Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chất lượng giấc ngủ và thực hành vệ sinh giấc ngủ của người cao tuổi tại thành phố Hưng Yên năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.44 KB, 7 trang )

CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ THỰC HÀNH VỆ SINH GIẤC NGỦ
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN NĂM 2018
SLEEP QUALITY AND SLEEP HYGIENE PRACTICE AMONG ELDERLY PEOPLE
IN HUNG YEN CITY IN 2018
TRẦN THỊ THEN1, NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG2,
NGUYỄN THỊ THOA3, NGUYỄN THỊ MÚI4
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chất lượng giấc ngủ kém là một trong những thay đổi về thể chất ở người cao tuổi. Thực hành
vệ sinh giấc ngủ kém có liên quan đến chất lượng giấc ngủ làm giảm chất lượng cuộc sống ở người cao tuổi.
Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ và thực hành vệ sinh giấc ngủ ở người cao tuổi
tại thành phố Hưng Yên năm 2018.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Chọn mẫu
ngẫu nhiên hệ thống được sử dụng để chọn ra 400 người cao tuổi tại 4 phường thuộc thành phố Hưng Yên từ
tháng 01 đến tháng 4 năm 2018. Bảng câu hỏi có cấu trúc được sử dụng để thu thập dữ liệu, bao gồm thông tin
cá nhân, thang đo thực hành vệ sinh giấc ngủ SHI, thang đo chất lượng giấc ngủ PSQI. Độ tin cậy Cronbach
alpha của các thang đo là 0,66 đến 0,91. SPSS 22.0 được sử dụng để phân tích số liệu.
Kết quả: Tổng số 400 người cao tuổi tham gia nghiên cứu với độ tuổi trung bình 71 ± 7,2; trong đó có 143
nam và 257 nữ. Kết quả NC cho thấy có 82,3% người cao tuổi có chất lượng giấc ngủ kém.
Thực hành vệ sinh giấc ngủ có ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ. Theo đó, người cao tuổi biết cách quản lý
thời gian ngủ, có tâm trạng tốt khi ngủ, có thói quen sinh hoạt lành mạnh trước khi ngủ và biết tạo một mơi
trường phịng ngủ thoải mái, với hệ số tương quan r tương ứng là 0,384; 0,398; 0,148 và 0,206.
Kết luận: Hướng dẫn người cao tuổi về thói quen thực hành vệ sinh giấc ngủ sẽ giúp cải thiện chất lượng
giấc ngủ.
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, người cao tuổi, thực hành vệ sinh giấc ngủ.
ABSTRACT
Background: Poor sleep quality is one of the physical changes with aging. Poor sleep hygiene practices are
linked to poor sleep quality that lowers the quality of life in the elderly.
Objective: To explore the relationship between sleep quality and sleep hygiene practices among the elderly
in Hung Yen city in 2018
Method: This cross-sectional study was conducted in 400 elderly people, whom were randomly selected
from four districts of Hung Yen city from January to April 2018. Structured questionnaires were used to collect


data, including demographic characteristics, health status, sleep hygiene practice measured by Sleep Hygiene
Index, and sleep quality measured by PSQI. The Cronbach’s Alpha of scales ranged from 0.66 to 0.91. SPSS
22.0 was employed for data analysis
Results: A total of 400 elderly people participated in the study with the average age is 71 ± 7.2. There were
143 males and 257 females. Research results showed that 82.3% of the elderly in this study had poor sleep
quality.
Elderly who had good sleep time managment, good mood before bedtime, healthy habits and well-setting
sleeping environment had better quality of sleep with correlation coefficient is 0.384; 0.398; 0.148 và 0,206
respectively.


Conclusion: A good sleep hygience practice could help to improve the quality of sleep of elderly people.
Keywords: quality sleep, elderly, sleep hygiene practice.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng giấc ngủ tốt có thể được định nghĩa là đi vào giấc ngủ một cách dễ dàng, quá trình chuyển đổi dễ
dàng từ sự tỉnh táo đến ngủ, duy trì giấc ngủ yên tĩnh, giấc ngủ giữa đêm không bị phá vỡ bởi sự thức giấc, sự
chuyển đổi dễ dàng từ ngủ sang sự tỉnh táo vào buổi sáng [3]. Chất lượng giấc ngủ gồm: tổng thời gian ngủ, độ
trễ ngủ, rối loạn giấc ngủ, hiệu suất của giấc ngủ, mức độ sử dụng thuốc ngủ, ảnh hưởng hoạt động ban ngày và
tự đánh giá chất lượng giấc ngủ chủ quan [8]. Chất lượng giấc ngủ giảm theo tuổi, có đến hơn 50% người cao
tuổi có chất lượng giấc ngủ kém [5].
Giấc ngủ là điều cần thiết cho sức khỏe tối ưu, tăng chất lượng cuộc sống và có thể tự quản lý được bởi từng
cá nhân bằng các thực hành vệ sinh giấc ngủ tích cực [6], [11]. Do đó, nghiên cứu được tiến hành nhằm mục
tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ và thực hành vệ sinh giấc ngủ ở người cao tuổi tại thành
phố Hưng Yên năm 2018.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Người cao tuổi (≥ 60 tuổi) ở thành phố Hưng Yên đến khám sức khỏe định kỳ tại các trạm y tế, có đủ sức
khỏe để tham gia trả lời bộ câu hỏi và đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
2.2. Thời gian: Từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 4 năm 2018.
2.3. Địa điểm: Tại 4 phường Hiến Nam, Minh Khai, Hồng Châu và Bảo Khê thuộc thành phố Hưng Yên.

2.4. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
2.5. Phương pháp đo lường và đánh giá
- Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn để thu thập thơng tin cá nhân, tình trạng sức khỏe, tình trạng gia
đình, vấn đề về hưu, cơng việc và hoạt động xã hội hàng ngày.
- Chất lượng giấc ngủ dược đo lường bằng thang đo Pittsburgh Sleep Quality Index (PSQI) đã được dịch và
sử dụng bởi Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai [1]. Chỉ số PSQI là tổng hợp điểm của một bảng
câu hỏi mà người được hỏi tham gia trả lời gồm 4 câu hỏi có kết thúc mở, 14 câu hỏi khi trả lời cần dựa trên tần
suất sự kiện và các mức độ tốt xấu khác nhau trên 7 phương diện: Chất lượng giấc ngủ chủ quan, thời gian để đi
vào giấc ngủ, hiệu quả giấc ngủ theo thói quen (tỷ lệ toàn bộ thời gian ngủ và thời gian nằm trên giường), các
yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ, việc sử dụng thuốc kích thích giấc ngủ (bao gồm cả thuốc được kê đơn và
không kê đơn) và những bất thường về thời gian ngủ trong ngày. Nhóm câu hỏi thuộc các lĩnh vực sẽ sắp xếp
theo thứ tự tăng dần, dao động từ 0 đến 21 điểm. Mức trung bình lớn hơn hoặc bằng 5 điểm sẽ cho thấy chất
lượng giấc ngủ kém. Mức điểm càng cao thì chất lượng giấc ngủ càng thấp.
- Bộ công cụ đánh giá Thực hành vệ sinh giấc ngủ (Sleep Hygiene Index) [13] gồm 13 câu hỏi, đo lường 5
cấu phần của thực hành vệ sinh giấc ngủ: Quản lý thời gian ngủ (4 câu), thói quen ăn uống trước khi ngủ (2
câu), thói quen sinh hoạt trước khi ngủ (3), tâm trạng khi ngủ (2 câu) và môi trường ngủ (2 câu). NCT tham gia
nghiên cứu sẽ chỉ ra mức độ thường xuyên mà họ thực hiện các thói quen trên thang điểm từ 4 tới 0, trong đó
4 = ln ln, 3 = thường xuyên, 2 = thỉnh thoảng, 1 = hiếm khi và 0 = khơng bao giờ. Theo đó, tổng điểm thực
hành vệ sinh giấc ngủ sẽ dao động từ 0 đến 52. Điểm số cao hơn cho thấy các thực hành vệ sinh giấc ngủ kém
hơn [10]. Tính nhất quán nội bộ của SHI đã được chứng minh với hệ số Cronbach α = 0,66) [10] [2].
- Phương pháp tiến hành: Phỏng vấn trực tiếp người cao tuổi bằng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn.


- Xử lý số liệu: Dữ liệu được xử lý bằng SPSS 23.0 và dữ liệu được phân tích thơng qua thống kê mô tả để
mô tả chất lượng giấc ngủ, thực hành vệ sinh giấc ngủ, tìm hiểu mối liên quan giữa thực hành vệ sinh giấc ngủ
với chất lượng giấc ngủ.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học
Đặc điểm


Tuổi (năm) Trung
bình ± độ lệch
chuẩn:
Giới

Số
NCT
(N =
400)

Tỷ lệ
(%)

71 ± 7,2

Nam

143

35,8

Nữ

257

64,2

Trình độ Tiểu học và trung
học vấn học cơ sở


257

64,3

Phổ thông trung học

18

4,5

Trung cấp/cao đẳng

101

25,3

Đại học hoặc sau
đại học

24

6,0

Công nông/khác

242

60,5


CBVC/Kinh doanh

158

39,5

Tình
Đơn thân
trạng hơn
Kết hơn
nhân

175

43,8

225

56,2

Thu nhập < 3 triệu/tháng

317

79,2

> 3 triệu/tháng

83


20,8

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng tham gia nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 71 (± 7,2)
tuổi, trong đó có 257 nữ chiếm 64,2%. 64,3% đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn từ trung học trở xuống.
Nghề nghiệp trước kia chủ yếu là nông dân, công nhân, nội trợ nghề tự do, mùa vụ (60,5%). Kết hôn chiếm tỷ lệ
cao nhất 56,2%. Thu nhập trung bình chủ yếu là dưới 3 triệu đồng/tháng chiếm 79,2%.


3.2. Đặc điểm thực hành vệ sinh giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.2. Đặc điểm thực hành vệ sinh giấc ngủ
Nhóm

Trung bình Trung
(độ lệch
vị
chuẩn)
(Khoản
g)

Tổng thể thực hành vệ 12,19 (4,39)
sinh giấc ngủ

12 (228)

Quản lý thời gian ngủ

4,42 (2,16)

4 (0-12)


Thói quen ăn uống trước
khi ngủ

1,1 (1,17)

1 (0-6)

Thói quen sinh hoạt trước 3,67 (1,75)
khi ngủ

4 (0-10)

Tâm trạng khi đi ngủ

2,06 (1,08)

2 (0-6)

Môi trường ngủ

0,94 (1,08)

1 (0-6)

Trong nghiên cứu này, tổng điểm thực hành vệ sinh giấc ngủ từ 2 đến 28 điểm với trung bình 12,19 ± 4,39.
Trong đó, điểm trung bình quản lý thời gian ngủ là 4,42 (khoảng điểm từ 0 đến 12), điểm trung bình thấp nhất ở
nhóm mơi trường ngủ (0,94) (điểm dao động từ 0 đến 6).
3.3. Thực trạng chất lượng giấc ngủ ở NCT
Bảng 3.3. Chất lượng giấc ngủ ở người cao tuổi
Chất lượng giấc

ngủ

Số lượng
(n = 400)

Tỷ lệ
(%)

CLGN tốt (≤ 5
điểm)

71

17,8

CLGN kém (> 5
điểm)

329

82,3

Trung bình:

9,46 ± 3,74

Trung vị (khoảng):

10,0 (1-19)


Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tơi, 82,3% đối tượng nghiên cứu có chất lượng giấc ngủ kém (tổng
điểm
>
5)
với
điểm
trung
bình
9,46 ± 3,74, điểm dao động từ 1 - 19.


3.4. Mối liên quan giữa yếu tố thực hành vệ sinh giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa thực hành vệ sinh giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ
Nhóm

Trung bình Phân tích
(độ lệch
tương
chuẩn)
quan

Tổng thể thực hành vệ 12,19 (4,39) 0,398 ***
sinh giấc ngủ (13 câu)
(P)
Quản lý thời gian ngủ (4 4,42 (2,16)
câu)

0,384***
(P)


Thói quen ăn uống trước 1,10 (1,17)
khi ngủ (2 câu)

0,002 (P)

Thói quen sinh hoạt trước 3,67 (1,75)
khi ngủ (3 câu)

0,148***
(P)

Tâm trạng khi đi ngủ (2 2,06 (1,08)
câu)

0,398***
(P)

Môi trường ngủ (2 câu)

0,206***
(P)

0,94 (1,08)

(P) Pearson, *** p < 0,01
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có mối tương quan thuận rất mạnh giữa chất lượng giấc ngủ với yếu tố thực
hành vệ sinh giấc ngủ có ý nghĩa thống kê với r = 0,398, p < 0,01. Trong đó, người cao tuổi quản lý thời gian
ngủ ngủ tốt, có tâm trạng khi đi ngủ thoải mái, có thói quen sinh hoạt lành mạnh trước khi ngủ và có mơi trường
ngủ n tĩnh, ánh sáng nhẹ sẽ có chất lượng giấc ngủ tốt hơn (với r lần lượt là 0,384; 0, 398; 0,148; 0,206). Mối
tương quan có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

4. BÀN LUẬN
4.1. Chất lượng giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy 82,3% người cao tuổi có chất lượng giấc ngủ kém
(PSQI > 5). Tuy nhiên, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Thorpe năm 2016 là 72,4% [13]. Điều này có thể giải
thích do nghiên cứu của chúng tôi, điểm cắt PSQI là 5 điểm trong khi điểm cắt của Thorpe là 6 điểm. Hơn thế
nữa, độ tuổi của đối tượng nghiên cứu của chúng tôi từ 60 tuổi trở lên và đa số là nữ giới. Trong khi đối tượng
nghiên cứu của Thorpe là từ 50 tuổi trở lên. Chất lượng giấc ngủ sẽ kém dần theo độ tuổi và nữ thường có xu
hướng mất ngủ nhiều hơn nam [12].
4.2. Mối liên quan giữa yếu tố thực hành vệ sinh giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm tổng thể thực hành vệ sinh giấc ngủ là 12,19 ± 4,39. Kết quả nghiên cứu
thấp hơn kết quả nghiên cứu của Vũ Thị Minh Phượng năm 2016 (30,88 ± 3,93, khoảng 21 - 45) do trong thiết
kế nghiên cứu của Vũ Thị Minh Phượng điểm SHI được đánh giá trên thang điểm từ 1 - 5, tổng điểm thực hành
vệ sinh giấc ngủ dao động từ 13 đến 65. Trong khi thiết kế nghiên cứu của chúng tôi sử dụng thang điểm từ 0 -


4, tổng điểm thực hành vệ sinh giấc ngủ dao động từ 0 - 52. Mặt khác, độ tuổi của đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi từ 60 tuổi trở lên, trong khi trong nghiên cứu của Vũ Thị Minh Phượng từ 18 tuổi trở lên [2]. Điều
này phù hợp với kết luận tuổi càng trẻ thì sự tuân thủ thực hành vệ sinh giấc ngủ càng kém [7].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chất lượng giấc ngủ có mối tương quan vừa với thực hành vệ sinh
giấc ngủ với r = 0,398, p < 0,01. Kết quả nghiên cứu thấp hơn kết quả nghiên cứu tại Hàn Quốc năm 2013 [4]
với r = 0,41, p < 0,006. Điều này có thể giải thích là do đối tượng nghiên cứu tại Hàn Quốc 161 người đang điều
trị đau mạn tính tại trung tâm đau ở Seoul: đau có liên quan đến chất lượng giấc ngủ kém [9]. Cùng với đó, độ
tuổi
trung
bình
trong
nghiên
cứu
tại
Hàn Quốc là 49,5 ± 14 [4], độ tuổi này thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi (71 ± 7,2). Kết quả này phù

hợp với kết luận: Tuổi càng cao thực hành vệ sinh giấc ngủ càng tốt hơn [7]. Kết luận này được chứng minh
trong nghiên cứu của chúng tôi, NCT quản lý thời gian ngủ tương đối tốt (PSQI = 4,42 ± 2,16) cũng như duy trì
mơi trường ngủ hợp lý (PSQI = 0,94 ± 1,08). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của
Vũ Thị Minh Phượng năm 2016 (r = 0,215; p < 0,01). Sự khác nhau là do đối tượng nghiên cứu của Vũ Thị
Minh Phượng là đang điều trị tăng huyết ngoại trú có thể do những thay đổi hành vi đã được khuyến khích bởi
chương trình giáo dục sức khỏe cho tăng huyết áp [2].
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tỷ lệ người cao tuổi có chất lượng giấc ngủ kém ở mức cao (82,3%), chất lượng giấc ngủ có mối tương quan
thuận mức độ vừa với thực hành vệ sinh giấc ngủ (r = 0,398). Vì vậy, cần tuyên truyền, hướng dẫn NCT về các
phương pháp thực hành vệ sinh giấc ngủ phù hợp: quản lý giấc ngủ tốt, giảm stress, lo lắng, mệt mỏi để có tâm
trạng trước khi đi ngủ tốt, thoải mái giúp nâng cao chất lượng giấc ngủ nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người cao tuổi.
Tuy nhiên, cũng cần có nghiên cứu tiếp sâu hơn và rộng hơn, cũng như gợi ý cho nghiên cứu can thiệp trong
tương lai có thể tác động vào các yếu tố có thể thay đổi được để có chất lượng giấc ngủ tốt hơn nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống cho NCT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (2017). Thang đánh giá chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI), <
/>>,
Accesed 4/10
2. Vũ Thị Minh Phượng (2016). Chất lượng giấc ngủ và một số yếu tố liên quan của người bệnh tăng huyết
áp điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sỹ Điều dưỡng, Trường Đại học
Điều dưỡng Nam Định.
3. Carey T. J, Moul D. E, Pilkonis P. et al. (2005). Focusing on the experience of insomnia. Behavioral sleep
medicine, 3 (2), pp. 73-86.
4. Cho S, Kim G. S, Lee J.-H. (2013). Psychometric evaluation of the sleep hygiene index: a sample of
patients with chronic pain. Health and quality of life outcomes, 11 (1), pp. 1.
5. Daglar G, Pinar S. E, Sabanciogullari S. et al. (2014). Sleep quality in the elderly either living at home or
in a nursing home. Australian Journal of Advanced Nursing, The, 31 (4), pp. 6.
6. Dollander M. (2001). Etiology of adult insomnia. L’Encephale, 28 (6 Pt 1), pp. 493-502.

7. Driller M. W, Mah C. D, Halson S. L. (2018). Development of the athlete sleep behavior questionnaire: a
tool for identifying maladaptive sleep practices in elite athletes. Sleep Science, 11 (1), pp. 37.
8. Harvey A. G, Stinson K, Whitaker K. L. et al. (2008). The subjective meaning of sleep quality: a
comparison of individuals with and without insomnia. Sleep, 31 (3), pp. 383-393.


9. Luyster F. S, Chasens E. R, Wasko M. C. M. et al. (2011). Sleep quality and functional disability in
patients with rheumatoid arthritis. Journal of clinical sleep medicine: JCSM: official publication of the
American Academy of Sleep Medicine, 7 (1), pp. 49.
10. Mastin D. F, Bryson J, Corwyn R. (2006). Assessment of sleep hygiene using the Sleep Hygiene Index.
Journal of behavioral medicine, 29 (3), pp. 223-227.
11. Organization W. H. (2004). WHO technical meeting on sleep and health: Bonn, Germany 22-24 January
2004. WHO technical meeting on sleep and health: Bonn, Germany 22-24 January 2004,
12. Thorpe Jr R. J, Gamaldo A. A, Salas R. E. et al. (2016). Relationship between physical function and
sleep quality in African Americans. Journal of clinical sleep medicine: JCSM: official publication of the
American Academy of Sleep Medicine, 12 (10), pp. 1323.
13. Thorpy M. J. (2012). Classification of Sleep Disorders. Neurotherapeutics, 9 (4), pp. 687-701.



×