Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.58 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................3
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:.................................................................................3
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.............................................................5
2.3. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.....................................................................6
2.4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.......................................................................15
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...............................................................17

0


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết học tập là một nhu cầu thường trực của con người
trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần
túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối
quan hệ, cách thức ứng xử với mơi trường sống xung quanh hay đó là kĩ năng
sống của con người.
Hiện nay, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập, nặng về kiến
thức khiến cho khơng cịn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt
động xã hội, những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng.
Điều này đã dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với
những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Phần lớn các đối tượng là học sinh còn
thiếu nhiều kĩ năng sống cần thiết, nó được biểu hiện ở việc thiếu tính tự tin,
tự lập, sống ích kỷ, vơ tâm,  thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân. Các
em khơng biết cách giao tiếp, ứng xử với nhau, vì thế dễ gây ra xung đột.
Ngay cả đối với các học sinh được xem là con ngoan, trò giỏi, nhưng khi
đứng trước đám đông vẫn không thể hiện được hết khả năng của mình, ít nhất
là trong việc diễn đạt. Nhiều em học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại,
đắm chìm trong thế  giới  ảo của Internet của thế giới game, ... mà quên đi và


đánh mất những  cơ hội kết  bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình,
lo sợ rụt rè khi  tiếp xúc với cộng đồng, xã hội. Nhiều vị phụ huynh lo lắng
trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, ln tỏ  ra  rụt rè khi có cơ hội thể
hiện mình trước đám đông hoặc các cháu không  biết  cách xử lý tình huống
dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ  người khác, tìm đường, định
hướng, đi xe buýt,....
Thêm nữa trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kĩ 
năng tự  bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi các nhóm trẻ xấu ln lấy 
sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các trẻ hiền, ít nói....
Như vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là việc làm cần thiết
đáp ứng được sự phát triển của xã hội cũng như đáp ứng được nguyện vọng
của đa số phụ huynh. Giáo dục Kĩ năng sống có thể thơng qua các môn học
như Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội, Đạo đức, hay các hoạt động tập thể. Song
trong phạm vi hạn hẹp tơi chỉ trình bày “ Biện pháp Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh lớp 3 qua môn Tiếng Việt ” để trao đổi cùng đồng nghiệp
nhằm đóng góp phần nào kinh nghiệm giáo dục cho con em chúng ta trở
thành những con người tồn diện, năng động, sáng tạo hịa nhập cùng cộng
đồng, và có ích cho xã hội.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm:
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận và thực tiễn trong vấn đề giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh trong các giờ học môn Tiếng Việt lớp 3.
+ Hiểu sâu hơn về việc giảng dạy lồng ghép các biện pháp giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh ở trường tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói
riêng, sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống để học sinh biết ứng xử,
1


giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp để họ thành công hơn trong
cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình.

+ Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học
nói chung và mơn Tiếng Việt ở lớp 3 nói riêng theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động, sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp
với học tập giao lưu để hình thành kiến thức, kĩ năng sống vào thực tiễn.
+ Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù
hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực: loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan
hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày.
+ Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học nhằm đạt mục
tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp;
tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh sử dụng tốt quyền, bổn phận của mình và
phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
+ Trên cơ sở đó đề ra " Biện pháp Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 3 qua môn Tiếng Việt "
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong năm học 2018-2019, tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm
36 em học sinh lớp 3A2. Tôi tiến hành nghiên cứu về biện pháp Giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh lớp 3 qua môn Tiếng Việt và áp dụng với học sinh lớp
mình phụ trách.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng phương
pháp quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Tổng kết kinh
nghiệm và phương pháp thực nghiệm.
Tôi sử dụng phương pháp điều tra nhằm thu thập những thơng tin
khách quan nói lên nhận thức và thái độ của học sinh về nhiệm vụ học tập
của mình. Tơi sử dụng hình thức phỏng vấn: Dùng một số câu hỏi miệng để
học sinh trả lời nhằm thu thập thông tin. Giáo viên cũng gặp gỡ, trao đổi,
phỏng vấn phụ huynh học sinh để biết thêm về áp dụng những kĩ năng sống
của học sinh khi ở nhà. Từ đó bản thân giáo viên phát hiện vấn đề và tìm cách
giải quyết. Ngồi ra giáo viên còn dùng phương pháp quan sát để quan sát học

sinh trong các hoạt động học tập và các hoạt động khác có liên quan để thu
thập những số liệu, sự kiện cụ thể,đặc trưng về thực tiễn giáo dục để có thể
khái quát ra những quy luật nhằm chỉ đạo quá trình tổ chức dạy học cho học
sinh đạt kết quả cao hơn. Dựa vào kết quả thực nghiệm, giáo viên đánh giá
đúng tính khả thi của các biện pháp đó.

2


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận có liên quan đến biện pháp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh lớp 3 qua môn Tiếng Việt .
Thuật ngữ Kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ
thông Việt Nam từ những năm 1995 – 1996, thông qua Dự án “Giáo dục Kĩ
năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu
niên trong và ngoài nhà trường“ do Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc(UNICEF)
phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội Chữ thập đỏ Việt
Nam thực hiện[7]. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc
tế đã tiến hành giáo dục Kĩ năng sống gắn với các vấn đề xã hội như: phòng
chống ma túy, phịng chống tai nạn thương tích, bảo vệ mơi trường...
Giáo dục kĩ năng sống trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia trên
thế giới. Ở Việt Nam, để thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của
người học. Giáo dục phổ thông đã và đang từng bước đổi mới theo hướng từ
chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các
em học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người
học, phù hợp với từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh. Đồng thời coi trọng đúng mức các kĩ năng xã hội và
các kĩ năng tư duy.

Vậy Kĩ năng sống là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về Kĩ năng sống:
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Kĩ năng sống là khả năng để có
hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive)[7], giúp các cá nhân có thể
ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo UNICEF, Kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình
thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng tiếp thu về kiến
thức, hình thành thái độ và kĩ năng[7].
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), Kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là Học để biết
(Learning to know) ; Học làm người (Lear to be) ; Học để sống với người
khác (Learning to live together) ; Học để làm (Learning to do)[7] ,
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một
loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản
chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần
thiết để các cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói
cách khác, kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả
năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó
tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, với bản chất là hình thành và phát
triển cho các em khả năng tự làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống rõ ràng là phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.
3


Theo các chuyên gia giáo dục, việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào các
mơn học chính khóa trong nhà trường về bản chất là thực hiện việc đổi mới
phương pháp dạy và học. Trong đó, đổi mới về nội dung bảo đảm vừa sức,

thiết thực, giảm lý thuyết, tăng thực hành và ứng dụng, gắn với thực tiễn cuộc
sống.
Việc giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung
và ở mơn Tiếng Việt lớp 3 nói riêng nhằm giúp cho các em bước đầu hình
thành và rèn luyện các em những kĩ năng cần thiết, phù hợp với lứa tuổi, giúp
các em nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, biết tự nhìn
nhận, đánh giá đúng về bản thân để tự tin, tự trọng và không ngừng vươn lên
trong cuộc sống; biết ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người thân,
với cộng đồng và với môi trường tự nhiên; biết sống tích cực, chủ động trong mọi
điều kiện, hồn cảnh.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là việc làm khơng mới vì từ
xa xưa cha ơng ta đã đúc kết “ Tiên học lễ, hậu học văn” nhưng do sức ép
lớn về chương trình; về điểm số, hoặc nhiều nguyên nhân khác nhau nó đã bị
giảm nhẹ hoặc sao nhãng. Đứng trước thực tế xã hội những năm gần đây, việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là việc cấp bách. Từ năm học 2010-2011,
Bộ giáo dục và đào tạo chủ trương đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống vào
các trường bằng cách tích hợp vào các mơn học và các hoạt động ngồi giờ
lên lớp. Đối với Tiểu học là tăng cường giáo dục kĩ năng tự phục vụ, thói
quen vệ sinh tốt, kĩ năng tự bảo vệ an toàn bản thân, mạnh dạn trong giao
tiếp, thân thiện với bạn bè, lễ phép với người lớn …
2. 2. Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua môn
Tiếng Việt ở Trường Tiểu học Điện Biên 2.
2.2.1. Tình hình địa phương và nhà trường.
Phường Điện Biên là một phường nằm ở trung tâm thành phố Thanh Hóa.
Tồn phường Điện Biên có diện tích 0,64 km² và dân số 10.986 người.
Có thể coi phường Điện Biên là trung tâm mới của thành phố Thanh Hóa.
Quảng trường Lam Sơn được xây dựng để tổ chức các hoạt động lớn của nhân
dân thành phố và trong tỉnh. Phố Phan Chu Trinh và đại lộ Lê Lợi là những
con đường đẹp nhất thành phố. Nhiều cơ quan nhà nước nằm trên địa bàn
phường. Rạp hát Lam Sơn được xây dựng lại phục vụ cho nhu cầu giải trí của

người dân. Chợ Điện Biên cũng là một khu chợ có đơng đúc kẻ bn người
bán.
Điều kiện kinh tế phát triển nên phụ huynh cũng có điều kiện quan tâm đến
việc học tập của con cái. Đa số học sinh ngồi giờ học khơng phải phụ giúp
bố mẹ cơng việc gia đình. Có lẽ vì vậy mà thời gian học ở nhà và các em cịn
có điều kiện để tham gia các lớp học ngoại khóa để rèn luyện cả thể chất lẫn
phát triển năng khiếu.
Trong những năm gần đây được sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và
Đào tạo Thành phố Thanh Hóa. Sự lãnh đạo sáng suốt của các đồng chí cấp
ủy, Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự nỗ lực phấn đấu, đồn kết nhất trí
cao của tập thể nhà trường và đang có nhiều chuyển biến trong phong trào thi
4


đua "Hai tốt".
Để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh một cách toàn diện, nhà trường
đã chú trọng đến việc dạy học lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh tiểu học
nói chung và mơn Tiếng Việt lớp 3 nói riêng. Ban giám hiệu nhà trường đã
xác định rõ vị trí, vai trị, mục tiêu của việc chỉ đạo dạy học kĩ năng sống cho
học sinh để góp phần đưa chất lượng đào tạo đạt kết quả tốt. Nhà trường đã tổ
chức nhiều tiết ngoại khóa lồng ghép Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Trường ln có truyền thống đi đầu trong công tác triển khai thực hiện các
mục tiêu giáo dục, các phong trào thi đua của Bộ của Ngành. Do đó ngay từ
đầu năm học chúng tôi đã được Ban giám hiệu triển khai nhiệm vụ rèn luyện
kĩ năng sống qua các hoạt động lồng ghép vào chương trình học, các mơn học
và các hoạt động của nhà trường như: Chương trình học chống bắt cóc và
xâm hại tình dục trẻ em học đường do cơng ti BigBen tổ chức; bảo vệ mơi
trường; an tồn giao thông; xây dựng trường xanh - sạch - đẹp; xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực…
2. 2. 2. Thực trạng của việc tổ chức dạy học Giáo dục kĩ năng sống

cho học sinh lớp 3 qua môn Tiếng Việt .
* Thuận lợi
+ Về chương trình: Từ năm học 2010 – 2011 đến nay, chương trình giáo
dục kĩ năng sống đã được Bộ giáo dục cũng như Sở giáo dục chỉ đạo đưa vào
nhà trường thông qua các môn học. Chương trình này đã được Sở giáo dục tổ
chức tập huấn cho giáo viên và phát bộ sách cho giáo viên từ lớp 1 đến lớp 5.
+ Về giáo viên: Thuận lợi lớn của giáo viên hiện nay, đó là Bộ GD-ĐT đã
phát hành tài liệu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn
Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội
+ Về học sinh: Ở lớp tơi có 36 học sinh, đa số các em ngoan, chăm học.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã quán triệt tinh thần về việc chuẩn
bị các điều kiện cho con em mình học tập tốt nên lớp tơi 100% có đầy đủ sách
giáo khoa phục vụ các mơn học. Trong lớp có khoảng 6- 7 em trong diện tiếp
thu bài nhanh ở môn Tiếng Việt như em Lâm, em Ngọc, em Huy, em Hưng,
em Bình Minh, em Hồi, em Lam Giang... Tơi đã xây dựng được các nề nếp
học tập trong lớp. Vì vậy, các em đã có thói quen học tập theo nhóm, hỗ trợ
nhau cùng tiến bộ. Vì vậy khi tổ chức các trị chơi có lồng ghép Giáo dục kĩ
năng sống cho các em học tập, các em rất yêu thích và tham gia nhiệt tình, sơi
nổi.
* Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên, cịn tồn tại một số khó khăn:
+ Về chương trình: Chương trình giảng dạy cịn nặng về kiến thức.
+ Về giáo viên: Mặc dù đó được Phịng giáo dục, nhà trường tập huấn về
dạy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhưng một số giáo viên còn lúng túng
khi vận dụng giáo dục kĩ năng sống vào môn học, chưa thực sự bắt kịp những
thay đổi của xã hội. Giáo viên chưa thực sự nắm vững về tâm lý lứa tuổi mặc
dù chuyên môn rất vững.
+ Về học sinh: Các em học sinh thiếu các kĩ năng sống, thường nhút nhát,
rụt rè, ỉ lại, ít phát biểu, ở lớp tơi phụ trách thì có 7- 8 em thuộc diện này
5



chiếm 21,6% số học sinh cả lớp. Mặt khác gần cuối tiết học các em thường uể
oải, ít tập trung chú ý vào bài học. Vì đặc điểm của học sinh tiểu học là dễ
nhớ, mau quên và chóng chán số học sinh này chiếm khoảng 19% so với học
sinh cả lớp.
+ Về phụ huynh: Một số bậc phụ huynh vẫn cịn q coi nặng thời gian
học chính khóa của học sinh, đặt ra mục tiêu hàng đầu cho các em là phải đạt
điểm cao cuối mỗi kì kiểm tra, phải đạt học sinh hoàn thành tốt, phải được chọn
vào câu lạc bộ của khối mà bỏ quên giáo dục kĩ năng sống, và coi đó là điều chưa
thực sự cần thiết.
Qua điều tra đầu năm tại lớp 3A2, năm học 2018 -2019, kết quả như sau:
Tổng số Có đầy đủ Kĩ Có một số Kĩ
Có rất ít Kĩ
Chưa có các
học
năng sống
năng sống
năng sống
Kĩ năng sống
sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
36


3

8,1

14

37,8

15

43,3

4

10,8

Trước thực trạng trên, hơn nữa nhận thấy tính cấp bách của việc rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh. Tôi cũng như các đồng nghiệp rất trăn trở làm thế
nào để rèn luyện kĩ năng sống có hiệu quả để đưa trường chúng tơi trở thành
môi trường giáo dục tin cậy cho Phụ huynh học sinh về mọi mặt. Vì vậy, tơi
đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp trong việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 3 thông qua môn Tiếng Việt.
2.3. Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3
thông qua môn Tiếng việt.
         Như một tác giả nói: “ Giáo dục Kỹ năng sống khơng phải là nói cho trẻ
biết "thế nào là đúng, thế nào là sai” như ta thường làm. Cũng không phải là
rao truyền những lời hay ý đẹp để chúng vào tai này rồi ra tai kia. Các phương
pháp cổ điển như giảng bài, đọc chép sẽ thất bại hồn tồn vì chúng chỉ cung
cấp thơng tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng

cách cịn rất lớn.
        Giáo dục kĩ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa
những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ trẻ. Vì thế học phải
hết sức gần gũi với cuộc sống hay ngay trong cuộc sống. Nội dung phải xuất
phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để cọ xát
các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành, áp dụng. Trẻ
phải tham gia chủ động vì có thế trẻ mới thay đổi hành vi. Vậy với mỗi bài
học người giáo viên cần làm gì để vừa đảm bảo được nội dung kiến thức
truyền tải đến các em, vừa rèn cho các em những kĩ năng sống cần thiết ? Đó
thực sự là một câu hỏi làm tơi trăn trở. Qua suy nghĩ và tìm tịi tôi đã đưa ra
một số biện pháp như sau:
2.3.1 Xác định mục tiêu bài dạy
Để có một bài dạy hiệu quả trước tiên người giáo viên cần phải xác
định được mục tiêu của bài học. Tôi nghiên cứu sách giáo khoa, tham khảo
sách giáo viên một cách kĩ lưỡng để xác định mục tiêu cần đạt được trong bài
học. Từ nội dung của bài học tôi nghiên cứu xem cần đưa những kĩ năng nào
6


vào để giáo dục các em.
Ví dụ:
* Phân mơn Tập đọc - Kể chuyện: Bài: Chiếc áo len [1]
Mục tiêu của bài là:
- Tập đọc
- Biết nghỉ hơi sau dấu chấm, dấu phẩy, giữa các cụm từ ; bước đầu biết phân
biệt lời nhân vật với lời người dẫn chuyện.
- Hiểu ý nghĩa : Anh em phải biết nhường nhịn, thương yêu lẫn nhau.( trả lời được câu
hỏi 1, 2, 3, 4)
- Kể chuyện:
- Kể lại được từng đoạn câu chuyện dựa theo các gợi ý.

Từ mục tiêu trên, tôi đặt ra những kĩ năng cần đạt trong bài là:
- Kĩ năng tự nhận thức (xác định giá trị của bản thân là biết đem lại lợi ích,
niềm vui cho người khác thì mình cũng có niềm vui)
- Kĩ năng làm chủ bản thân (kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân để tránh
thái độ ứng xử ích kỉ ).
- Kĩ năng giao tiếp (ứng xử văn hóa).
* Phân mơn Tập làm văn: Bài Tập tổ chức cuộc họp – [1]
Mục tiêu của bài là: HS biết tổ chức một cuộc họp tổ. Cụ thể:
Xác định được rõ nội dung cuộc họp
Tổ chức cuộc họp theo đúng trình tự đã học
Các kĩ năng được giáo dục trong bài là:
+ Kĩ năng giao tiếp: biết lắng nghe tích cực, trình bày suy nghĩ của bản
thân.
+ Làm chủ bản thân: đảm nhận được trách nhiệm của bản thân đã được
phân công trong cuộc họp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường Phổ thơng nói
chung và cấp tiểu học nói riêng được thực hiện thơng qua dạy học các môn
học và tổ chức các hoạt động giáo dục nhưng khơng phải là lồng ghép, tích
hợp thêm kĩ năng sống vào nội dung môn học và hoạt động giáo dục mà theo
một cách tiếp cận mới, đó là sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ
năng sống trong quá trình học tập. Hay nói cách khác người giáo viên phải
vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh như: Thực hành giao tiếp, trò chơi học tập,
phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi – đáp, vv ... Thơng
qua các hoạt động học tập, học sinh có cơ hội thực hành các Kĩ năng sống cần
thiết như: kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ
năng tư duy sáng tạo, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề ... Như
vậy với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung các
môn học và giáo dục, mà ngược lại, còn làm cho các giờ học và hoạt động

giáo dục trở nên nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh.
2.3.2.Xây dựng các phương pháp, hình thức dạy học
Các phương pháp khác nhau ảnh hưởng khác nhau tới sự tiếp thu của
trẻ. Theo tôi phương pháp giáo dục kĩ năng sống tốt nhất là những phương
7


pháp tạo sự tương tác và vai trò tham gia của trẻ trong việc học và thực hành
kĩ năng. Những phương pháp này vận dụng nguyên tắc lấy người học làm
trung tâm, dựa vào kinh nghiệm và nhu cầu của trẻ. Từ đó, giúp nâng cao
nhận thức của trẻ, giúp trẻ được trải nghiệm mà có được các kĩ năng khác
nhau. Những biện pháp mà tơi đã thực hiện chính là việc sử dụng các phương
pháp dạy học phù hợp với môn học, phù hợp với từng bài dạy. Các phương
pháp mà tơi áp dụng đó là:
aa. Phương pháp động não: Bằng các câu hỏi gợi mở của giáo viên
giúp học sinh nêu ra các câu trả lời khác nhau. Phương pháp này giúp cho học
sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về
một vấn đề nào đó. Như vậy Kĩ năng tư duy sáng tạo của các em được hình
thành và phát huy. Phương pháp này tôi thường sử dụng trong phần giới thiệu
bài.
Ví dụ: Bài Tập đọc – Kể chuyện: Người lính dũng cảm [1]. Yêu cầu
học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa. Giáo viên hỏi: Trong tranh có
những ai? Trước mặt họ là cái gì? Đốn xem điều gì đã xảy ra trước đó?
- Học sinh có thể trả lời các ý kiến sau:
+ Có mấy bạn học sinh đang đi học. Trước mặt các bạn là những cọc tre.
Chắc là trước đó có ai nhổ các cọc tre.
+ Có bốn bạn học sinh đang đi học. Trước mặt các bạn có nhiều cọc tre. Có ai
đấy đã làm đổ các cọc tre.
+ Có bốn bạn học sinh đang đi ở sân trường. Trước mặt các bạn có nhiều cọc
tre. Chắc gió to đã làm đổ các cọc tre.

+ Có bốn bạn học sinh đang đi ở sân trường. Trước mặt các bạn có những cọc
tre bị đổ. Trước đó đã có người làm đổ những cọc tre.
Giáo viên chốt lại ý kiến đúng là ý kiến cuối cùng.
Phương pháp được giáo viên sử dụng thường xuyên trong q trình dạy
học đó chính là phương pháp thảo luận nhóm. Đó cũng là phương pháp mà tơi
vận dụng trong việc giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh.
b. Phương pháp thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm được sử dụng rộng
rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình
học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến
để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học. Thảo luận nhóm cịn là
phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ
quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhân quan điểm bất
đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải
quyết vấn đề khó khăn.
Sử dụng phương pháp này tơi tiến hành như sau:
+ Chia nhóm: Hình thành các nhóm khơng cố định: Có thể là nhóm 2, nhóm
3, nhóm 4,... hay nhóm bàn, nhóm đánh theo số chẵn, lẻ, .... để các em được
làm việc theo nhóm với tất cả các bạn trong lớp từ đó rèn cho các em một số
kĩ năng như kĩ năng hợp tác, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng giải quyết
vấn đề... đồng thời cũng phù hợp với nội dung kiến thức cần đạt.
+ Phân cơng nhóm trưởng: Đối với nhóm trưởng tơi cũng thường xun thay
đổi. Mục đích của việc làm này là giúp tất cả các em rèn cho mình kĩ năng thể
8


hiện sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm....
+ Giao việc: Tôi đưa ra nội dung thảo luận cũng như thời gian thảo luận.
+ Trình bày kết quả thảo luận.
+ Các nhóm nhận xét, bổ sung.
+ Giáo viên nhận xét, chốt ý đúng.

Ví dụ 1: Học bài Tập làm văn: Tập tổ chức cuộc họp[1]
GV chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm là một tổ.
- u cầu các nhóm cử ra nhóm trưởng, thư kí.
- Từng tổ thực hiện cuộc họp (Thảo luận – chia sẻ)
Bước 1: Tổ trưởng nêu mục đích cuộc họp. Ví dụ: Vừa qua, theo ý kiến
của cô giáo và ý kiến cuả một số bạn, các bạn ở tổ ta có một số khó khăn như:
bạn thì thiếu vở dẫn đến viết thiếu bài( bạn Đăng, bạn Trang); bạn thì khơng
làm bài (Đăng); bạn thì hay qn khơng mang đồ dùng học tập ( Đức, Vinh,
Dương...)
Bước 2: Tổ trưởng yêu cầu thảo luận để chỉ ra nguyên nhân trên. Các ý
kiến có thể là: Các bạn khơng có vở là do hồn cảnh khó khăn, khơng đủ tiền
mua, các bạn không làm bài tập là do chưa hiểu rõ bài, các bạn quên đồ dùng
là do không chuẩn bị sách vở từ hôm trước....
Bước 3: Tổ trưởng yêu cầu thảo luận để đưa ra các cách giả quyết. Các
ý kiến có thể là: Cho bạn thiếu vở mượn vở để chép bài. Các bạn khơng làm
được bài thì cử người học khá giúp bạn hiểu bài và làm bài ở nhà. Các bạn
hay quên đồ dùng thì nhờ một số bạn rủ đi học và nhắc bạn mang đủ đồ dùng.
Bước 4: Tổ trưởng yêu cầu thảo luận để phân công thực hiện. Các ý
kiến dựa trên tinh thần xung phong như: bạn Lâm, Bảo Ngọc xin giúp các bạn
không có vở chép bài (vào giờ ra chơi hoặc cuối buổi học), Bạn Khánh
Huyền, bạn Hồi Anh học nhóm cùng các bạn chưa hiểu bài, bạn Hưng, bạn
Lam Giang tự nguyện hàng ngày rủ hai bạn Đức, Dương, Vinh đi học cùng để
nhắc bạn mang đủ đồ dùng.
- Một hai tổ thực hiện cuộc họp trước lớp.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên nhận xét chung.
Như vậy qua việc tổ chức thảo luận nhóm các em được nói, được làm,
các em sẽ mạnh dạn, tự tin khi gặp các tình huống.
Ví dụ 2: Bài mở rộng vốn từ Tổ quốc [1]
Tìm từ có tiếng “quốc” với nghĩa là nước M: Tổ quốc

GV chia lớp thành các nhóm 4. u cầu các nhóm tìm từ và ghi ra bảng nhóm
trong 2 phút.
VD: Bài mở rộng vốn từ Thể thao [1]
Bài 1: Kể các môn thể thao bắt đầu bằng những tiếng sau:
a. Bóng
M: bóng đá
b. Chạy
M: chạy vượt rào
c. Đua
M: đua xe đạp
d. Nhảy
M: nhảy cao
GV chia lớp thành các nhóm 4. Các nhóm ghi ra giấy mỗi từ tìm đúng
ghi được 1 bơng hoa. Nhóm nào được nhiều bơng hoa nhóm đó thắng.
9


Để làm bài tập trên, học sinh thảo luận, đưa ra ý kiến, cả nhóm thống
nhất, kết luận là ý kiến đúng rồi ghi vào giấy.
Như vậy, hoạt động nhóm là một hoạt động giúp cho từng thành viên
bộc lộ ý kiến, suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình qua đó được tập thể uốn
nắn phát triển tình bạn, ý thức cộng đồng, nâng cao ý thức kỉ luật, tinh thần
tương trợ, hợp tác…Thơng qua hoạt động nhóm xây dựng mơ hình hợp tác
trong xã hội để học sinh quen dần với sự phân công, hợp tác lao động xã hội.
c. Phương pháp đóng vai: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học
sinh thực hành “ Làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống
giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc
về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát
được.
Ví dụ: Sau khi học bài tập đọc Bài tập làm văn – [1], học sinh hiểu

được ý nghĩa câu chuyện là lời nói phải đi đơi với việc làm thì kĩ năng được
giáo dục trong bài đó là: Kĩ năng xác định giá trị bản thân (trung thực có
nghĩa là cần làm những việc mình đã nói), kĩ năng đảm nhận trách nhiệm(xác
định phải làm những việc mình đã nói). Để đạt được hai kĩ năng trên tôi phát
cho các em một phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP
1. Tình huống:
Em khoe với bố mẹ “Cuối năm học con đạt học sinh hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ các môn học và năng lực, phẩm chất đạt tốt . Cô giáo khen con
trước lớp và đề nghị các bạn học tập con”. Bố mẹ khen em và nói: “Bố mẹ
mong con ở nhà cũng ngoan như ở lớp, biết làm việc nhà giúp bố mẹ”. Em
hứa sẽ làm theo lời bố mẹ và làm ngay một việc để bố mẹ thấy.
2. Yêu cầu đóng vai
Hãy đóng vai em và bố hoặc mẹ trao đổi, làm việc để chứng tỏ em là một
người con ngoan.
Gợi ý thực hiện:
- Em đã nói những gì?
- Bố mẹ em đã đáp như thế nào?
- Em đã làm gì?
Tơi tiến hành thực hiện bài tập tình huống trên như sau:
- Tơi giới thiêu tình huống và phát phiếu cho các nhóm để thực hành đóng
vai.
- Học sinh từng nhóm thảo luận để xác định các vai trong bài tập và phân
cơng người đóng vai.
- Từng học sinh nhận vai sẽ đưa ra lời nói của vai mình và đối thoại với vai
khác.
- Từng học sinh xác định việc mình cần làm để thực hiện lời nói của mình
trong tình huống này.
Một ví dụ đóng vai cho tình huống trên là:
+ Minh: Bố à, năm học này con đạt học sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

học tập và rèn luyện , năng lực phẩm chất đạt tốt nữa. Cô giáo khen con trước
lớp và đề nghị các bạn học tập con
10


+ Bố: Thế à, con trai bố giỏi ghê. Nhưng bố mong con ở nhà cũng ngoan như
ở lớp, biết làm việc nhà giúp bố mẹ.
+ Minh: Vâng, con hứa với bố từ nay con sẽ làm việc nhà giúp bố mẹ. Bây
giờ con đi lau nhà đây bố ạ (Nói rồi Minh đi lấy chổi lau để lau nhà).
+ Bố: Ừ, được như vậy bố vui lắm.
Ngoài các phương pháp trên, với trẻ em, phương pháp có hiệu quả và dễ
“ngấm” nhất là có lẽ là phương pháp trị chơi.
d. Phương pháp trò chơi: Phương pháp này được hiểu rộng bao gồm
các trị chơi đóng vai, trị chơi vận động, trị chơi xây dựng nhóm… Với sự
phong phú, đa dạng các trò chơi khác nhau và sự hứng thú, nhiệt tình khi
tham gia mỗi trị chơi sẽ giúp trẻ hình thành được các kỹ năng khác nhau
trong cuộc sống. Khi chơi trẻ học được gì? Qua các năm giảng dạy, tơi nhận
thấy qua trị chơi, học sinh khơng những được phát triển về các mặt trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ mà cịn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích
cực như:
+ Qua trị chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi.
Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào
những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi
ứng xử trong cuộc sống.
+ Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn
cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
+ Qua trị chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện
kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
+ Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh
động; không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lơi cuốn vào q trình

luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời
giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
- Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học
sinh, giữa giáo viên với học sinh. 
VD1: Bài mở rộng vốn từ Gia đình [1]
Bài 1: Tìm từ chỉ gộp những người trong gia đình M: ơng bà
Giáo viên phổ biến luật chơi trị chơi “xì điện” Giáo viên chia học sinh thành
hai đội. Giáo viên là người châm ngòi bằng cách đọc một từ theo đúng yêu
cầu của bài tập. Sau đó chỉ vào một học sinh bất kì nói “xì A” học sinh A lập
tức phải nêu một từ như yêu cầu. Nếu nêu đúng thì được xì một bạn ở đội
bên. Học sinh được xì điện lại tiếp tục nêu từ và xì điện đội bạn. Nếu học
sinh bị xì điện nêu sai hoặc khơng nêu được thì giáo viên châm ngịi lại. Mỗi
đội cử một thư kí ghi từ. Kết thúc trị chơi đội nào tìm được nhiều từ đội đó
thắng.
VD: Giáo viên: cha con- xì Linh
Linh: bác cháu- xì Minh
Minh: chú cháu - xì Trà
Trà: cơ chú - xì Mạnh…vv
VD2: Mở rộng vốn từ Trường học- Tuần 6- TV3- Tập 1
Bài 1: Giải ô chữ về trường học
11


Dòng 1: Được học tiếp lên lớp trên (gồm hai tiếng bắt đầu bằng chữ L)
Dòng 2: Đi thành hàng ngũ diễu qua lễ đài hoặc đường phố để biểu dương sức
mạnh (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng chữ D)
Dòng 3: Sách dùng để dạy học trong nhà trường (gồm 3 tiếng bắt đầu bằng chữ S)
Dòng 4: Lịch học trong nhà trường (gồm 3 tiếng bắt đầu bằng chữ T)
Dòng 5: Những người thường được gọi là phụ huynh học sinh (gồm 2 tiếng
bắt đầu bằng chữ C)

Dòng 6: Nghỉ học giữa buổi (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng chữ R)
Dòng 7: Học trên mức khá (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng chữ H)
Dịng 8: Có thói xấu này thì khơng thể học giỏi (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng chữ L)
Dịng 9: Thầy cơ nói cho học sinh hiểu bài (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng chữ G)
Dòng10: Hiểu nhanh tiếp thu nhanh, xử trí nhanh (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng
chữ T)
Dòng 11: Người phụ nữ dạy học (gồm 2 tiếng bắt đầu bằng
chữ C)
M:

1

L

£

N

L



P

2

3

4
5

6
7
8
9
10
11

Bài tập này chuyển thành trò chơi như sau: Giáo viên chia lớp thành 4 đội
ứng với 4 tổ .
Luật chơi: Các đội giành quyền trả lời bằng cách rung chuông sau khi
nghe xong câu hỏi . Giải được ơ chữ sẽ tìm được một từ về chủ đề trường học
và đội đó ghi được 1 bông hoa. Nếu không giải được sẽ khơng được bơng
hoa, đội cịn lại có quyền rung chng giành quyền trả lời. Sau đó giáo viên
đưa ra một số câu hỏi phụ để mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Đội 1: Em chọn từ hàng ngang số 8
Giáo viên : Có thói xấu này học sinh không thể học giỏi, từ gồm 2 tiếng
bắt đầu bằng chữ L
Đội 1: Theo em đó là từ lười học
Giáo viên: Đáp án chính xác, đội 1 được một bơng hoa
Giáo viên: Tìm từ trái nghĩa với từ lười học.
Học sinh: Chăm học, siêng học
Giáo viên: Đặt câu với từ chăm học
HS1: Lan rất chăm học.
HS2: Nhờ chăm học, Hoa đã đạt danh hiệu học sinh hoàn thành xuất sắc.
Cứ như vậy với các ơ cịn lại. Kết thúc trị chơi học sinh giải xong ơ
12


chữ đồng thời hoàn thành bài tập 1. Việc giải quyết bài tập đó trở thành một
trị chơi hấp dẫn, học sinh tiếp thu bài hào hứng mà giờ học lại rất nhẹ nhàng.

Ngoài việc học sinh lĩnh hội được kiến thức, thơng qua trị chơi học sinh được
rèn kĩ năng giao tiếp, nhiều em được nói trước cơ và các bạn, từ đó các em
mạnh dạn, tự tin hơn khi trình bày trước tập thể. Đồng thời qua việc lắng nghe
bạn trả lời câu hỏi học sinh còn được rèn kĩ năng lắng nghe tích cực, tức là
các em đó tập trung chú ý và thể hiện sự chú ý của mình vào câu trả lời của
bạn để đưa ra những nhận xét chính xác.
Từ thực tế, tơi thấy học sinh lớp 3 khơng ít em khả năng diễn đạt lời
nói của mình chưa rõ ràng, thậm chí cịn làm người nghe hiểu sai ý nghĩa lời
nói. Những lúc đặt câu hỏi để học sinh thảo luận và trình bày tơi thấy một số
em cịn lúng túng. Có em cịn diễn đạt lời nói cộc lốc, thiếu bộ phận “Ai” hoặc
bộ phận “là gì? ” “ làm gì? ” “thế nào? ”vv… Có em nói q dài dịng, chưa
vào trọng tâm, mục đích của câu trả lời. Để giúp các em diễn đạt ý kiến của
mình tốt hơn (Kĩ năng giao tiếp) tơi thường tổ chức trị chơi về đặt câu - dùng
từ với nhiều hình thức:
Cách tổ chức
* Thi đặt câu với từ cho trước.
Ví dụ: + Học chủ điểm: Sáng tạo
Học sinh thi đặt câu với từ: phát minh, nghiên cứu, cống hiến.
+ Học chủ điểm: Nghệ thuật
Học sinh thi đặt câu với từ: biểu diễn, lôi cuốn vv…
Sau khi học sinh nối tiếp nhau đặt câu, tơi u cầu học sinh khác nhận
xét, bình chọn câu của bạn nào hay nhất, hay ở chỗ nào. Câu của bạn nào
chưa hay, chưa đúng, hãy sửa cho bạn. Làm như vậy, tôi đã lôi cuốn được rất
nhiều em tham gia kể cả những em nhút nhát (Kĩ năng tự tin). Hơn thế nữa
các em cịn có một vốn từ, kinh nghiệm sử dụng từ để làm các bài tập làm văn
trong chủ điểm như:
+ Nói về người trí thức.
+ Kể về buổi biểu diễn nghệ thuật em được xem.
Tóm lại, phương pháp giáo dục kĩ năng sống tốt nhất là những phương
pháp tạo ra sự tương tác và vai trò tham gia của học sinh trong việc học và

thực hành kỹ năng. Với trẻ, phương pháp giáo dục kỹ năng sống tốt nhất là
phương pháp trò chơi. Cách học tốt nhất của trẻ là khi chơi. Những trò chơi
chính là chương trình học hồn hảo để trẻ có thể hình thành và phát triển tồn
diện về kỹ năng nhận thức, tình cảm, thể lực và xã hội.
Ngồi việc xác định mục tiêu bài học, lựa chọn các phương pháp hình
thức dạy học phù hợp để giáo dục kĩ năng sống cho các em thì việc tạo mơi
trường học tập công bằng, thân thiện cũng được chú trọng.
2.3.3.Tạo môi trường học tập cơng bằng, thân thiện, hào hứng, tích
cực
Học sinh nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng rất thích được cơ
giáo coi trọng, đánh giá cao, được các bạn mến phục. Vì vậy, tơi thường
xun khen, động viên, khuyến khích các em khi các em có những câu trả lời
hay, những việc làm tiến bộ. Những lời khen của cô như một liều thuốc bổ
13


giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp cũng như phát triển được kĩ
năng tư duy sáng tạo ở các em. Đồng thời qua đó cũng giúp các em rèn được
kĩ năng tự nhận thức, tức là các em biết nhìn nhận đánh giá đúng điểm mạnh,
điểm yếu của mình để cố gắng hơn và khơng cịn cảm thấy căng thẳng trong
các tiết học nhất là việc sợ cơ gọi lên bảng.
Tơi ln tạo một khơng khí học tập thoải mái cho các em ngay từ thời
điểm bắt đầu tiết học, bởi tôi nghĩ rằng kĩ năng khơng thể hình thành trong
một khơng gian ngột ngạt, căng thẳng.
Ví dụ: Khi học bài: Mở rộng vốn từ Trường học. Dấu phẩy[1]
Khi bắt đầu tiết học tôi cho các em nghe giai điệu của bài hát “Em yêu
trường em” tạo cho các em tâm thế thoải mái, dễ chịu ngay từ đầu, từ đó dẫn
dắt để vào bài mới một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển.
Tôi luôn luôn tạo không gian lớp học sạch sẽ, thoáng mát và đẹp bằng
cách thường xuyên cho các em dọn vệ sinh, sắp xếp bàn ghế gọn gàng cũng

như trang trí lớp học bằng những góc học tập, lọ hoa, cây cảnh.
Thỉnh thoảng tơi thay đổi không gian lớp học, tạo ra cái mới, sự khác lạ
cho các em.
Ví dụ: - Tơi xếp bàn ghế theo hình chữ U khi cần thảo luận nhóm.
- Học ở phòng Đa năng vào những tiết dạy Power point: như khi dạy
bài Mở rộng vốn từ Trường học. Dấu phẩy hay bài Mở rộng vốn từ Lễ hội. Dấu
phẩy[1]
Trên đây là những việc làm tuy rất nhỏ, song với sự lưu tâm chú ý của
giáo viên thì hiệu quả cho việc giáo dục Kĩ năng sống vô cùng cao.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục:
Với những biện pháp tơi vừa trình bày, qua q trình được thử nghiệm
ở lớp 3A2, tơi thấy kĩ năng sống ở các em tiến bộ rõ rệt. C¸c em đã mạnh
dạn bày tỏ ý kiến của mình, biết diễn đạt ý kiến của mình một cách rõ ràng,
mạch lạc khơng cịn lúng túng sợ sệt. Khi có những ý kiến tranh cãi, bất đồng
khơng cịn hiện tượng đánh nhau, khóc mà các em bình tĩnh tìm ra cách giải
quyết như hỏi ý kiến người khác. Đặc biệt điều tôi phấn khởi nhất là nhiều
phụ huynh gặp tôi hồ hởi kể: “Dạo này cháu tiến bộ lắm, tự giác học bài, tự
soạn sách vở không để mẹ phải nhắc, lại còn biết quét nhà, ăn xong biết lấy
tăm, lấy nước mời bố mẹ, cũng không cãi cọ, tranh giành với anh chị, với em
….”. Điều mà tôi nhận thấy rõ nhất là tinh thần vì tập thể, các em khơng cịn ỷ
lại cho nhau trong việc dọn vệ sinh lớp. Bây giờ các em đến lớp thấy bảng lớp
chưa sạch là các em lấy giẻ ra lau bảng, lấy chổi để lau sàn nhà một việc mà
hồi đầu năm tôi thường phải nhắc nhở hoặc tự bản thân tôi phải làm. Không
những thế, kĩ năng thể hiện sự cảm thông cũng biểu hiện rõ rệt trong việc chia
sẻ, cảm thơng. Hồi đầu năm học, nhà trường có phát động phong trào Tương
thân tương ái thì lớp tơi chỉ có hơn 80% học sinh tham gia. Thế nhưng về sau
việc ủng hộ học sinh khó khăn trong lớp, ủng hộ vùng cao, mua tăm ủng hộ
hội người mù, ủng hộ học sinh nghèo ăn Tết, ủng hộ chương trình “ Trái tim
khơng tật nguyền” ...thì 100% học sinh lớp tơi đã qun góp ủng hộ và ủng hộ

rất cao.
14


Qua những ghi nhận trên, tôi thấy rằng những biện pháp mà tơi đã áp dụng
thực sự có hiệu quả trong việc Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 3
thông qua môn Tiếng Việt.
Kết quả điều tra gần cuối năm học 2018 - 2019 như sau:
Tổng
số học
sinh
36

Có đầy đủ
Kĩ năng sống
Số học
sinh

%

6

17,1

Có một số Kĩ
năng sống
Số học
%
sinh
24


68,7

Có rất ít Kĩ
năng sống

Chưa có các Kĩ
năng sống

Số học
sinh

%

Số học
sinh

%

5

14,2

0

0

Các biện pháp và hình thức tổ chức dạy học Giáo dục kĩ năng sống trong
môn Tiếng Việt lớp 3 là một việc làm rất cần thiết. Học sinh có được sự say
mê đối với môn học, khiến giờ học trở nên nhẹ nhàng và đạt hiệu quả, người

giáo viên cần chú ý:
- Khơng lạm dụng các hình thức và phương pháp quá nhiều khi dạy giáo
dục kĩ năng sống trong các tiết học Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu
quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến các bài học chính khóa .
- Khi dạy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh giáo viên cần phải xác định
rõ mục tiêu bài dạy để xây dựng các phương pháp và hình thức dạy học để
các tiết dạy đạt hiệu quả cao. Song để tổ chức các hình thức và phương pháp
có hiệu quả địi hỏi mỗi người giáo viên phải có kế hoạch, chuẩn bị thật chu
đáo cho mỗi bài dạy.
- Giáo viên phải có lịng u nghề sẵn sàng hợp tác với học sinh, nâng
niu khuyến khích, động viên sự chú ý của trẻ.
- Ðể giáo dục kĩ năng sống cho học sinh hiệu quả, ngoài bản thân giáo
viên trực tiếp giảng dạy cịn cần có sự quan tâm đúng mức từ các nhà trường
cũng như các nhà quản lý giáo dục. Không nên chỉ chú trọng vào giáo dục các
kiến thức khoa học mà cần thực hiện giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh một
cách hài hòa, tự nhiên với nhiều phương pháp đa dạng để học sinh có thể ứng
xử phù hợp với những vấn đề trong học tập và sinh hoạt. Không thể áp dụng
các phương pháp của một môn học cụ thể vào giáo dục kĩ năng sống chung
trong nhà trường. Vì kĩ năng sống không phải môn học nhất định mà là một
nội dung cần giáo dục trong nhà trường. Có thể tích hợp các kĩ năng sống vào
các môn học khác nhau, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Là một giáo viên Tiểu học tôi rất tâm đắc đối với việc đổi mới phương
pháp dạy học mà đặc biệt là dạy học dưới hình thức lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh để trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực
cần thiết cho các em học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của người học, phù hợp với từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc
theo nhóm, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời coi trọng đúng mức các kĩ
năng xã hội và các kĩ năng tư duy. Vì vậy, tơi ln phải trăn trở, suy nghĩ, tìm
tịi tài liệu vận dụng các hình thức và phương pháp dạy kĩ năng sống cho học

15


sinh một cách sáng tạo trong các giờ học để trao đổi cùng đồng nghiệp để góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
3. Kết luận
3.1. Kết luận:
+ Kĩ năng sống rất đa dạng và mang đặc trưng vùng, miền đòi hỏi
người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với
nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn cảnh của nhà trường, địa
phương.
+ Để việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung, học
sinh lớp 3 thực sự có hiệu quả người giáo viên phải mạnh dạn đoạn tuyệt với
phương pháp cũ, phương pháp truyền thống là truyền thụ kiến thức một chiều,
áp đặt có sẵn, nhồi nhét cho học sinh những điều sách vở có tính hàn lâm.
Thay vào đó, người thầy phải kiên định với phương pháp giáo dục hiện đại,
giáo dục tích cực: giáo viên là người thiết kế, tổ chức cịn bản thân học sinh tự
tìm kiếm, giáo viên đối thoại với học sinh, trao đổi và khẳng định kiến thức
do học sinh tìm ra, học sinh cần học kiến thức phương pháp chứ không phải
kiến thức cụ thể để học sinh có thể tự học, tự xác định được giá trị của các kĩ
năng sống.
+ Bên cạnh phương pháp và hình thức tổ chức giờ học điều quan trọng
là kiến thức kĩ năng sống phải hết sức cụ thể, sinh động phù hợp với đặc trưng
của từng địa phương và gần gũi với các em, tránh loại kiến thức giáo điều,
chung chung, xa lạ với người học. Muốn làm được như vậy trách nhiệm của
người giáo viên là rất nặng nề, mà trước hết là không ngừng học hỏi, cập nhật
thông tin, bổ sung kiến thức, am hiểu địa phương mình dạy và biết quan tâm,
chia sẻ những vấn đề mà người học quan tâm.
+ Hơn nữa, vấn đề giáo dục kĩ năng sống còn cần đến vốn sống, tình
thương và nhân cách của người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết

là ở tấm gương sống của người thầy. Vì vậy, để học sinh khơng thất vọng vì
thầy thì trước hết “Mỗi thầy cơ giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và
sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận động.
 
+ Bên cạnh đó, cần tạo được mơi trường thân thiện, gia đình thân thiện,
cộng đồng thân thiện. Ngoài ra, việc đẩy mạnh phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” cũng là giải pháp góp phần trang bị
thêm nhiều kiến thức kỹ năng sống cho học sinh. Tóm lại giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh phải từ những việc cụ thể...
+ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một
sớm, một chiều” mà địi hỏi phải có q trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết
và ở mọi lúc, mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Giáo dục
kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả
xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào tạo ra được những thế hệ trẻ
phát triển toàn diện, phục vụ tốt cho việc thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước và hội nhập quốc tế.
Trên đây là những kinh nghiệm mà trong q trình giảng dạy tơi đã đúc
kết được. Tôi nghĩ rằng việc giáo dục kĩ năng sống không phải chỉ là công
16


việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng. Phải kết hợp cả
gia đình, nhà trường và xã hội. Làm được như vậy, chúng tôi nghĩ rằng Giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh không những khơng làm q tải trong chương
trình giáo dục mà cịn đem đến cho người học sự hứng thú, sôi nổi và niềm
vui trong học tập. Người học đã hứng thú và tự giác thì chắc chắn việc giáo
dục kỹ năng sống cho người học sẽ thực chất và hữu ích, mục tiêu giáo dục
toàn diện sẽ đạt được hiệu quả như mong muốn. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều
nhưng chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để kinh

nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
3.2. Một số kiến nghị
a. Đối với phịng Giáo dục và Đào tạo Thành phố Thanh Hóa:
- Thường xuyên có kế hoạch tổ chức các chuyên đề mở rộng đến tất cả
giáo viên trực tiếp đứng lớp được tham gia học tập các chuyên đề về Giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh theo cụm hoặc tại Thành phố.
- Tố chức sinh hoạt chuyên môn theo liên trường, cụm thường xuyên
hơn và tổ chức theo khối để chúng tơi có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm nhiều hơn về thiết kế và sử dụng các phương pháp dạy giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh.
b. Đối với nhà trường:
- Tích cực tham mưu với địa phương và các cấp có thẩm quyền đầu tư
mua sắm đầy đủ về cơ sở vật chất, xây dựng thêm các phịng chức năng để
diện tích được rộng rãi, thống mát về mùa hè, ấm về mùa đơng, phịng học
có đầy đủ các trang thiết bị như: quạt, bóng đèn, đèn chiếu,...
- Đầu tư mua thêm các tài liệu phục vụ các mơn học nói chung và tài
liệu liên quan đến giáo dục kĩ năng sống nói riêng.
- Thường xuyên có kế hoạch tổ chức các hội thảo, hội thi đưa giáo dục
kĩ năng sống vào các buổi sinh hoạt tập thể, các tiết học ngoài giờ lên lớp.
- Thường xuyên tổ chức chuyên đề hội thảo về đổi mới phuơng pháp
dạy học, làm tốt việc chỉ đạo từ chỉ đạo điểm đến chỉ đạo thực hiện kỉểm tra,
đánh giá kịp thời.
c. Đối với giáo viên:
- Đầu tư thời gian cho việc soạn giảng đạt hiệu quả cao.
- Luôn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng đồ dùng dạy
học, đưa Internet vào giảng dạy.
- Tăng cường học tập, dự giờ đồng nghiệp để rút kinh nghiệm.
- Quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh, gần gũi các em để nắm bắt
được trình độ học tập của các em, cũng như hiểu được nguyên nhân dẫn đến
sai lầm mà có biện pháp sữa chữa kịp thời.

- Ln ln học tập để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

17


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 03 năm 2019.
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết sáng kiến

Luyện Thị Thanh Xuân

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3.Nguyễn Minh Thuyết ( chủ biên)Lê Ngọc Diệp - Lê Thị Tuyết Mai - Bùi Minh Tốn - Nguyễn Trí; Nhà xuất
bản giáo dục.
[2] Sách giáo viên lớp 3, Nguyễn Minh Thuyết ( chủ biên) - Hoàng Cao
Cương - Đỗ Việt Hùng - Trần Thị Minh Phương - Lê Hữu Tĩnh ; nhà xuất bản
giáo dục.
[3]Bài soạn Tiếng việt lớp 3; nhà xuất bản giáo dục.
[4]Giáo dục kĩ năng sống trong các mơn học ở tiểu học - Hồng Hịa
Bình - Lê Minh Châu - Phan Tanh Hà - Nguyễn Thị Việt Hà - Trần Hiền
Lương - Nguyễn Thị Phương Thảo - Lưu Thị Thủy - Đào Vân Vi, nhà xuất

bản giáo dục Việt Nam.
[5] Tâm lí tiểu học , Bùi Huệ; nhà xuất bản giáo dục.
[6]Phương pháp dạy học , Đỗ Trung Kiên, nhà xuất bản giáo dục.
[7] Tham khảo một số tài liệu trên mạng intơnet
- Nguồn : http:// dân trí .com.vn.

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
VÀ CÁC CẤP HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả : Luyện Thị Than Xuân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên chủ nhiệm lớp 3A2, trường Tiểu học
Điện Biên 2.
TT Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả đánh
giá xếp loại

1

Thành phố

Loại B


Năm học
đánh giá xếp
loại
2012-2013

Thành phố

Loại A

2014-2015

Tỉnh

Loại C

2015-2016

2
3

Kinh nghiệm dạy một số
bài khó trong phân môn
Luyện từ và Câu lớp 5.
Một số biện pháp dạy cảm
thụ văn học trong giờ Tập
đọc cho học sinh lớp 5.
Thực hành hai phép tính
nhân chia trong bảng của
học sinh lớp 3.


20



×