Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Nhận thức của sinh viên trường đại học tiền giang về sức khỏe sinh sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

_________________

TRẦN THANH NGUYÊN

NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGỌC OÁNH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007


LỜI CẢM ƠN
--------------

Luận văn này được hoàn thành là nhờ sự động viên, giúp đỡ và hướng dẫn
tận tình của quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 15, của q thầy
cơ ở Phịng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học và các bạn học viên lớp Cao học
Tâm lý học khóa 15 trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, của Ban
Giám hiệu và các thầy cơ giáo ở các khoa, phịng trường Đại học Tiền Giang, của
các bạn đồng nghiệp và sinh viên các lớp đại học khóa 06 trường Đại học Tiền
Giang. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô và các bạn học viên đã
động viên, giúp đỡ, cộng tác để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Đặc biệt, tác giả mong muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc gởi đến thầy giáo
– Phó Giáo sư Tiến sĩ BÙI NGỌC ỐNH – người đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ và


hướng dẫn chu đáo để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc rằng bản luận văn này cịn nhiều thiếu
sót, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của q thầy cơ và các bạn
đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.

Mỹ Tho, ngày 15 tháng 09 năm 2007
Tác giả
TRẦN THANH NGUYÊN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là sản phẩm của chính mình, khơng sao chép của
các tác giả khác. Nếu có gì sai trái, bản thân xin chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBGV:

Cán bộ giáo viên

LTQĐTD: Lây truyền qua đường tình dục
KHHGĐ:

Kế hoạch hóa gia đình

NSP:

Ngành ngồi sư phạm


SKSS:

Sức khỏe sinh sản

SP:

Ngành sư phạm

SV:

Sinh viên

SVSP:

Sinh viên ngành sư phạm

SVNSP:

Sinh viên ngành ngoài sư phạm

UNICEF:

Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc

UNFPA:

Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc

WHO:


Tổ chức Y tế thế giới

%:

Phần trăm

f:

tần số


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của thanh thiếu niên luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, số thanh thiếu niên ở nước ta hiện nay ở độ tuổi
14–25 là nhóm đơng nhất (chiếm khỏang 24,5 phần trăm (%) dân số – theo số liệu Tổng
điều tra dân số năm 1999). Vì thanh thiếu niên đặc biệt là thanh niên sinh viên có tiềm năng
to lớn quyết định sự lớn mạnh và thịnh vượng của đất nước nên việc việc nắm được những
vấn đề cốt lõi trong sự phát triển của họ là hết sức quan trọng.
Giáo dục SKSS là vấn đề hết sức mới mẻ, lý thú, tế nhị, nhạy cảm thu hút sự quan tâm
của nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới các vấn đề về SKSS trở thành vấn
đề nổi cộm ở nhiều nước. Hàng năm trên tồn thế giới có khoảng 15 triệu trẻ em gái từ 15
đến 19 tuổi sinh con, chiếm 10% tổng số trẻ em sinh ra trên tòan thế giới. Trong số các
trường hợp mắc các bệnh lây qua quan hệ tình dục cứ 20 người mắc bệnh thì có 1 người ở
lứa tuổi vị thành niên và 1/2 trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV/AIDS là những người
dưới tuổi 25. Ở Việt Nam hiện nay, cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến SKSS
vị thành niên . Tình trạng nạo, phá thai ở lứa tuổi vị thành niên và thanh niên ngày một gia
tăng.
Ở Việt Nam, kể từ Hội nghị Quốc tế “Dân số và phát triển”, hàng loạt các cuộc nghiên
cứu về SKSS đã được thực hiện. Hướng nghiên cứu SKSS ở nhóm dân số trẻ (15–24 tuổi)

cũng mới thực sự được quan tâm và phat triển trong thời gian gần đây. Trong đó, các cơng
trình nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên đại học nhất là ở khối ngành
sư phạm cũng còn ở giai đoạn khởi đầu. Đây là việc làm cần thiết để chuẩn bị cho sinh viên
đương đầu với những vấn đề của cuộc sống liên quan đến SKSS của họ. Thêm nữa, sự hiểu
biết thiếu đầy đủ, đúng đắn về SKSS có thể đẩy các sinh viên vào nguy cơ tình dục khơng
lành mạnh, khơng an tồn; có thể đẩy các bạn gái vào nguy cơ có thai ngoài ý muốn hoặc
mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục kể cả HIV/AIDS... Nhận thức của lớp trẻ trong
khu vực về các vấn đề SKSS bao gồm tình dục, chức năng sinh sản, các biện pháp tránh
thai, quan hệ tình dục an tồn.... cịn nhiều hạn chế. “Ở Việt Nam, theo thống kê có 40%
thanh thiếu niên cho biết rằng họ khơng hiểu gì về các biện pháp tránh thai” [5,tr.12]. Sự
thiếu hiểu biết chung về quá trình sinh sản và bản năng sinh dục của con người cùng với
quan hệ tình dục trước hơn nhân có xu hướng ngày một tăng khiến lớp trẻ phải đối mặt với
các nguy cơ nói trên.


Cung cấp thông tin và giáo dục SKSS hay giáo dục sức khỏe tình dục có thể giúp cho
lớp trẻ tự khám phá các quan điểm, tiêu chuẩn và sự lựa chọn riêng đồng thời nâng cao kiến
thức và hiểu biết về vấn đề SKSS. Điều đó giúp cho lớp trẻ có một cuộc sống lành mạnh và
hạnh phúc, ngăn ngừa những nguy cơ nói trên và nâng cao đời sống và SKSS sau này. Do
đó, có thể nói việc nhận thức về SKSS có tác động sâu rộng và lâu dài với thái độ và hành vi
của sinh viên.
Sinh viên đại học Tiền Giang tương lai sẽ trở thành kỹ sư, giáo viên, cán bộ cơng chức có
trình độ cao. Do đó, nhận thức, hành vi của họ khơng những có tác dụng với cuộc sống của
chính họ mà với sinh viên khối ngành sư phạm còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới học sinh của họ sau
này. Nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên nhất là sinh viên khối ngành sư
phạm thiết nghĩ là việc làm cần thiết nhằm giúp cho họ có một cuộc sống lành mạnh, hạnh
phúc, ngăn ngừa các nguy cơ nói trên và nâng cao được đời sống và sức khỏe sau này cho nhiều
thế hệ.
Để thực hiện được điều đó, bên cạnh sự tác động, phối hợp ...của các lực lượng giáo
dục trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các sinh viên, sự nhận thức của chính

sinh viên để trên cơ sở đó có hành động phù hợp về vấn đề sức khỏe sinh sản không những
đem lại hiệu quả thiết thực trong nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân, gia đình và
xã hội mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc trang bị kiến thức cho các em học sinh ở các
nhà trường phổ thông về vấn đề này.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đó chính là lý do để bản thân chọn đề tài "Nhận
thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản” – vấn đề mà bấy
lâu nay bản thân rất tâm đắc khi tham gia giảng dạy bộ môn tâm lý học-giáo dục học ở
trường sư phạm, tham gia chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ
sở cũng như khi cộng tác tại trung tâm tư vấn dân số gia đình trẻ em trong tư vấn sức khỏe
sinh sản vị thành niên và thanh niên cho thanh thiếu niên ở địa phương. Hy vọng qua việc
nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp bản thân tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm của mình
trong cơng tác tại đơn vị cũng như thực hiện tốt hơn vai trò của cộng tác viên tại trung tâm
tư vấn.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe
sinh sản; từ đó đề xuất một số biện pháp cụ thể góp phần nâng cao nhận thức về SKSS cho
sinh viên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu


3.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu
3.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS
3.3. Đề xuất một số biện pháp cơ bản góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên
trường đại học Tiền Giang về SKSS
4. Giới hạn đề tài
4.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài này chỉ nghiên cứu mức độ nhận thức
của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS
4.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ yếu ở đối tượng là sinh
viên đại học với số lượng là 332 sinh vin thuộc khoa sư phạm, khoa cơ bản thuộc năm thứ
nhất.

4.3. Giới hạn về không gian nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu sinh viên thuộc hệ
đào tạo chính quy, học tại cơ sở chính và cơ sở 1 của trường.
5. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục SKSS cho sinh viên hệ đại học chính quy thuộc khoa sư phạm
và khoa cơ bản năm thứ nhất trường đại học Tiền Giang.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS.
6. Giả thuyết khoa học
- Nhận thức của sinh viên hệ đại học chính quy trường đại học Tiền Giang còn chưa
đầy đủ ở các nội dung cơ bản của SKSS và có sự khác nhau giữa sinh viên ngành sư phạm
(SVSP) và sinh viên ngành ngoài sư phạm (SVNSP).
- Có thể nâng cao nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS bằng
việc cung cấp thơng tin, kiến thức giáo dục giới tính, giáo dục dân số, giáo dục SKSS và
phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên trong tiếp cận SKSS.
7. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn và sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan về SKSS
để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:


7.2.1. Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu câu hỏi: Xác định thực trạng nhận
thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS. Đây là phương pháp nghiên cứu chính
mà tác giả sử dụng trong thực hiện luận văn.
7.2.1.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát thực trạng về mức độ nhận thức của SV đại học Tiền Giang về SKSS
ở hai khoa Sư phạm và khoa Cơ bản. Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở để đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao nhận thức về SKSS của SV.

7.2.1.2. Nội dung khảo sát
Khảo sát hướng vào các nội dung cơ bản của SKSS gắn với đối tượng thanh
niên SV:
- Khái niệm SKSS, giới tính;
- Tình bạn, tình u, hơn nhân, luật hơn nhân;
- Tình dục;
- Nạo phá thai và các con đường nhiễm bệnh LTQĐTD;
Bên cạnh đó còn khảo sát:
- Đánh giá của SV về nhận thức SKSS
- Nguyên nhân ảnh hưởng đến nhận thức của SV về SKSS.
- Mức độ ảnh hưởng của các nguồn thông tin giúp SV có hiểu biết về SKSS.
- Các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về SKSS của SV
Cấu trúc bảng hỏi: Bảng hỏi được xây dựng dựa vào các nội dung cơ bản về
SKSS tập trung vào việc biết, hiểu và vận dụng của SV. Trong đó có các câu hỏi là các tình
huống giả định để tìm hiểu khả năng vận dụng kiến thức về SKSS của SV.
7.2.1.3. Đối tượng khảo sát
Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của SV trường đại học Tiền Gang về
SKSS, chúng tơi thực hiện khảo sát trên tồn bộ SV hệ đại học chính quy thuộc năm thứ I ở
hai khoa Sư phạm và khoa Cơ bản (Vì trường đại học Tiền Giang mới tuyển sinh đại học từ
năm học 2006 – 2007), gồm SV của 5 lớp: ToánA, ToánB, Ngữ văn (thuộc khoa Sư phạm)
và Quản trị Kinh doanh, Tài chánh Kế toán (thuộc khoa Cơ bản).
- Tổng số phiếu phát ra: 360 phiếu
- Tổng số phiếu thu vào: 332 phiếu
- Số phiếu hợp lệ là 332 phiếu và được phân bố như sau:


Lớp

Nam


Nữ

Tổng cộng

Đại học ToánA

18

21

39

Đại học ToánB

18

22

40

Đại học Ngữ văn

10

28

38

Đại học Quản trị kinh doanh


40

32

72

Đại học Tài chánh Kế toán

34

109

143

120

212

332

Cộng

Với số phiếu phân bố như trên thì:
Sinh viên ngành sư phạm (SVSP) có:
Trong đó: Nam sinh viên có:
Nữ sinh viên có:
Sinh viên ngành ngồi sư phạm (SVNSP):
Trong đó: Nam sinh viên có:
Nữ sinh viên có:


117 phiếu
46 phiếu
71 phiếu
215 phiếu
74 phiếu
141 phiếu

Đồng thời chúng tôi cũng khảo sát trong đối tượng cán bộ giáo viên (CBGV)
của trường với số lượng 47 người là cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm
ở các phòng, khoa trung tâm của trường đề làm rõ hơn nhận thức của SV về SKSS.
7.2.1.4. Thời gian và địa bàn khảo sát
Khảo sát nhận thức của SV đại học Tiền Giang được tiến hành từ tháng 10 năm
2006, thực hiện trên 5 lớp SV đại học chính quy thuộc khoa Sư phạm và khoa Cơ bản tại cơ
sở chính và cơ sở 1 của trường.
7.2.1.5. Xử lý kết quả khảo sát
Phân tích số liệu qua khảo sát được thực hiện bằng chương trình SPSS 11.5 của
Windows để tính tần số, tỉ lệ phần trăm, .... để đưa ra nhận xét và bàn luận, đặc biệt là thực
trạng nhận thức về SKSS của SVSP và SVNSP.
7.2.2. Phương pháp trò chuyện: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu
hỏi trong việc làm rõ thực trạng nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về
SKSS.
7.2.3. Phương pháp quan sát: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi
trong việc nắm thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Sư phạm và khoa Cơ bản về SKSS.
7.2.4. Phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả điều tra được.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sức khỏe sinh sản (SKSS) là vấn đề khá mới mẻ, lý thú, nhạy cảm. Vấn đề
này đã thực sự thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, từ việc nhận

thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục dân số cho thế hệ trẻ, và kể từ sau Hội nghị
quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại Cairo, Ai Cập năm 1994 (ICPD), chương trình
dân số chuyển hướng sang quan tâm nhiều hơn đến chất lượng dân số, trong đó trọng tâm là
nội dung chăm sóc SKSS. Hầu hết các nghiên cứu về SKSS ở các nước trên thế giới và ở
Việt Nam thường hướng về đối tượng thanh, thiếu niên và nhất là vị thành niên và thường là
học sinh ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thơng.
Có thể nói, việc nghiên cứu SKSS nói chung và nghiên cứu SKSS vị thành niên
đã được tiến hành rất sớm trên thế giới, nhất là ở các quốc gia phát triển nhưng thường được
gọi với những tên gọi khác nhau chẳng hạn như sức khỏe vị thành niên hay giới tính, tình
dục thanh thiếu niên. Có lẽ, kể từ sau Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại
Cairo, Ai Cập năm 1994 (ICPD) khi đã có định nghĩa chính thức về SKSS thì việc nghiên
cứu SKSS nhất là cho đối tượng thanh thiếu niên đang là “mối quan tâm của không những
các nhà khoa học, các nhà giáo dục, các nhà quản lý xã hội mà cả các bậc cha mẹ được đẩy
lên một trình độ mới”[27,tr.426].
Hướng nghiên cứu SKSS trong đối tượng thanh thiếu niên ở nước ngoài thường
tập trung nghiên cứu về những vấn đề cụ thể, nhạy cảm của SKSS như vấn đề nạo phá thai,
sinh đẻ sớm, vấn đề quan hệ tình dục trước hơn nhân, các bệnh LTQĐTD đã cho chúng ta
thấy những “như những con số biết nói” thật bất ngờ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
“hàng năm có khoảng 20 triệu ca nạo phá thai khơng an tồn. Ở Châu Phi thai nghén ngoài
dự định dao động từ 50% - 90% trong số vị thành niên chưa chồng và 25% - 40% trong số
vị thành niên có chồng” [27,tr.428].
Theo các nghiên cứu ở nhiều nơi trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, đã chỉ
ra thực trạng nhận thức về SKSS ớ lứa tuổi thanh thiếu niên là “nhận thức của lớp trẻ trong
khu vực-dù đã kết hôn hay chưa-về các vấn đề SKSS bao gồm tình dục, chức năng sinh sản,
các biện pháp tránh thai, quan hệ tình dục an tồn... cịn nhiều hạn chế” [5,tr.12].
Thanh thiếu niên thường khơng biết cơ thể họ thực hiện chức năng sinh dục và sinh
sản như thế nào và thường mong muốn có những trao đổi với một người lớn tuổi có hiểu
biết vấn đề và nhất là khơng chỉ trích khi họ nêu thắc mắc tương đối chi tiết về vấn đề này.



Thanh thiếu niên chưa có gia đình thường khơng biết, hoặc khơng tiếp cận được
những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và như vậy nguy cơ mang thai ngồi ý muốn hoặc mắc
bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả lây nhiễm HIV/AIDS.
Đồng thời thông tin về về tình dục, sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên
hầu như khơng có và việc thảo luận về tình dục thường bị cấm kỵ. Nhiều người lớn cịn nghĩ
rằng việc đưa giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên vào chương trình học sẽ khiến lớp trẻ có
quan hệ tình dục sớm hơn và nhiều hơn. Tuy nhiên hàng loạt nghiên cứu cũng cho thấy,
thông qua việc nghiên cứu và giáo dục SKSS hay giáo dục sức khỏe tình dục sẽ làm cho
“thanh thiếu niên đã có quan hệ tình dục chấp nhận thực hiện những hành vi tình dục an
toàn hơn, cũng như lớp trẻ đã bắt đầu quan hệ tình dục muộn hơn hoặc giảm bớt hoạt động
tình dục nói chung” [5,tr.11].
Cũng qua các nghiên cứu trên cho thấy ở một số nước trong khu vực, cha mẹ được
xem là những người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục SKSS cho vị thành niên và
thanh niên. Nhưng trên thực tế, do việc việc thiếu hiểu biết chính xác hoặc khơng biết cách
nói chuyện với con cái về chủ đề trên khiến lớp trẻ thích thu lượm những thông tin từ những
người khác hay nguồn khác như bạn bè đồng lứa, phương tiện truyền thông không được
kiểm soát hơn là từ cha mẹ. Và lẽ tất nhiên chính điều đó đã gây cho các em những hệ lụy
khơng mong muốn.
Đáp ứng chương trình hành động quốc tế và thực hiện chiến lược quốc gia về dân số
và chăm sóc SKSS, ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động giáo dục dân số
cũng đã chuyển hướng sang giáo dục SKSS nói chung và SKSS cho vị thành niên nói riêng.
Theo đó đã có hàng loạt các cuộc nghiên cứu về SKSS đã được thực hiện. Đặc biệt hướng
nghiên cứu về nhận thức, thái độ, hành vi về SKSS ở nhóm dân số trẻ từ 15 tuổi đến 24 tuổi
cũng mới thực sự được quan tâm và phát triển trong những năm gần đây cùng với quá trình
hội nhập và đổi mới. Mặc dù còn khá mới mẻ nhưng chúng ta đã sớm nhận ra vị trí quan
trọng của giai đoạn 10 -19 tuổi (trong đó có đối tượng SV) trong q trình phát triển của
cuộc đời mỗi con người. Do vậy, chỉ hơn mười năm qua cùng với sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, sự vào cuộc của các nhà khoa học, sự hỗ trợ về mặt tài chính và khoa học của các
tổ chức quốc tế, đã có hàng chục cơng trình và đề tài nghiên cứu về các vấn đề cơ bản của
SKSS nói chung và SKSS vị thành niên nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu đa phần

thường được tiếp cận dưới góc độ Y tế - bệnh học và thời gian qua chúng ta cũng chưa có
một dự án nào một cách tồn diện với quy mơ quốc gia về SKSS vị thành niên.
- Điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) mang tính chất rộng lớn
vào năm 2003 do Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, , WHO thực hiện đã mô tả tương đối đa


dạng về các mối quan hệ bạn bè, SKSS và vấn đề tình dục; quan niệm, thái độ, hành vi và
trải nghiệm của thanh thiếu niên về các vấn đề SKSS. Đồng thời, cũng qua báo cáo điều tra
đã nêu lên nhận thức, kiến thức và nguồn thông tin về SKSS như nhận thức về 4 chủ đề
SKSS: Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD); Hiểu biết về chu kỳ kinh
nguyệt; Nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai; Việc sử dụng bao cao su.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa giáo dục giới tính
vào trường trung học tại thành phố Hồ Chí Minh”do Sở Khoa học cơng nghệ, Trung tâm tư
vấn tâm lý gia đình và trẻ em thành phố Hồ Chí Minh thực hiện vào năm 2004 đã nêu thực
trạng về nhận thức và hành vi của trẻ vị thành niên ở bậc phổ thông tại thành phố Hồ Chí
Minh xung quanh các vấn đề giới tính, tình u, tình dục và SKSS đồng thời cũng đề xuất
và thử nghiệm các giải pháp đưa giáo dục giới tính vào trường trung học học tại thành phố
Hồ Chí Minh.
- Hội thảo Khảo sát về vấn đề giới tính và tình dục tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng và Nha Trang do Viện Khoa học xã hội tổ chức vào tháng 10/1996 tại thành phố Hồ
Chí Minh.
Hầu hết các nghiên cứu trên khi xem xét, đánh giá về nhận thức về SKSS ở lứa tuổi
thanh thiếu niên đều cho thấy “một số lượng lớn các thanh thiếu niên thiếu hiểu biết hoặc
hiểu biết sai lệch về các vấn đề giới tính và tình dục” [40,tr.20] và “nhiều thơng tin về tình
dục và giới tính trong đó có nhiều nguồn thơng tin khơng lành mạnh có ảnh hưởng đến hành
vi tình dục và gây nhiều hậu quả rất lớn cho thanh thiếu niên” [40,tr.21]
Các cơng trình nghiên cứu trên đối tượng SV về SKSS ở các trường đại học thường
không nhiều chủ yếu là tập trung nghiên cứu những vấn đề cụ thể của SKSS. Có thể kể ra
một vài nghiên cứu sau đây:
- Quan niệm về sự chung thuỷ trong tình yêu của SV hiện nay của tác giả Lê Thị

Bừng nghiên cứu trên 143 sinh viên ở hai trường cao đẳng sư phạm Hưng Yên và đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn cho thấy đa số SV có quan niệm đúng về tình u, trong đó
gần 60,14% cho rằng yếu tố đầu tiên trong tình u là phải có phẩm chất chung
thủy....[7,tr.19-21]
- Quan niệm của SV về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân của tác giả Nguyễn
Ánh Hồng nghiên cứu trên 230 SV ở 3 trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đại
học Khoa học Tự nhiên và đại học Kinh tế đã phản ánh xu hướng dễ chấp nhận quan hệ tình
dục trước hơn nhân trong SV hiện nay, quan niệm về hơn nhân và tình u của họ thường
thoáng hơn [20,tr.18-20]


Các cơng trình nghiên cứu về nhận thức SKSS đối với SV đại học sư phạm cũng
đang còn ở giai đoạn khởi đầu.
- Tác giả Trần Thị Minh Ngọc với cơng trình nghiên cứu về “Khảo sát nhận thức của
sinh viên đại học sư phạm về SKSS” vào năm 2004 ở 1440 SV thuộc bốn trường đại học sư
phạm: Thái Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vinh đại diện cho các trường đại học
sư phạm ở bốn miền Bắc, Trung, Nam và miền núi phía Bắc, đã cho thấy thực trạng mức độ
nhận thức của sinh viên đại học sư phạm cịn rất hạn chế, khơng đồng đều. Có sự chênh lệch
mức độ nhận thức của sinh viên đại học sư phạm theo giới tính, năm học, học lực, ngành
học, khu vực về 7 nội dung cốt lõi của SKSS: 1. Khái niệm SKSS, đối tượng SKSS, nội
dung SKSS; 2. Giới tính; 3. Tình ạn, tình u, hơn nhân; 4. Tình dục an tồn; 5. Mang thai,
nạo phá thai; 6. Biện pháp tránh thai; 7. Bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS. Đồng thời cũng qua
nghiên cứu đó, tác giả cũng đề xuất các biện pháp tác động sư phạm nhằm phát triển nhận
thức của sinh viên đại học sư phạm về SKSS.[34,tr.40-58]
- Với cơng trình nghiên cứu về “Thực nghiệm nâng cao nhận thức của sinh viên sư
phạm về SKSS” vào năm 2005 cũng của tác giả Trần Thị Minh Ngọc tiến hành ở 358 SV
sư phạm Hà Nội, thực nghiệm với 3 nội dung cơ bản: tình dục an toàn, các biện pháp tránh
thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục bằng biện pháp tác động sư phạm thực hiện
qua 2 hình thức: tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ theo từng chủ đề về SKSS; tổ chức thi tìm hiểu
SKSS thơng qua trị chơi “hái hoa dân chủ” có giải bài tập tình huống. Qua kết quả thực

nghiệm đã cho thấy nhận thức của sinh viên sư phạm được nâng lên nhờ các biện pháp tác
động sư phạm nhưng mức độ thay đổi nhận thức về các nội dung SKSS là không đồng đều,
phụ thuộc nhất định vào các tác động sư phạm [36,tr.37-39]
- Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về nhận thức SKSS của sinh viên sư
phạm đã phản ánh thực trạng mức độ nhận thức của SV sư phạm về việc biết, hiểu, vận
dụng liên quan đến các vấn đề cốt lõi của SKSS, các biện pháp thực nghiệm nhằm nâng cao
nhận thức của sinh viên sư phạm về các chủ đề SKSS có liên quan nhất là các vấn đề tương
đối nhạy cảm như tình dục an tồn, các biện pháp tránh thai, các bệnh LTQĐTD.
Với đề tài “Nhận thức về SKSS của sinh viên trường đại học Tiền Giang”, chúng
tôi mong muốn qua việc nghiên cứu nắm bắt được thực trạng nhận thức về SKSS của sinh
viên đại học Tiền Giang ở các nội dung cơ bản về SKSS, đồng thời qua đó so sánh nhận
thức của SV ở 2 khối ngành lớn: ngành sư phạm (SP), ngành ngoài sư phạm vế vấn đề trên
nhằm xem xét sự khác biệt giữa SV sư phạm và SV ngành ngồi SP (NSP). Từ đó đề xuất
những giải pháp tác động nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về SKSS.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu


1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm về tuổi thanh niên sinh viên
Việc phân đoạn, phân kỳ quá trình phát triển của con người phác họa cho
chúng ta thấy rõ những nét đặc trưng cơ bản cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai đoạn phát
triển, các nét đặc trưng này nảy sinh trên cơ sở kết hợp các điều kiện khách quan và chủ
quan.
Quá trình phát triển này là quá trình liên tục. Mỗi giai đoạn phát triển vừa
mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển. Tuy nhiên việc phân đoạn, phân kỳ quá trình
phát triển của con người, trong đó có lứa tuổi thanh niên SV chỉ có ý nghĩa tương đối.
Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn, phân kỳ quá trình phát triển của con
người tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu: xuất phát từ đặc điểm phát triển sinh lý, đặc điểm
phát triển tâm lý hay đi từ góc độ xã hội học dựa vào các dạng hoạt động xã hội...Nếu so
sánh sự khác biệt giữa ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ khoa học thì nội dung các khái

niệm thể hiện giai đoạn phát triển lại càng khác xa nhau.
Riêng trong tâm lý học, nếu loại trừ sự khác biệt trong quan điểm phân đoạn,
phân kỳ lứa tuổi do tính liên tục của q trình phát triển tạo ra, nhìn chung có thể chấp nhận
xác định lứa tuổi thanh niên trong đó có thanh niên SV là từ 15 đến 24 tuổi. Tuy nhiên, cũng
cần nhận thấy rằng các ngưỡng tuổi trên và ngưỡng tuổi dưới có thể dịch chuyển chút ít (độ
1-2 tuổi) tuỳ thuộc vào các đặc điểm phát triển lịch sử xã hội, đặc điểm giới và cả đặc điểm
phát triển cá nhân.
Chính vì vậy, việc xem xét và đưa ra các quan niệm, định nghĩa về lứa tuổi
thanh niên SV nhìn chung là chưa thống nhất, cịn nhiều vấn đề tranh cãi.
- Theo Từ điển Giáo dục học của nhà xuất bản Từ điển Bách khoa: “Sinh viên là
người học của một cở sở giáo dục cao đẳng, đại học” [18,tr.343]. Theo cách hiểu này, có
thể phân loại sinh viên theo nhiều phạm trù khác nhau. Thí dụ sinh viên tập trung, sinh viên
chính quy, sinh viên khơng tập trung, sinh viên tại chức, sinh viên tự do,....Hơn nữa, do nhu
cầu thống kê, người ta có thể phân biệt sinh viên thông thường và sinh viên thuộc hệ thống
giáo dục khơng chính quy (giáo dục thường xun) và có một hệ số quy đổi từ sinh viên
khơng chính quy sang sinh viên chính quy.
- Về độ tuổi theo Điều 1, chương I, Luật thanh niên 2005, thanh niên trong đó
có cả thanh niên sinh viên là “cơng dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”.
- Quan điểm cho rằng tuổi thanh niên sinh viên thuộc giai đoạn tuổi thanh niên
là phù hợp xét theo nhiều mặt. Theo cách hiểu đó, tuổi thanh niên là “giai đoạn phát triển
bắt đầu từ sự phát dục và kết thúc vào lúc bước vào tuổi trưởng thành” [17,tr.61]. Tuy nhiên


việc phát dục hay trưởng thành về mặt sinh dục của mỗi trẻ em là hoàn toàn khác nhau. Hơn
thế nữa, việc xác định chuẩn thế nào là người trưởng thành cũng khác nhau. Chính vì vậy,
theo cách nhìn nhận trên thì khó mà xác định được giới hạn về tuổi thanh niên. Trên thực tế,
người ta thường đưa ra các chuẩn về mặt sinh lý, về mặt xã hội... để xác định lứa tuổi thanh
niên.
- Cũng có quan niệm cho rằng nội dung tuổi thanh niên là những giai đoạn của
cuộc đời. Quan niệm này có phần chặt chẽ, khoa học hơn khi cho rằng tuổi thanh niên là

giai đoạn chuyển tiếp, quá độ từ trẻ em đến người lớn và bao gồm lứa tuổi từ 11-12 đến 2325 tuổi và trong đó đặc biệt lưu ý đến 2 thời kỳ cơ bản sau:
+ Tuổi thanh niên mới lớn:(từ 14-15 đến 18 tuổi) là “thế giới thứ ba”[21,tr.61]
tồn tại giữa trẻ em và người lớn với đặc trưng là sự trưởng thành về mặt cơ thể, sự chín
muồi sinh vật, là giai đoạn hồn thiện q trình xã hội hóa đầu tiên. Tuổi thanh niên mới lớn
cũng thuộc “thời kỳ chuyển tiếp trước”.
+ Thời kỳ thứ ba của lứa tuổi chuyển tiếp (từ 18 đến 23-25 tuổi) là tuổi thanh
niên muộn hay thời kỳ bắt đầu của tuổi người lớn còn gọi là “thời kỳ chuyển tiếp sau”. Lứa
tuổi này “lớn” về cả hai phương diện sinh vật và quan hệ xã hội.
Theo Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị “SV đại học là những thanh niên thuộc
thời kỳ chuyển tiếp sau” [43,tr.37-44]. Việc cho rằng thanh niên nằm trong thời kỳ chuyển
tiếp và SV đại học thuộc thời kỳ chuyển tiếp sau cũng phù hợp với quan niệm của nhà tâm
lý học người Mỹ Niky Hayes khi cho rằng “thời thanh niên như một thời kỳ chuyển tiếp vai
trò ngày càng tăng, đến lượt dẫn đến sự thay đổi nhân cách”[15,tr.803]. Theo đó việc
chuyển tiếp có thể diễn ra từ trường học đến nơi làm việc hay thực hành kinh nghiệm địi
hỏi thanh niên nói chung và thanh niên SV nói riêng phải tập quen nhiều hành vi vai trị
khác biệt nhau nhằm mục đích hướng tới việc hồn thiện bản thân.
- Trong một cơng trình nghiên cứu khác, người ta cho rằng đối với lứa tuổi
thanh niên SV, về tên gọi và sự phân chia giai đoạn phát triển ở lứa tuổi này được xác định
theo một nghĩa tương đối. Các thành tựu nghiên cứu về sự phát triển của lứa tuổi này cịn ít,
chưa tập trung và có hệ thống nên việc khái quát các đặc điểm chung đối với toàn bộ độ tuổi
này theo ghi nhận là thuộc nhóm dân số trẻ tức là trong độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi. Thông
thường khi đề cập đến lứa tuổi này, người ta hay mơ tả đó là lứa tuổi của những “thanh niên
đang ngồi trên ghế nhà trường: đại học, cao đẳng, dạy nghề....”[36,tr.137]. Theo ý kiến của
nhiều tác giả, lứa tuổi thanh niên sinh viên nên bắt đầu từ 19 tuổi và kết thúc vào khoảng
24–25 tuổi. Sỡ dĩ như vậy là vì khi ở độ tuổi 24, 25 con người đã hoàn tất sự phát triển về
thể chất thể hiện ở: sự tăng lên về chiều cao, trong lượng của cơ thể, sự hoàn thiện về cấu


tạo và chức năng của các bộ phận trong cơ thể.... Đồng thời ở tuổi 25 cũng là dấu mốc cuối
cùng kết thúc giai đoạn đào tạo dài nhất ở trường đại học như đại học y, đại học dược sinh

viên phải hồn thành khóa học trong thời gian 6 năm.
Tóm lạị: Từ cách tiếp cận các quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu: Tuổi thanh
niên SV là cơng dân Việt Nam, trong độ tuổi từ 19 đến 23-25 tuổi, nhóm dân số trẻ ở “thời
kỳ chuyển tiếp sau”; là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về mặt thể chất sang sự trưởng
thành về mặt tâm lý –xã hội; là lứa tuổi đang ngồi trên ghế nhà trường đại học, cao đẳng,
dạy nghề....
1.2.1.2. Khái niệm về sức khỏe sinh sản
- Bối cảnh ra đời của khái niệm SKSS.
Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, chúng ta khơng thấy đề cập hay nhắc đến
khái niệm SKSS mà chỉ nói đến các vấn đề về giới tính, giáo dục giới tính, sức khỏe, văn
hóa tính dục, tình dục. Khái niệm SKSS được khởi nguồn từ các nước phương Tây và theo
hướng hòa nhập xuất hiện ở Việt Nam thời gian gần đây. Thực chất SKSS khơng phải là cái
gì xa lạ mà nó chỉ là “một bộ phận của sức khỏe con người nói chung” [27,tr.422].
Theo tác giả Đào Xuân Dũng: Khái niệm SKSS “có nguồn gốc từ những năm 50
của thế kỷ XX khi xuất hiện tình trạng gia tăng dân số quá nhanh ở nhiều nước đang phát
triển buộc chính phủ nhiều nước phải quyết định hành động để giảm bớt sự tăng nhanh dân
số” [25,tr.47]. Vì thế trong thập niên 60 của thế kỷ XX, nhiều chương trình kế hoạch hóa gia
đình (KHHGĐ) đã ra đời ở nhiều nước và trở thành động lực bước đầu cho những nỗ lực
toàn cầu trong nghiên cứu vấn đề sinh sản người.
Năm 1965, sau gần một thập niên tranh luận, Hội đồng dân số thế giới đã kêu gọi
WHO đưa vấn đề sinh sản người vào Chương trình hoạt động (nghị quyết 18.49 của WHO)
và yêu cầu thiết lập Chương trình hoạt động liên quan đến sinh sản, SKSS.
Năm 1972, một số nước và tổ chức trên thế giới đã xây dựng một Chương trình
nghiên cứu mở rộng về sinh sản và 5 năm sau đó đã trở thành một Chương trình đặc biệt có
nhiệm vụ Nghiên cứu, Phát triển và Huấn luyện nghiên cứu về sinh sản người. Chương trình
khơng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về điều hòa sinh sản mà đã hướng tới việc nghiên cứu
các phương pháp tránh thai, chẩn đốn, điều trị vơ sinh và các bệnh LTQĐTD.
Năm 1986 chương trình này cịn nghiên cứu về AIDS, sự lây nhiễm HIV từ mẹ
sang con. Năm 1988 thì WHO đã ủng hộ những đường lối chiến lược của Chương trình,
đồng thời tái khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa KHHGĐ, sức khỏe và phát triển và sự

cần thiết phải lồng ghép các hoạt động KHHGĐ với các hoạt động bảo vệ sức khỏe bà mẹ


trẻ em. Chính từ thời điểm này, sứ mạng của Chương trình là phát triển và điều phối những
nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu về SKSS.
- Quan niệm về sức khỏe sinh sản.
Rõ ràng vấn đề SKSS đã được quan tâm nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX.
Khái niệm này chính thức được nhắc đến từ Chương trình của WHO về nghiên cứu sinh sản
người trên bình diện toàn cầu xuất từ yêu cầu của việc giáo dục dân số, việc nghiên cứu về
giới tính, trong đó đáng lưu ý là xuất phát từ tình hình phức tạp của đời sống xã hội về các
tệ nạn xã hội, về sự bùng nổ dân số, về sự phát triển của những lối sống không lành mạnh
của thanh thiếu niên.
Theo tác giả Bùi Ngọc Oánh, việc nghiên cứu SKSS thường được tiến hành theo
các hướng:
+ Nghiên cứu theo góc độ Dân số học và Giáo dục dân số: việc nghiên cứu
này thường đi vào những phương thức điều chỉnh sự phát triển dân số, KHHGĐ, giáo dục
dân số.....
+ Nghiên cứu theo góc độ Y học: việc nghiên cứu này thường là hướng những
tri thức khoa học về các vấn đề của SKSS, những vấn đề thuộc về kỹ thuật của KHHGĐ....
+ Nghiên cứu việc giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên cũng như cho người
lớn, đặc biệt là cho trẻ vị thành niên, trẻ ngoài nhà trường.
Kể từ sau Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tại Cairo, Ai Cập vào
tháng 09/1994, việc nghiên cứu về SKSS ngày càng được phát triển.
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục SKSS được đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện
nay ở mọi đối tượng nhất là vị thành niên vì nhóm đối tượng này có nguy cơ cao. Bởi lẽ,
nhóm đối tượng này dễ mắc bệnh LTQĐTD, nghiện hút ma tuý như HIV/AIDS và nhiều
bệnh lây nhiễm khác, thậm chí cịn là vấn đề thách thức về SKSS. Thực tế những nội dung
này chỉ mới được giới thiệu trong thời gian gần đây, nhưng đã được nhiều cơ quan ban
ngành trong xã hội xem xét tích cực. Năm 1998, Ủy ban Nhà nước về các vấn đề xã hội đã
khuyến cáo Quốc hội, Chính phủ và các tỉnh “Phát triển chương trình SKSS quốc gia bao

gồm chương trình quốc gia chăm sóc bà mẹ trẻ em, nâng cao chất lượng của các dịch vụ
KHHGĐ và phát triển chương trình SKSS thanh thiếu niên”[4,tr.26-27] và “năm 2004, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đưa nội dung giáo dục dân số - SKSS vào chương trình đào
tạo trong các trường sư phạm”[38,tr.134] cũng như thực hiện chương trình giáo dục về
SKSS ở các nhà trường từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông.
Trước đây, khi nói đến khái niệm SKSS thường người ta cho rằng đó là những
vấn đề liên quan đến KHHGĐ, đến vấn đề sinh sản và sức khỏe của phụ nữ. Ngày nay, mọi


người đều nhận thấy rằng sức khỏe sinh sản có nội hàm rộng hơn bao gồm nhiều vấn đề về
lối sống, quan hệ yêu đương, tri thức về KHHGĐ, về hoạt động tình dục và nhiều vấn đề
khác.
Về khái niệm SKSS, mặc dù có nhiều tài liệu khác nhau với nhiều cách trình bày
khác nhau nhưng tựu trung các tác giả đều thống nhất với định nghĩa của WHO khi đề cập
đến SKSS: “SKSS là tình trạng khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những
gì liên quan đến hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ khơng phải chỉ là khơng
có bệnh tật hoặc là ốm yếu”. Định nghĩa này đã được Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát
triển (ICPD) họp tại Cairo, Ai Cập vào năm 1994 công nhận. Chính vì vậy hiện nay trong
các tài liệu về SKSS các tác giả thường sử dụng khái niệm này.
Trong đề tài này, chúng tôi cũng sẽ sử dụng cách tiếp cận khái niệm SKSS này,
xem đó là khái niệm cơ bản khi thực hiện nghiên cứu. Vì đây là khái niệm mang tính phổ
biến.
Theo cách hiểu trên, khái niệm SKSS hàm ý là con người có thể có một cuộc sống
tình dục an tồn và thỏa mãn, có khả năng sinh sản và được tự do quyết định khi nào và
thường xuyên như thế nào trong việc này. Điều kiện cuối cùng này ngụ ý nói về quyền của
phụ nữ và nam giới được thông tin và tiếp cận các biện pháp KHHGĐ an toàn, hiệu quả
vừa túi tiền, có thể chấp nhận được và được tự lựa chọn cũng như các biện pháp khác để
điều hòa sinh sản mà không trái với pháp luật. Việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe thích hợp sẽ giúp cho người phụ nữ trải qua thời kỳ thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo
cho các cặp vợ chồng có cơ may tốt nhất để có con lành mạnh, một cách lý tưởng là tham

vọng hướng đến việc tạo ra những đứa con với các tiêu chuẩn “đẹp, khỏe, cao, thơng minh
và ngoan”. Từ định nghĩa trên có thể khẳng định, việc chăm sóc SKSS là một tổng thể các
biện pháp kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng
ngừa và giải quyết cáxc vấn đề về sức khỏe sinh sản. Nó cũng bao gồm cả sức khỏe tình dục
với mục đích là đề cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, chứ không chỉ là việc tư vấn
và chăm sóc liên quan đến sinh sản và cách bệnh LTQĐTD.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy điều này khi nói đến SKSS người ta cũng thường
đề cập đến khái niệm sức khỏe tình dục vì chúng có liên quan mật thiết nhau và sức khỏe
tình dục được xem là một bộ phận của nội dung SKSS.
Khái niệm sức khỏe tình dục đã được đề cập từ thập niên 70 của thế kỷ XX
(1975) trước khi tổ chức Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại Cairo, Ai Cập
năm 1994. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, sức khỏe tình dục được phát biểu như sau: “Sức
khỏe tình dục là tổng hợp các khía cạnh thể chất, tình cảm, tri thức và xã hội của con người


có tính dục, sao cho cuộc sống con người phong phú, tốt đẹp hơn về nhân cách, giao tiếp và
tình yêu”
(Nguồn: Sex Education in the eighties- Lorna Brown-p.248)
Điều đó chứng tỏ rằng, hành vi tính dục của con người khơng còn là “vấn đề
riêng tư của cá nhân mà đã trở thành một vấn đề mang tính xã hội” [12,tr.52]. Hành vi tính
dục của con người trước đây thường chịu sự nhìn nhận, đánh giá khắt khe và biến đổi theo
thời gian, theo sự phát triển xã hội. Hiện nay đã ra đời những quan niệm cởi mở hơn, tiến bộ
hơn do việc chúng ta ngày càng hiểu rõ bản chất sinh học, ảnh hưởng tâm lý, giá trị nhân
bản và tác động xã hội của nó. Đồng thời sức khỏe tình dục, ngồi ý nghĩa nhân bản của nó
cịn thể hiện một bước tiến quan trọng trong quan niệm về bình đẳng nam nữ và đã trở thành
“một nội dung được quan tâm nhiều trong khoa học xã hội về phụ nữ”.
Khi nói đến sức khỏe tình dục, chúng ta cũng cần xem xét đến yếu tố có liên quan
như: vấn đề tình dục an tồn và lành mạnh, tình dục có trách nhiệm, việc giáo dục tình dục,
vì sao cần coi hành vi tình dục người là một thực thể sức khỏe....Có như vậy, trong điều
kiện nhất định mới có thể trang bị tương đối đầy đủ cho các loại đối tượng trong đó có thanh

niên.
- Nội dung cơ bản của vấn đề SKSS.
Trong kế hoạch hành động sau Hội nghị Cairo của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc
(UNFPA), SKSS bao gồm sáu nội dung chính có liên quan mật thiết với nhau đó là SKSS,
KHHGĐ, sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an tồn, vơ sinh, bệnh nhiễm nhuẫn và bệnh lây
truyền qua đường tình dục, vấn đề tình dục.
Nhưng mỗi khu vực, mỗi quốc gia lại có những vấn đề ưu tiên của riêng mình,
nên các nước và các tổ chức tham gia vào việc thực hiện chương trình sức khỏe sinh sản đã
cụ thể hóa 10 nội dung như sau :
+ Làm mẹ an toàn.
+ Kế hoạch hóa gia đình.
+ Nạo hút thai.
+ Bệnh nhiễm khuẩn qua đường sinh sản.
+ Các bệnh LTQĐTD.
+ Giáo dục tình dục
+ Phát hiện sớm ung thư vú và đường sinh dục.
+ Vô sinh.
+ Sức khỏe vị thành niên.
+ Giáo dục truyền thơng vì SKSS-KHHGĐ [42, tr.12].


Nội dung SKSS như đã đề cập bao gồm nhiều nội dung phong phú, phức tạp, có
nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều có những điểm chung.
Theo tác giả Bùi Ngọc Oánh, nội dung cơ bản của vấn đề SKSS bao gồm:
+ Tình trạng sức khỏe của hệ cơ quan sinh dục nam và nữ...
+ Sự dậy thì và sự chín muồi giới tính, sự nảy sinh và xuất hiện những nhu cầu
của đời sống tình dục.
+ Những biểu hiện của đời sống tính dục và những chức năng khác trong hoạt
động ủa các cơ quan sinh dục.
+ Đời sống tình dục trong đó có sức khỏe tình dục.

+ Sự thụ thai và các vấn đề phòng tránh, chữa trị trong sinh nở nuôi con...
+ Vấn đề KHHGĐ.
+ Những kiến thức và bệnh lý liên quan đến đường tình dục.
+ Ý thức và trách nhiệm trong quan hệ yêu đương, quan hệ tình dục.
+ Ý thức tơn trọng phụ nữ, tơn trọng quyền bình đẳng nam nữ....[38, tr.135-136].
Theo tác giả Đào Xuân Dũng, nội hàm của SKSS có thể tóm tắt ở các điểm chính
sau đây:
+ Hành vi sinh sản và tình dục có trách nhiệm.
+ Dịch vụ KHHGĐ rộng rãi và thuận tiện.
+ Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đảm bảo thai nghén và sinh nở an tồn.
+ Kiểm sốt có hiệu quả các bệnh nhiễm khuẫn đường sinh sản.
+ Phịng và điều trị vơ sinh.
+ Loại trừ phá thai khơng an tồn.
+ Phịng và điều trị các bệnh ác tính ở cơ quan sinh sản.
Ngồi ra SKSS cịn có ảnh hưởng qua lại với nhiều khía cạnh khác của sức khỏe,
đặc biệt là HIV/AIDS, sức khỏe trẻ em, sức khỏe vị thành niên, tình dục, lối sống và môi
trường [25,tr.49-50].
Thực tế ở Việt Nam khi đề cập đến nội dung của SKSS thường người ta hay nhắc
đến 7 vấn đề ưu tiên sau đây :
+ Quyền sinh sản.
+ Các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
+ Kế hoạch hóa gia đình.
+ Nạo phá thai.
+ Bình đẳng giới.
+ Sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn


+ SKSS vị thành niên [54,tr.4]
Theo Chuẩn quốc gia về Chăm sóc SKSS, Bộ Y tế nội dung chủ yếu của SKSS
gồm các vấn đề sau:

Chăm sóc phụ nữ khi mang thai, chăm sóc bà mẹ và trẻ trong khi sinh và sau khi
sinh.
Kế hoạch hóa gia đình và các biện pháp tránh thai.
Nạo hút thai an toàn và giảm tác hại của việc nạo hút thai.
Phòng tránh các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản, bệnh LTQĐTD, nhiễm
HIV/AIDS.
Chăm sóc SKSS vị thành niên [17,tr.9]
Có thể nói: nội dung cơ bản của SKSS gây tác động tới vấn đề sức khỏe - cụ thể
là các vấn đề sức khỏe có liên quan đến hệ sinh sản hoặc là các vấn đề sức khỏe có liên quan
tới giống nịi. Ở Việt Nam, vấn đề SKSS đặt ra chủ yếu là tình trạng mang thai ở tuổi thiếu
niên, các bệnh LTQĐTD, sự phân biệt chống lại trẻ em gái và phụ nữ và bạo lực đối với phụ
nữ. Ở nhà trường phổ thông, nội dung SKSS phải tập trung vào việc giúp học sinh hiểu biết
và có những quyết định đúng đắn hơn đối với các vấn đề này.
Trong các cơng trình nghiên cứu về SKSS, các tác giả cũng thường đề cập đến
các nội dung cốt lõi của SKSS nêu trên như: thuật ngữ, khái niệm SKSS, vấn đề giới và giới
tính, tình bạn, tình u, hơn nhân, tình dục an tồn, mang thai, nạo phá thai, biện pháp tránh
thai, bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS.
Như vậy, với những nội dung trên, khái niệm SKSS trước hết là một khái niệm
rộng không chỉ giới hạn ở sức khỏe người mẹ mà là sức khỏe người phụ nữ nói chung,
nhưng cũng quan tâm đến những vấn đề liên quan đến quá trình sinh sản của nam nữ và
nhấn mạnh nhiều đến việc tự quyết định của phụ nữ với sinh đẻ. Vấn đề này hiện nay ở
nhiều loại đối tượng trong đó có cả SV và người lớn vẫn cho rằng SKSS là vấn đề chỉ dành
cho những người đã lập gia đình và có con. Họ đồng nhất vấn đề SKSS với việc sinh đẻ của
các sản phụ và thậm chí cịn cho rằng việc cung cấp kiến thức về SKSS chẳng khác nào
“vạch đường cho hươu chạy”....
Khái niệm SKSS có ý nghĩa xã hội và rất nhân bản vì nó giúp nâng cao những
yêu cầu bảo vệ chức năng đặc thù của phụ nữ là mang thai, sinh đẻ và nuôi con. Chức năng
đặc thù này xét về mặt đạo lý và giá trị được xem là chức năng xã hội vì nó quan tâm đến cả
hai giới mặc dù hiện nay vấn đề ưu tiên trong SKSS là dành ưu tiên cho phụ nữ nhưng chính
bản thân nam giới đơi khi cũng không được hưởng đầy đủ về SKSS như vấn đề vơ sinh ở

nam giới, rối loạn chức năng tình dục của nam giới....mà hiện nay ở nước ta ít có cơ sở y tế


và thầy thuốc chuyên khoa chữa trị. Do vậy nói đến SKSS phải là “tình trạng khỏe mạnh về
thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những gì liên quan đến hoạt động và chức năng của
bộ máy sinh sản” và cần phải chú ý việc chăm sóc SKKS đến cả hai giới mặc dù có thể một
giới nào đó được ưu tiên chăm sóc nhiều hơn.
Từ những nội dung trên, có thể nói rằng: “SKSS là bộ phận quan trọng và điển
hình của đời sống giới tính, gắn bó mật thiết với những yếu tố khác của đời sống giới
tính”[38,tr.136]
Theo các nội dung trên về SKSS, có thể được trình bày ở nhiều tài liệu khác nhau,
theo những cách viết khác nhau nhưng tất cả đều phác họa những vấn đề cơ bản về SKSS.
Vấn đề quan trọng theo chúng tôi là cần xác định đúng nội dung cần thực hiện đảm bảo phù
hợp ở mức cao cho từng loại đối tượng, xem xét các vấn đề ưu tiên khi giới thiệu, giảng
dạy, giáo dục, tư vấn, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng thanh thiếu niên trong đó có SV.
Hướng tiếp cận của chúng tơi về nội dung SKSS trong đề tài này là theo cách trình bày của
tác giả Bùi Ngọc nh vì nó đầy đủ nhưng lại rất cụ thể và rõ ràng.
1.2.1.3. Sức khỏe sinh sản tuổi thanh niên
Hầu như các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều cho rằng
SKSS là một khái niệm mới chưa được hiểu một cách thống nhất. Những nội dung chủ yếu
của SKSS là gì? đối với từng loại đối tượng cần cung cấp cho họ những vấn đề nào,.... cịn
rất ít người biết đến. Tuy nhiên người ta đều thống nhất rằng: “thanh niên nên theo chuẩn
mực của văn hóa truyền thống”[32,tr.214].
Là người chủ tương lai của đất nước đặc biệt là nhóm đối tượng thanh niên SV
với tư cách là những trí thức có trình độ cao, họ phải tích cực học tập, chuẩn bị cho mình
kiến thức đầy đủ để làm chủ cuộc sống, cuộc đời của mình và tham gia xây dựng xã hội.
Đồng thời phải ý thức những việc nên làm và tránh xa những việc không nên làm; chú ý
việc rèn luyện thể chất, tiếp thu có chọn lọc những cái mới theo hướng “gạn đục khơi
trong”. Do vậy, bên cạnh việc cung cấp cho thanh niên kiến thức văn hóa, xã hội, khoa học
và cơng nghệ địi hỏi các nhà hoạch định chính sách cũng cần lưu tâm đến việc phát triển

toàn diện về thể lực đặc biệt là về giới tính, SKSS để duy trì nịi giống, đóng góp vào sự
phát triển của xã hội. Điều đó đã được khẳng định trong Chiến lược dân số Việt Nam giai
đoạn 2001- 2010 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 22/12/200.
Đặc điểm của lứa tuổi này là đã có sự phát triển tương đối hồn chỉnh về nhân
cách, ý thức công dân, quan điểm sống, xu hướng đạo đức.... Trước mắt nhà giáo dục là
“một thế giới người lớn”. Họ địi hỏi có sự tơn trọng, quan hệ bình đẳng và tin cậy lẫn nhau
đối với với nhà giáo dục. Thêm vào đó, ở lứa tuổi này cịn có đặc điểm là “ln mở rộng


phạm vi các mối quan tâm gần gũi và những mối quan tâm với người lớn nói chung”
[28,tr.34]. Vì vậy, họ đã có đầy đủ lý trí và tính tự chủ trong những xét đốn và những hành
động của mình, có thái độ phê phán đối với bản thân và người khác nhất là trong phạm vi
các mối quan hệ nam nữ. Điều cần thiết đòi hỏi người lớn cần đối xử với họ một cách phù
hợp: lắng nghe ý kiến, dẫn dắt họ một cách tế nhị trong cuộc sống hàng ngày để giúp họ
thốt khỏi tính tự cao tự đại hay do dự, nhút nhát.
Theo chúng tôi, nội dung SKSS cho lứa tuổi thanh niên có thể bao gồm các vấn
đề sau:
- Ôn lại và nâng cao những kiến thức về giải phẫu sinh lý và chức năng của cơ
quan sinh dục nam nữ. Điều cần lưu ý là đối với họ, tùy theo nhóm tuổi mà giới hạn nội
dung giáo dục.
- Làm rõ khái niệm giới tính và sự khác biệt nam nữ về giới tính.
- Nhấn mạnh tính đạo đức trong quan hệ tình dục nam nữ, văn hóa tình dục. Vấn
đề tình dục trong tình u. Tác hại của quan hệ tình dục trước hơn nhân.
- Tình bạn, tình yêu lành mạnh. Tình yêu và sự lựa chọn bạn đời chuẩn bị cho
hôn nhân. Tri thức về hơn nhân và gia đình. Văn hóa ứng xử trong quan hệ nam nữ.
- Thụ thai và sự phát triển của thai. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển bào
thai.
- Tội phạm tình dục và phịng tội phạm tình dục.
- Các biện pháp tránh thai. Hậu quả của việc có thai ngồi ý muốn và nạo phá
thai ở thanh niên.

- Các bệnh LTQĐTD.
- Vấn đề của nhựng cặp vợ chồng trẻ.
- Lơị ích của việc KHHGĐ.
Trong các nội dung vừa trình bày, nhằm phục vụ cho đề tài này, theo chúng tôi
cần làm rõ một số vấn đề sau:
* Giới tính và sự khác biệt nam nữ
- Khái niệm giới tính
Có nhiều quan niệm khác nhau liên quan đến khái niệm này nhưng chúng tôi
chọn cách tiếp cận khái niệm giới tính của giáo sư Trần Trọng Thuỷ: “Giới tính là tất cả
những đặc điểm riêng biệt tạo nên sự khác nhau giữa nam và nữ” [43,tr.164] và của tác giả
Bùi Ngọc Oánh “Giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo nên sự khác biệt giữa
nam và nữ”[36.tr.29] là đầy đủ, chặt chẽ. Có quan điểm nói đến giới tính là nói đến vấn đề


sinh sản, là đặc điểm khác biệt về sinh học giữa nam và nữ chủ yếu liên quan đến chức năng
sinh sản là chưa đầy đủ.
Thực chất giới tính “ là một đặc điểm nền tảng có tính chất sinh học – xã hội của
con người”[26.tr.37]. Ý thức mình thuộc giới nào ở mỗi cá nhân là kết quả của quá trình
sinh học – xã hội phức tạp liên kết thống nhất ở ba mặt: sự phát triển chất người – sự xã hội
hóa gới tính – sự phát triển tự nhận thức của con người.
- Những biểu hiện của sự khác biệt giới tính
Theo tài liệu nghiên cứu tiếp cận được, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt của giới
tính được biểu hiện: về mặt giải phẫu sinh lý ở cấu trúc và chức năng của các bộ phận cơ
thể nhất là chức năng đặc biệt của hệ sinh dục nam nữ và biểu hiện về mặt tâm lý: hứng thú,
tình cảm, tính cách, năng lực [45,tr.167-tr.169]
- Bình đẳng giới
Bình đẳng giới có nghĩa là “nam giới và nữ giới được công nhận và hưởng các vị
thế ngang nhau trong xã hội”[1,tr.14]. Bình đẳng giới khơng có nghĩa là nam giới và nữ giới
giống nhau mà phải là sự tương đồng và khác biệt giữa hai giới được công nhận và mang
giá trị ngang nhau; được trải nghiệm những điều kiện ngang nhau để phát huy tiềm năng, có

cơ hội tham gia, đóng góp và hưởng lợi như nhau trong các lĩnh vực. Điều quan trọng hơn
cả là hai giới “được hưởng các tác động hỗ trợ một cách bình đẳng” [1,tr.14]. Chính vì lẽ đó
mà bình đẳng giới đích thực cũng là một mục tiêu của sự phát triển xã hội.
* Những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.
Phần này có thể khơng cần đi sâu nên nghiêng về việc giới thiệu khái quát những
vấn đề sinh lý người, tuổi dậy thì, chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, nội dung trình bày cần
hấp dẫn khơng q đi sâu, tỉ mĩ khêu gợi trí tị mị của thanh niên nhưng có nhiều mức khác
nhau để phù hợp với từng độ tuổi. Vấn đề quan trọng là cần phát huy khả năng chủ động của
đối tượng trong việc xem xét vấn đề.
* Kiến thức về tình bạn, tình yêu đôi lứa; tri thức về hôn nhân và đời sống gia
đình
- Tình bạn.
+ Tình bạn là gì?
Người ta có nhiều quan niệm khác nhau về tình bạn. Có người thích chơi với
nhóm bạn nhiều người, nhóm có những hoạt động cùng u thích, nhóm có cùng chí hướng
và ước mơ.... Dù phong cách của từng người thế nào đi nữa nhưng ai cũng cảm thấy kiêu
hãnh được làm thành viên của một nhóm bạn nào đó và thường nhóm bạn của mình được
xem là một phần của “gia đình mình”


Theo nhiều tài liệu tiếp cận, chúng tôi nhận thấy đều thống nhất với định nghĩa:
“Tình bạn là loại tình cảm gắn bó giữa hai người hoặc một nhóm người với nhau trên cơ sở
hợp nhau về tình tình, giống nhau về sở thích, có sự phù hợp về xu hướng ( thế giới quan, lý
tưởng, niềm tin, hứn thú...) và một số nét nhân cách khác mà qua đó mỗi người đều tìm thấy
ở bạn mình một cái “tơi” thứ hai ít nhiều có tính chất lý tưởng”[5,tr.58], [19,tr.25], [45].
Chính vì vậy, thơng qua mối quan hệ bạn bè, mỗi người có thể bộc lộ, khám phá, tự kiểm tra
và đánh giá bản thân bằng việc so sánh mình với người khác, đồng thời dựa vào sự đánh giá
của mình để tự hiểu mình, tự điều chỉnh, tự giáo dục và hồn thiện mình.
Một điều cần lưu ý là chỉ đến cuối tuổi thiếu niên trở lên mới có tình bạn thân
theo đúng nghĩa của nó dựa trên sự giống nhau về xu hướng. Và càng đến tuổi thanh niên

tuổi trưởng thành, “tình bạn thân càng ổn định, càng bền vững kể cả tình bạn cùng giới cũng
như tình bạn khác giới”[45,tr.110].
+ Đặc điểm của tình bạn tốt
Bản chất của tình bạn là tình người, là kết tinh từ tình người. Cho nên giữa tình
bạn và tình người có quan hệ mật thiết không tách rời nhau. Đặc điểm của tình bạn tốt địi
hỏi biểu hiện ở các dấu hiệu sau :
Có sự phù hợp về xu hướng
Có sự bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau.
Có sự chân thành, tin cậy và có trách nhiệm cao đối với nhau.
Có sự đồng cảm.
Có thể tồn tại nhiều mối quan hệ tình bạn cùng một lúc và vẫn giữ được độ
mặn nồng, thắm thiết [43,tr.113], [5,tr.59]
Chính vì vậy mà tình bạn tốt khơng chấp nhận sự bao che khuyết điểm, bè phái,
có sự ghen ghét đố kỵ nhau....
+ Tình bạn khác giới
Tình bạn khác giới là tình bạn giữa một bạn nam và một bạn nữ, thường có
các đặc điểm sau đây:
Cảm thấy bối rối, xao xuyến, ngỡ ngàng.
Những rung cảm giới tính trong giao tiếp chứa đựng nhiều tâm trạng phức
tạp
Có khoảng cách tế nhị hơn so với tình bạn cùng giới, dường như có một sự
“tự điều chỉnh” tự nhiên trong mối quan hệ khác giới.


×