhằm đạt được tình trạng sức khỏe tốt nhất
có thể được [39].
Sự tập trung của TT-GDSK là vào lý trí, tình cảm và các hành động nhằm
thay đổi hành vi có hại, thực hành hành vi có lợi mang lại cuộc sống khỏe

mạnh, hữu ích cho mọi người. TT-GDSK cũng là ph
ương tiện hỗ trợ nhằm

4
phát triển ý thức con người, phát huy tính tự lực cánh sinh và chủ động phòng
ngừa và giải quyết vấn đề sức khỏe của cá nhân và cộng đồng [36].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về
những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
đã khẳng định nhiệm vụ quan trọng của TT-GDSK: “ làm t
ốt công tác tuyên
truyền, giáo dục sức khỏe và hỗ trợ về mặt kỹ thuật - chuyên môn, để nhân
dân tự giác, chủ động xây dựng nếp sống trật tự, vệ sinh, có ý thức phòng
bệnh, phòng dịch, bảo vệ môi trường, môi sinh, thường xuyên rèn luyện thân
thể và tham gia tích cực vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe ở cơ sở”.
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị xác
định rõ vai trò của TT-GDSK trong tình hình m
ới: Truyền thông giáo dục sức
khỏe “Tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị đối với công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân, trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng
có thể chủ động phòng bệnh, xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn luyện thân th
ể,
hạn chế những lối sống và thói quen có hại với sức khỏe, tham gia tích cực
các hoạt động bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân ” [1].
Nhiệm vụ của TT-GDSK là làm cho mọi người thay đổi các hành vi sức khỏe
có hại, thực hành các hành vi, lối sống lành mạnh. Quá trình thay đổi hành vi
thường diễn ra một cách phức tạp, quá trình này chịu tác động của rất nhiều
yếu tố bên trong và bên ngoài, diễn ra qua nhiều giai đo
ạn [12], [14], [36].
Hầu hết các vấn đề sức khỏe không thể chỉ giải quyết bằng thuốc hay các

phương pháp điều trị, mà cần kết hợp với các biện pháp khác trong đó có vai
trò quan trọng của TT-GDSK và các hoạt động tư vấn hỗ trợ thay đổi hành vi
và duy trì hành vi lành mạnh [31], [41]. Chẳng hạn như chương trình CSSK
bà mẹ và trẻ em trong đó có dân số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam đã
thu đượ
c nhiều kết quả tốt, phải nói đến sự đóng góp rất lớn cho thành công
của chương trình này đó là hoạt động truyền thông dân số [15].
Hoạt động TT-GDSK không thay thế được các dịch vụ CSSK khác, nhưng nó
góp phần nâng cao hiệu quả của các dịch vụ CSSK khác. Đầu tư cho TT-GDSK
chính là đầu tư có chiều sâu, lâu dài cho công tác bảo vệ và NCSK. Hoạt động
TT-GDSK thể hiện quan điểm dự phòng trong CSSK, mang lại hiệu quả lâu
dài, b
ền vững vì nếu mọi người có hiểu biết và có những kỹ năng nhất định về

5
phòng chống bệnh tật, NCSK, họ có thể chủ động quyết định hành vi CSSK
đúng đắn. Hiện nay, rất nhiều chương trình CSSK sẽ không thể thành công
nếu không chú trọng đến vai trò của TT-GDSK nhằm thay đổi các hành vi
liên quan đến sự tồn tại của các vấn đề sức khỏe, bệnh tật.
1.2. Những đóng góp của hệ thống truyền thông giáo dục sức khỏe trong
thành quả chung của ngành Y tế ở Việt Nam
TT-GDSK được đánh giá là có vai trò vô cùng quan trọng trong công tác
CSSKBĐ. Nhờ có TT-GDSK mà tất cả mọi người dân trong cộng đồng đều
có cơ hội tiếp cận với những thông tin, những kiến thức và dịch vụ chăm sóc
sức khỏe cho họ. Việt Nam là một trong các nước đã tham dự và cam kết thực
hiện các mục tiêu của Tuyên ngôn Alma-Ata về CSSKBĐ năm 1978. Năm
1980 Chính phủ chỉ đạo ngành y tế triển khai thực hi
ện Chiến lược chăm sóc
sức khỏe ban đầu. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, với nguyên tắc cơ
bản là đảm bảo phục vụ nhân dân tốt nhất và có hiệu quả cao, các cơ sở y tế

trong ngành y tế của nước ta đã có khả năng đáp ứng được nhu cầu CSSK
thiết yếu cho nhân dân.
Năm 1999, trong công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học của B
ộ Y tế
và Bộ Quốc phòng đã tiến hành đánh giá 20 năm thực hiện CSSKBĐ ở Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu khẳng định: Trong 20 năm thực hiện CSSKBĐ
nước ta đã triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả cả 10 nội dung
CSSKBĐ, góp phần cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân dân ta ngang tầm
với một số nước trên thế giới và trong khu v
ực có mức thu nhập cao hơn nước
ta nhiều lần. Trong báo cáo kết quả nghiên cứu đã nêu hai nhận xét quan
trọng về vai trò của TT-GDSK: Một là công tác TT-GDSK khỏe ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân. Hai là TT-GDSK là sự nghiệp của cả cộng đồng, trong đó ngành Y tế giữ
vai trò nòng cốt và các Trung tâm TT-GDSK sức khỏe là hạt nhân [23].
Công tác TT-GDSK trong những năm qua đã có đóng góp to lớn trong thành
quả chung củ
a ngành Y tế. Cả hệ thống truyền thông đã góp phần cùng với
các đơn vị ngành y tế làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, khắc phục hậu
quả của thiên tai, thảm hoạ, những nỗ lực trong việc giảm quá tải tại bệnh
viện, chuyển tải một số nội dung và chính sách của Đảng, Nhà nước, của
ngành y tế về công tác y tế đến được người dân. Nhìn chung, hoạt động c
ủa

6
các Trung tâm TT-GDSK tại các tỉnh/thành phố đã dần mang tính chủ động,
có định hướng và hệ thống từ tuyến tỉnh đến tuyến cơ sở. Năm 2006, Bộ Y tế
cũng đã triển khai hội thảo tổng kết hoạt động giáo dục sức khỏe trong bệnh
viện và cũng đã đề cập đến nhu cầu cần đẩy mạnh và lồng ghép hoạt động
TT-GDSK trong công tác chăm sóc b

ệnh nhân [30], [31], [32].
Trong Báo cáo Y tế Việt Nam năm 2006 Chương 21 nhấn mạnh đến vai trò
của TT-GDSK được coi là một biện pháp dự phòng có chi phí thấp nhưng
hiệu quả cao và bền vững, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng trong thực
hiện các chính sách lớn về y tế. Hoạt động TT-GDSK có vai trò quan trọng
trong thực hiện một chủ trương quan trọng của ngành y tế là thực hiện xã hội
hóa các hoạt động y tế, tạo ra chuyể
n biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân, đồng thời cung cấp thông tin, trang bị kiến thức và kỹ
năng để mỗi người, mỗi gia đình mỗi cộng đồng có thể tham gia tích cực các
hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho cộng đồng [11]. Trong
chương trình hành động củ
a Chính phủ thực hiện Nghị quyết Số 46-NQ/TW
ngày 23 táng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị, nhiệm vụ tăng cường công tác
TT-GDSK được nhắc đến đầu tiên.










Sơ đồ 1.1. TT-GDSK cần thiết trong nhiều lĩnh vực chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe nhân dân*
* Nguồn: Báo cáo y tế Việt Nam 2006 - Bộ Y tế [11].
Quản lý

sức khỏe
Dự phòng
dịch bệnh
Truyền
thông
GDSK
N
âng ca
o
sức khỏe
ĐT bệnh
thông
thườn
g
Thuốc
thiết yếu
K
iện toà
n
m
ạng lướ
i
y tế
Dinh
dưỡng
V
SATT
P
Chăm
sóc SK

BMTE
Tiêm
chủng
mở rộng
Nước
sạch,
VSMT

7
Công tác TT-GDSK là một trong những giải pháp thiết yếu để nâng cao nhận
thức và thay đổi hành vi của người dân trong phòng bệnh, chữa bệnh và
NCSK. Hiện nay TT-GDSK được đặc biệt quan tâm trong các chương trình
phòng chống HIV/AIDS, phòng chống suy dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực
phẩm, phòng chống bệnh cúm A H5N1 và H1N1 .
Thực tế cho thấy thực hiện tốt công tác TT-GDSK sẽ góp phần triển khai có
hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, tránh lãng phí nguồn lực sẵn có do
hậu quả củ
a việc thiếu thông tin, kiến thức về các vấn đề liên quan đến sức
khỏe cũng như các hành vi có hại cho sức khỏe của người dân trong cộng
đồng gây ra [34].
TT-GDSK không chỉ quan trọng trong công tác phòng bệnh mà còn có ý
nghĩa trong công tác điều trị và quản lý các trường hợp bệnh. Hiện nay công
tác thông tin, truyền thông, giáo dục về sử dụng thuốc an toàn hợp lý và quản
lý các bệnh mạn tính đang là một trong những trọng tâm công tác của ngành y
tế. Nguy c
ơ sử dụng thuốc không an toàn như người dân tự mua thuốc điều trị
không theo chỉ định của bác sĩ hoặc sử dụng thuốc theo thói quen không có sự
hướng dẫn và giám sát của nhân viên y tế là khá phổ biến. Đó là do sự thiếu
tiếp cận thông tin và thiếu hiểu biết của người dân về hậu quả của việc tự
dùng thuốc. Kết quả điều tra y tế quố

c gia năm 2001-2002 cho thấy có 73%
người ốm tự mua thuốc về chữa bệnh [35].
1.3. Các yêu tố làm cho truyền thông giáo dục sức khỏe có hiệu quả
Truyền thông bao gồm 3 khâu cơ bản có liên quan chặt chẽ với nhau:

Nguồn Kênh truyền tin Nơi
phát tin nhận tin


Sơ đồ 1.2: Ba khâu cơ bản của truyền thông
Hiệu quả của quá trình truyền thông phụ thuộc vào cả 3 khâu cơ bản: nguồn
phát tin, kênh truyền tin và nơi nhận tin. Vì vậy, để đạt được hiệu quả của quá
trình
truyền thông cần phải đảm bảo những điều kiện cần thiết đối với cả 3
khâu này.

8
1.3.1. Yêu cầu đối với nguồn phát tin
Nguồn phát tin chính là những người thực hiện TT-GDSK. Người thực hiện
TT-GDSK là mắt xích quan trọng nhất, quyết định đến kết quả và hiệu quả
của quá trình truyền thông. Để đạt được kết quả và hiệu quả tốt, các cán bộ
làm công tác TT-GDSK trước hết cần phải có kiến thức về y học. Đó là những
kiến thức cần thiết về
những vấn đề sức khỏe, bệnh tật cần TT-GDSK để có
thể soạn thảo các nội dung và thông điệp phù hợp với từng loại đối tượng
đích. Bên cạnh đó, những kiến thức về tâm lý học và khoa học hành vi, kiến
thức và kỹ năng về giáo dục học, kiến thức và kỹ năng truyền thông giao tiếp,
sự hiểu biết về phong tục tậ
p quán, văn hóa xã hội và những vấn đề kinh tế,
chính trị của cộng đồng là những điều kiện cần thiết hỗ trợ cho quá trình TT-

GDSK diễn ra thuận lợi, phù hợp và đạt hiệu quả cao. Kiến thức về tâm lý học
và khoa học hành vi giúp hiểu được tình cảm, tâm lý, các yếu tố ảnh hưởng
đến hành vi, quá trình thay đổi hành vi của các đối tượng đích, từ đó chọn các
cách giao tiếp, các ph
ương tiện và phương pháp TT-GDSK cho thích hợp với
từng loại đối tượng đích. Thực chất của TT-GDSK là quá trình dạy và học, vì
thế người TT-GDSK cần vận dụng các kiến thức giáo dục học, tạo điều kiện
hỗ trợ cho quá trình học tập của đối tượng đích. Kiến thức và kỹ năng truyền
thông giao tiếp là điều kiện cần thiết để thự
c hiện mọi hoạt động TT-GDSK
hiệu quả [14]. Song, để đảm bảo có cách tiếp cận và thực hiện giáo dục thích
hợp, được sự chấp nhận của đối tượng và của cộng đồng, người TT-GDSK cũng
cần nắm được các thông tin cơ bản về cộng đồng, bao gồm các thông tin về đời
sống văn hóa, chính trị, xã hội của cộng đồng. Người cán bộ TT-GDSK phải có
sự hiểu biết về phong tục tập quán, văn hóa xã hội và những vấn đề kinh tế,
chính trị của cộng đồng [45].
Trên đây là những yếu tố chủ quan cần có đối với người làm công tác TT-GDSK.
Tuy nhiên, để khuyến khích họ phát huy được năng lực chuyên môn và nhiệt
tình, gắn bó với nghề nghiệp thì cần tạo cho họ môi trường làm việc thuận lợi,
trước hết là đảm bảo nhữ
ng điều kiện về cơ sơ sở vật chất, trang thiết bị
chuyên môn cần thiết và điều kiện làm việc tối thiểu. Nước ta còn nghèo, cơ
sở vật chất cũng như các trang thiết bị, điều kiện làm việc cho cán bộ y tế nói
chung, đặc biệt cán bộ thuộc hệ thống TT-GDSK nói riêng còn nhiều khó

9
khăn [26], [28], vì vậy rất cần phải có sự quan tâm đầu tư thích hợp và đồng
bộ, dựa trên nhu cầu thực tế về đẩy mạnh thực hiện hoạt động TT-GDSK cho
cộng đồng.
1.3.2. Yêu cầu đối với thông điệp và kênh truyền thông

Thông điệp cần chứa đựng và chuyển tải những nội dung cốt lõi cần được
truyền thông, bao gồm những từ ngữ, tranh ả
nh, các hiện vật hấp dẫn, gợi cảm
và những tiếng động được sử dụng để chuyển những ý tưởng qua đó. Để đảm
bảo TT-GDSK có hiệu quả cao thì thông điệp truyền đi cần đạt một số yêu cầu cơ
bản là: Rõ ràng, chính xác, hoàn chỉnh, có tính thuyết phục, có thể thực hiện
được và đảm bảo tính hấp dẫn. Tuy vậy chỉ quan tâm đến thông đi
ệp chưa đủ
mà cần chú ý các kênh truyền thông chuyển tải thông điệp được sử dụng. Để
chuyển tải được thông điệp, kênh truyền thông phải phù hợp với đối tượng
đích [41]. Vì vậy, khi chọn kênh truyền thông phải quan tâm đến khả năng
tiếp cận với kênh truyền thông của các nhóm đối tượng đích. Nguyên tắc chọn
kênh truyền thông là đảm bảo tối đa nhóm đối tượ
ng đích có đủ các điều kiện
để thu nhận được thông tin từ kênh truyền thông đó. Các phương tiện, thiết bị
phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ví dụ như các phương tiện nghe nhìn
chuyển tải các hình ảnh, âm thanh, lời nói, chữ viết phải rõ ràng, đầy đủ. Cần
cố gắng để hạn chế đến mức tối đa tình trạng trục trặc kỹ thuậ
t xảy ra khi
đang truyền thông, có thể gây gián đoạn hay ức chế người nghe, người xem,
làm cho họ không tiếp tục chú ý đến chương trình truyền thông nữa [12].
1.3.3. Yêu cầu với nguồn nhận tin
Người nhận tin trong truyền thông chính là người được TT-GDSK. Người
được truyền thông phải có khả năng tiếp nhận thông tin. Ví dụ, đối tượng bị
khiếm thị sẽ không tiếp cận được các thông điệp bằng hình
ảnh. Bên cạnh đó,
để quá trình truyền thông có hiệu quả, người được truyền thông phải nhận ra
nhu cầu cần tiếp nhận thông tin của họ và sẵn sàng tiếp nhận thông tin. Nếu
đối tượng không thấy rõ nhu cầu, họ sẽ không chú ý tiếp nhận, phân tích để
hiểu nội dung của thông điệp. Ngoài ra, khi nhận thông điệp đối tượng phải có

đủ khả năng về trí tuệ để có thể phân tích thông đ
iệp, từ đó hiểu thông điệp và

10
phản hồi lại người gửi thông điệp, đồng thời thực hiện hành động theo thông
điệp đã nhận.
Như vậy, chúng ta thấy hai trong ba khâu cơ bản giúp cho quá trình truyền
thông đạt hiệu quả cao đó là người làm truyền thông và kênh truyền thông (cơ
sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện truyền thông). Người thực hiện truyền
thông là mắt xích quan trọng, quyết định nhưng không thể thi
ếu kênh truyền
thông, đó là cầu nối để chuyển tải thông điệp truyền thông đến với đối tượng
được truyền thông (khâu cuối cùng của quả trình truyền thông). Mặt khác, cơ
sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện truyền thông tốt cũng là điều kiện thúc
đẩy đối với người làm công tác truyền thông và thu hút, kích thích sự chú ý
của đối tượng được truyền thông [21], [22].
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta cũ
ng chưa có các nghiên cứu đánh giá để cung
cấp đầy đủ thông tin về thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện
và nhân lực truyền thông, cũng như nhu cầu thực tế của của hệ thống TT-GDSK
nói chung, đặc biệt là với phòng TT-GDSK của trung tâm y tế huyện mới
đang được hình thành.
1.4. Hệ thống Truyền thông Giáo dục sức khỏe ở Việt Nam
1.4.1.Tuyến Trung ươ
ng
Xuất phát từ nhu cầu thực tế và nhận thức được vai trò quan trọng của TT-GDSK
trong công tác chăm sóc và BVSK nhân dân, ngày 12/9/1980 Bộ Y tế đã có
Quyết định số 817/BYT-QĐ thành lập “Nhà Tuyên truyền bảo vệ sức khỏe”.
Đến năm 1985 Nhà tuyên truyền bảo về sức khỏe đổi tên thành “Trung tâm
Tuyên truyền - Bảo vệ sức khỏe”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

qu
ốc lần thứ VI về đổi mới phát triển đất nước, đòi hỏi đổi mới công tác chăm
sóc sức khỏe nhân dân, trong đó có đổi mới hoạt động TT-GDSK. Để đáp ứng
yêu cầu phát triển và ngày càng đổi mới hoạt động TT-GDSK, ngày
28/6/1999 Bộ Y tế có Quyết định số 1914/1999/QĐ-BYT đổi tên: “Trung tâm
Tuyên truyền - Bảo vệ sức khỏe” thành “Trung tâm Truyền thông - Giáo dục
sức khỏe Bộ Y tế
”. Quyết định số 621/QĐ-TTg ngày 18 tháng 4 năm 2006 của
Thủ tướng Chính phủ đổi tên: “Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe

11
Bộ Y tế” thành: “Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe Trung ương”,
thuộc Bộ Y tế.
1.4.2.Tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Ngày 03 tháng 01 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/1998/NĐ-CP
qui định hệ thống tổ chức Y tế mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có
một Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe. Thông tư liên tịch số
02/1998/TTLB-BYT-BTCCBCP ngày 27/6/1998 của Bộ Y tế và Ban T
ổ chức
cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 01 của Chính phủ.
Quyết định số 911/1999/QĐ-BYT ngày 31 tháng 3 năm 1999 của Bộ trưởng
Bộ Y tế Ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của
Trung tâm TT-GDSK tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương [3]. Từ đó hệ
thống Trung tâm TT-GDSK các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương được
thành lậ
p. Quyết định số 911 của Bộ Y tế quy định: Trung tâm TT-GDSK là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở Y tế, có chức năng TT-GDSK trên địa bàn
toàn tỉnh; có tư cách pháp nhân; có con dấu riêng và được mở tài khoản tại
kho bạc nhà nước. Nhiệm vụ của Trung tâm TT-GDSK thuộc sở y tế là:
1. Căn cứ chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, chương trình

hành động TT-GDSK của Bộ Y tế và tình hình thực t
ế tại địa phương, để xây
dựng kế hoạch TT-GDSK và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch sau khi
được phê duyệt.
2. Xây dựng, quản lý và chỉ đạo các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của
mạng lưới TT-GDSK trên địa bàn.
3. Tổ chức, phối hợp đào tạo và đào tạo lại về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức, cộng tác viên và các đối tượng làm công tác TT-GDSK
4. Tham gia và tổ chứ
c công tác nghiên cứu khoa học về TT-GDSK trên địa bàn.
5. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, sản xuất các tài liệu về
TT-GDSK của đơn vị theo đúng quy định của pháp luật.
6. Thực hiện công tác hợp tác quốc tế về TT-GDSK theo chủ trương, đường
lối của Đảng và các quy định hiện hành của Nhà nước.

12
7. Tổ chức việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân và triển khai các công tác tuyên truyền khác trong lĩnh vực y tế
khi được sở y tế giao [25].
Đến nay 63/63 tỉnh/thành phố trong cả nước đã thành lập Trung tâm TT-GDSK
trực thuộc sở y tế tỉnh/thành phố.
1.4.3. Tuyến huyện/quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Quyết định số
26/2005/QĐ-BYT ngày 09 tháng
9 năm 2005 “Qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Trung tâm Y tế dự phòng huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”. Trong
quyết định này đã quy định: Các phòng chuyên môn của Trung tâm y tế dự
phòng gồm: Phòng Hành chính tổng hợp và Phòng TT-GDSK. Nhiệm vụ của
Phòng TT-GDSK [9] là:
a. Thực hiện việc tuyên truyền các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước về lĩ
nh vực y tế;
b. Chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và hướng dẫn nghiệp vụ TT-GDSK về
y tế dự phòng; phòng chống HIV/AIDS trên địa bàn, tổ chức triển khai các
hoạt động phòng, chống dịch, bệnh;
c. Thực hiện tư vấn sức khỏe cho người dân và hướng dẫn nghiệp vụ tư vấn
sức khỏe đối với các cơ sở y tế trên địa bàn.
1.4.4. Tuyến xã/ph
ường, thị trấn
Quyết định số 370/2002/QĐ-BYT ngày 07 tháng 02 năm 2002 của Bộ trưởng
Bộ Y tế ban hành: “Chuẩn Quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010”. Trong
chuẩn Quốc gia về Y tế xã có 10 chuẩn. Trong đó, công tác TT-GDSK được
quy định ở Phần B của Chuẩn I gồm các nội dung sau:
1. 100% cán bộ trạm y tế và nhân viên y tế thôn bản được bồi dưỡng kiến
thức và có kỹ năng cơ bả
n về TT GDSK.
2. Thực hiện tư vấn và TT-GDSK lồng ghép tại trạm y tế, tại cộng đồng
và hộ gia đình.

13
3. Giáo dục sức khỏe qua hệ thống loa đài truyền thanh xã, ít nhất đạt 4
lần/tháng với khu vực đồng bằng và trung du; 2 lần/ tháng với khu vực
miền núi.
4. Tổ chức, tham gia phối hợp tổ chức các buổi họp cộng đồng tại thôn,
bản để TT-GDSK, ít nhất đạt: 6 lần/năm với khu vực đồng bằng và
trung du; 4 lần/năm với khu vực miền núi.
5. T
ỷ lệ hộ gia đình nắm được kiến thức cơ bản về các nội dung thực hành
chăm sóc sức khỏe thiết yếu cho bà mẹ, trẻ em tại gia đình và cộng
đồng, phòng chống tai nạn và thương tích; nắm được kiến thức về

phòng chống một số bệnh nguy hiểm tại địa phương, ít nhất đạt: 60%
với khu vực đồng bằng và trung du; 50% với khu vực miền núi
[6], [7].
1.4.5. Tuyến thôn/bản
Quyết định số 3653/1999/QĐ-BYT ngày 15 tháng 11 năm 1999 của Bộ
trưởng Bộ Y tế đã qui định chức năng và nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn
bản [4]. Nhân viên y tế thôn/bản là nhân viên y tế hoạt động tại thôn/bản, có
chức năng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong thôn, bản. Nhân viên y tế
thôn bản có những nhiệm vụ cụ thể sau:
1. Tuyên truyền - giáo dục sức khỏe.
2. Hướng dẫn thực hiện vệ sinh phòng bệnh.
3. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.
4. Sơ cứu ban đầu và chăm sóc bệnh thông thường.
5. Thực hiện các chương trình y tế.
Nhân viên y tế thôn/bản được đào tạo các nội dung về TT-GDSK gồm:
• Đại cương truyền thông và giáo dục sức khỏe.
• Kỹ năng truyền thông giáo dụ
c sức khỏe [4].
Theo báo cáo của Trung tâm TT-GDSK Trung ương, các tỉnh/thành phố đều
có mạng lưới TT-GDSK từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện, xã, thôn/bản. Các
tỉnh/thành phố hiện đều có mạng lưới cộng tác viên TT-GDSK, trong đó chủ
yếu là cán bộ y tế (69%), cán bộ phụ nữ (9,5%), đoàn thanh niên (6,3%),
ngoài ra còn có sự cộng tác của cán bộ dân số (7,9%), của cán bộ hội chữ thập
đỏ và một số cán bộ khác (9,3%). Các cộng tác viên TT-GDSK phân bố
chủ

×