Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
I. MỤC LỤC……………………………………………………… ....Trang 01
I. MỞ ĐẦU……………………………………………………………Trang 02
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………......Trang 02
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài……………………………………. Trang 02
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………..........Trang 03
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………….....Trang 03
II. NỘI DUNG SKKN……………………………………………........Trang 03
1. Cơ sở lí luận………………………………………………………......Trang 03
2. Thực trạng………………………………………………………….....Trang 04
2.1. Thực trạng chung …….....................................................................Trang 04
2.2 Thực trạng về giáo viên.....................................................................Trang 04
2.3. Thực trạng chữ viết ở học sinh lớp 1A Trường Tiểu học Hà Châu- Trang 05
3. Các giải pháp thực hiện…………………………………………….... Trang 05
3.1. Phân loại đối tượng HS ngay từ đầu năm………………………….Trang 05
3.2. Khuyến khích các em lịng say mê luyện viết .……………………Trang 06
3.3. Trao đổi và thường xuyên liên hệ với phụ huynh thống nhất về phương
pháp dạy con em ở nhà …..…………. ………………………………....Trang 06
3.4. Hướng dẫn các em các kĩ thuật và thực hành luyện viết …………Trang 06
3.5. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết và phát động phong trào thi đua
“ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” …………………………………………..Trang 11
4. Hiệu quả của SKKN ………………………………………….............Trang 12
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………Trang 13
1. Kết luận ……………………………………………………. ....... Trang 13
2. Kiến nghị ……………………………………………………. ...... Trang 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………….... Trang 15

1


I. MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, trong môn Tiếng Việt - phân môn Tập viết là phân
mơn có tầm quan trọng đối với học sinh lớp 1, 2, 3 và đặc biệt là đối với học
sinh lớp 1. Ở phân môn Tập đọc giúp học sinh đọc thơng, thì phân mơn Tập viết
giúp các em viết thạo. Đọc thơng, viết thạo có quan hệ mật thiết với nhau, cũng
như dạy Tập viết, Tập đọc không thể tách rời nhau. Viết đúng mẫu, rõ ràng và
nhanh, học sinh sẽ có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các mơn học tốt hơn.
 Ngồi ra, tập viết cịn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh
những phẩm chất đạo đức tốt như cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
Như cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết

người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lịng tự trọng đối với mình
cũng như đối với thầy cơ và bạn mình”. [5]
Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học
đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới mới rộng lớn mênh mông sẽ
mở ra trước mắt các em. Tiểu học là bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và Tập
viết là chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở ra những cánh cửa bước
vào tương lai, là công cụ để các em vận dụng suốt đời.
Học chữ chính là cơng việc đầu tiên khi các em đến trường. Chữ viết và dạy
viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp cơng,
góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết.
Tuy vậy, nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm, điều đó ảnh hưởng
khơng nhỏ tới các mơn học khác. Như hiện nay tình trạng học sinh ở một số
trường lên đến lớp 5 rồi mà vẫn không viết nổi được tên của mình. Nhận thức
được tầm quan trọng đó, với ý thức và lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của
giáo viên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở. Trong giảng dạy, tơi đã khơng
ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em viết chữ đẹp, ln
tìm ra phương pháp dạy học thích hợp để dạy viết chữ đẹp cho các em. Vì thế tơi
đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” để

nâng cao chất lượng về chữ viết cho học sinh. Trong đề tài này, tơi khơng đề cập
nhiều đến tồn bộ năm học mà chỉ giới hạn trọng tâm ở học kì 1 để nhằm giúp
học sinh viết chữ đẹp, kịp thời đáp ứng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Đồng
thời giúp học sinh có vốn kĩ năng ban đầu thuận lợi cho việc phát huy viết chữ
đẹp sau này.
2. Mục đích, nghiên cứu của đề tài:
Mục đích của đề tài là nghiên cứu và tìm ra được những biện pháp tích
cực trong việc dạy chữ viết, góp phần giúp học sinh lớp 1 viết đúng và đẹp.
Thông qua các biện pháp này tơi có thể nâng cao kiến thức của bản thân và ý
2


thức được việc nghiên cứu, tìm tịi phương pháp giảng dạy là một nhu cầu cũng
như nhiệm vụ chính của mình.
Ngồi ra cịn khảo sát q trình dạy học tập viết ở trường. Tham khảo một
số phương pháp của các bạn đồng nghiệp, của các nhà nghiên cứu trên cơ sở tìm
ra những cái hay, cái đúng và những cái cịn hạn chế, từ đó biết cải tiến, áp dụng
vào trường lớp của mình và đề xuất những biện pháp tích cực, khắc phục hạn
chế của việc dạy chữ viết rèn chữ viết cho học sinh lớp 1, giải quyết những khó
khăn trong giảng dạy cũng như trong cơng tác chủ nhiệm của mình. Rèn chữ cho
học sinh làm cho học sinh có tính cẩn thận, có óc thẩm mỹ, kiên trì và chịu khó.
Qua đó, giáo dục các em ý thức tự trọng và tôn trọng người khác.
3. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 1A trường Tiểu học Hà
Châu.
Tổng số học sinh 22 em, trong đó nữ 8 em, dân tộc 0 em
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để việc nghiên cứu đạt kết quả rốt, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:

+ Phương pháp nghiên cứu lí luận.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập số liệu và trao đổi kinh
nghiệm với đồng nhiệp.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Ngồi ra tơi cịn đọc nhiều các tài liệu, sách báo có liên quan đến đề tài.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
Lớp một là lớp học nền móng của q trình học ở Tiểu học, chính vì vậy
mà việc rèn cho các em viết đúng, viết đẹp là rất quan trọng “Nét chữ, nết
người”, nét chữ thể hiện tính cách của con người, hơn nữa thông qua việc rèn
chữ viết mà giáo dục nhân cách con người, như vậy việc rèn chữ viết cho học
sinh vừa là mục đích, vừa là phương tiện của q trình giáo dục tồn diện nhân
cách học sinh. Có viết được chữ đúng thì học sinh mới có khả năng học tập các
mơn học khác.
Trước sự xuống dốc của chữ viết học sinh đây cũng là mối lo lắng chung của
nhiều người trong xã hội đặc biệt là các bậc phụ huynh những người làm cha,
làm mẹ các em. Liên tục mấy năm trở lại đây có rất nhiều bài báo, tập san giáo
dục Tiểu học đều có các bài viết nói về chữ viết của học sinh hiện nay. Như báo
Dân trí số ra ngày 23/05/2015 có bài: Hà Nội: “Học đến lớp 5 vẫn chưa…. viết
được tên mình”, báo Thanh niên số ra ngày 01/10/2016 có bài: “Học sinh lớp 6

3


bị xuống lớp 1 vì khơng biết đọc, biết viết…” và một số bài viết: “ Làm thế nào
để cứu lấy chữ viết của học sinh”…của nhiều tác giả khác. Có thể nói những bài
báo này đã làm thức tỉnh tất cả mọi người và đặc biệt là những người quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục của nước nhà.[5]
Với tôi là một giáo viên dạy lớp Một tôi đã suy nghĩ rất nhiều, tôi thường

xuyên đọc các số báo và nghiên cứu, sưu tầm các tài liệu có liên quan đến chữ
viết của học sinh. Đặc biệt là từ khi được tập huấn lớp Viết chữ đẹp do hãng
Thiên Long tài trợ và xem các video về cách luyện chữ cho học sinh tôi đã xây
dựng được nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng đó là cơ sở để viết chữ đẹp và cũng
chính là yếu tố có tính quyết định việc rèn chữ viết đẹp của các em trong quá
trình học tập.
2. Thực trạng:
2.1. Thực trạng chung:
- Đây là lớp học đầu cấp các em đến trường còn đang bỡ ngỡ với những con
chữ, nhìn thì thấy rất đơn giản nhưng để viết được đúng mẫu chữ, cỡ chữ và
đúng khoảng cách thì các em phải gắng cơng khổ luyện dưới sự tận tình giúp đỡ
của thầy cơ.
Ở trường Tiểu học từ lâu đã rất chú trọng đến chữ viết của học sinh nhưng
các em vẫn viết xấu là do nhiều ngun nhân: Từ phía chương trình học, từ phụ
huynh và từ học sinh.
Như chúng ta đã biết ngay ở học kì I phân mơn tập viết có một tiết riêng
nhưng 2 tuần mới có tiết tập viết những bài còn lại trong vở được lồng ghép vào
các tiết học vần. Do vậy để đầu tư cho cả lớp viết đẹp được thì rất khó, những
em có năng khiếu về viết chữ rất ít, giáo viên phải đến từng em để cầm tay mà
thời gian thì có hạn.
Về phía phụ huynh các bậc cha mẹ khơng nắm được quy trình viết chữ như
điểm đặt bút, dừng bút của các con chữ.
Về học sinh các em chưa có ý thức để viết đẹp vì cịn q nhỏ.
2.2. Thực trạng về giáo viên:
Việc học sinh viết đúng và đẹp hay không phụ thuộc rất nhiều vào người
giáo viên trực tiếp dạy học. Người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến quá tr ình
viết chữ đẹp hay xấu của học sinh. Qua thực tế ta thấy có rất nhiều nguyên nhân
từ phía giáo viên dẫn đến việc học sinh viết chữ chưa đẹp.
- Chữ viết của giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu trực quan trong việc giảng dạy.
- Một số giáo viên ít chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh, chỉ lưu ý trong

giờ tập viết, học vần tiết 1, chưa hướng dẫn kĩ càng trong tiết 2.
- Chưa có biện pháp rèn chữ viết cụ thể. Chưa giúp học sinh nắm các nét cơ bản,
cấu tạo con chữ, dòng kẻ, kĩ thuật viết….trong các tiết luyện viết mà chỉ cần
nhấn mạnh về độ cao các con chữ.
4


- Hướng dẫn rèn chữ viết chưa theo đối tượng học sinh. Chưa dạy theo chuẩn
kiến thức và kĩ năng .
2.3. Thực trạng chữ viết ở học sinh lớp 1A Trường Tiểu học Hà Châu
- Là một giáo viên giảng dạy lớp Một nhiều năm ngay từ đầu năm nhận lớp
tôi thấy chữ viết của học sinh lớp 1A hiện nay không đồng đều phần lớn là chữ
viết rất xấu do hiện nay ở trường mầm non không dạy chữ, các em lại là con em
nông thôn không được bố mẹ quan tâm tất cả đều “trăm sự nhờ cô”, cơ dạy được
chữ nào thì các em biết chữ đó, khi bắt đầu đến trường các em như tờ giấy trắng,
chưa biết một chữ gì, chưa biết cách cầm bút... Một số em ý thức học chưa tốt
viết cẩu thả, chưa biết cách trình bày vở, khoảng cách chưa đều, chưa đúng,
chưa ý thức được cái đẹp điều đó ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
Tư thế ngồi viết, cách cầm bút sai đa số các em ngồi cúi mặt với vở, người
cong vẹo, vai thấp, vai cao rất nhiều em cầm bút bằng 4 ngón , có em cầm bút
bằng 5 ngón có em cầm bút ngả về phía trước, cán bút vng góc với mặt vở.
* Khảo sát thực trạng chữ viết của học sinh:
Đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng chữ viết và có kết quả
như sau:
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ CHỮ VIẾT CỦA HỌC SINH
Năm học
(Đầu kì 1
tháng 9)

Sĩ số

học sinh

2016 -2017

21

Loại A

Loại B

Loại C

Khơng
xếp loại

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


2

9,5

5

23,8

10

47,7

4

19,0

Có 4 em khơng xếp loại là do chữ quá xấu viết không ra chữ: Em Hương,
Đăng, Thanh, Tuấn.
3. Các giải pháp thực hiện:
3.1.Tiến hành phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học
Sau khi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 1A tôi đã phân loại và
nắm vững ưu, nhược điểm của từng em. Trên cơ sở đó tơi đã lên kế hoạch rèn
chữ cụ thể cho từng đối tượng. Cụ thể:
Nhóm 1: Gồm những emchưa biết viết và viết rất xấu
Nhóm 2: Gồm những em viết chữ bình thường
Nhóm 3: Gồm những em viết chữ tương đối đẹp
Mục đích của việc chia nhóm nói trên là để giáo viên có biện cụ thể phù hợp
với từng nhóm đặc biệt là với những em ở nhóm 1. Thực tế tơi đã phải quan tâm
đến các em nhóm 1 ngay từ ngày đầu nhận lớp, hướng dẫn cho các em nắm

5


vững được các nét cơ bản, sau đó mới ghép các nét để viết thành chữ. Cịn đối
với nhóm 2 và nhóm 3 trên cơ sở các em đã nắm được các nét cơ bản, các em tự
viết có sự hướng dẫn của cô giáo. Vào cuối mỗi tuần tôi có đánh giá cụ thể đối
với từng em để động viên các em có niềm tin vào chính bản thân mình, từ đó có
hướng phấn đấu trong tuần tới.
3.2. Khuyến khích các em lịng đam mê luyện viết:
Tơi ln nghĩ rằng bất cứ việc gì, dù khó khăn đến đâu nếu có lịng say mê
nhiệt tình thì việc đó sẽ đạt được kết quả cao, vì thế để bồi dưỡng cho các em
lòng say mê và tinh thần quyết tâm luyện chữ vào đầu năm học nào cũng vậy tôi
thường kể cho các em nghe những câu chuyện về tinh thần khổ luyện rèn chữ
của Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Ngọc Ký…Mặt khác tôi giữ lại
những bộ vở viết đẹp của các em học sinh những năm học trước để cho các em
quan sát về nét chữ, về cách trình bày vở. Ngồi ra các em cịn được xem những
bộ vở những bài thi của các anh, chị đi thi đạt giải cấp Tỉnh, cấp huyện và của
chính bản thân tôi. Sau khi được quan sát thực tế và nghe cơ kể chuyện các em
thực sự thích thú, cảm phục và mong muốn mình cũng viết được chữ đẹp như
các anh chị và cô giáo.
3.3. Trao đổi và thường xuyên liên hệ với phụ huynh thống nhất về phương
pháp dạy con em ở nhà:
Tôi tiến hành tổ chức họp phụ huynh ngay từ đầu năm học thông báo cho
các bậc phụ huynh biết tầm quan trọng của việc rèn chữ viết. Ngay trong buổi
họp phụ huynh hướng dẫn và nói cho phụ huynh biết sơ qua về điểm đặt bút,
dừng bút, độ cao, khoảng cách của các con chữ. Từ đó yêu cầu phụ huynh phải
chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho con em, dành thời gian cho con em luyện
viết và nhắc nhở con em ngồi viết đúng tư thế và viết đúng. Tôi đề nghị cha mẹ
học sinh chuẩn bị cho các em bàn học, góc học tập đủ ánh sáng, vở 48 trang có
bìa bọc, bảng con có kẻ ơ vng 1 mặt, ô li 1 mặt, phấn không bụi, hộp đựng giẻ

lau, bút chì mềm, bút máy mực đen, thước kẻ. Để tránh bẩn tôi phải hướng dẫn
tỉ mỉ cách lấy mực, cầm bút , viết xong lắp bút, thấm mực, mỗi cuốn vở viết cho
các em kèm một miếng giấy ăn để thấm mực. Hàng ngày sau mỗi buổi học tôi
thường gặp gỡ các phụ huynh đi đón con để trao đổi về tình hình học tập của các
em nhất là về chữ viết. Một số các em có hồn cảnh gia đình q khó khăn như
em Phương Thanh tơi đã mua tặng em toàn bộ các loại đồ dùng. Thống nhất với
học sinh nửa đầu học kỳ I viết bằng bút chì, từ giữa học kì một trở đi viết bằng
bút mực và chỉ viết một màu mực đen.
3.4.Hướng dẫn các em các kỹ thuật và thực hành luyện viết:
Trong các kĩ năng viết chữ, mức độ thấp nhất nhưng hết sức quan trọng là kĩ
năng viết các nét chữ cơ bản. Nói viết nét là kĩ năng quan trọng bởi vì học sinh
chỉ có thể viết chữ đẹp trong thời gian ngắn nhất khi các em biết viết các nét cơ
bản đúng hình dáng, kích thước và đúng quy trình vì thế đầu tiên tơi hướng dẫn
các em viết đúng các nét cơ bản, tôi đã phân ra từng nhóm nét như sau:
6


- Nét thẳng:
+ Nét sổ thẳng ( )
+ Nét nằm ngang ( )
+ Nét xiên ( )
- Nét móc:
+ Nét móc xi ( )
+ Nét móc ngược ( )
+ Nét móc hai đầu ( )
+ Nét móc hai đầu có vòng xoắn ở giữa ( )
- Nét khuyết:
+ Nét khuyết trên ( )
+ Nét khuyết dưới ( )
- Nét cong:

+ Nét cong kín ( )
+ Nét cong hở phải ( )
+ Nét cong hở trái ( ) [4]
Trên cơ sở các nhóm nét trên tơi chia các chữ cái viết thường theo các
nhóm sau và rèn luyện cho các em dứt điểm theo từng nhóm nét:
- Nhóm chữ cái có cơ bản là nét cong: o, ô, ơ, c, x, e, ê
- Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc hoặc nét
sổ thẳng:

a, ă, â, d, đ, q
- Nhóm chữ cái cơ bản là nét móc: n, m, i, u, ư, t, p
- Nhóm chữ cái cơ bản là nét khuyết và nét móc: l, h, b, k, g, y
- Nhóm chữ cái có nét thắt: r, s, v [3]
* Dạy cho học sinh nắm chắc và xác định được độ cao của từng con chữ:
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị đối với chữ nhỏ, cao 5 đơn
vị đối với chữ cỡ nhỡ: b, l, h, k, g, y.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị đối với chữ nhỏ, cao 4 đơn vị
đối với chữ cỡ nhỡ: d, đ, q, p.
- Các chữ cái được viết với độ cao 1,5 đơn vị đối với chữ nhỏ, cao 3 đơn
vị đối với chữ cỡ nhỡ: t.
- Các chữ cái được viết với độ cao 1,25 đơn vị đối với chữ nhỏ, cao 2,5
đơn vị đối với chữ cỡ nhỡ: r, s.
7


          - Các chữ cái còn lại được viết với độ cao 1 đơn vị đối với chữ nhỏ, cao 2
đơn vị đối với chữ cỡ nhỡ: o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê, n, m.
          - Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ơ vng có cạnh 0,5 đơn vị đối
với chữ nhỏ, cao 1 đơn vị đối với chữ cỡ nhỡ. [3]
 * Dạy học sinh cách cầm bút và tư thế ngồi viết đúng.

           Để học sinh có thể tránh được cái gọi là “Bệnh học trò” (tức là bệnh
cong vẹo cột sống, bệnh cận thị) thì giáo viên phải luyện cho học sinh có được
một tư thế ngồi thật đúng, thật thoải mái. Muốn vậy, người giáo viên cũng phải
có tư thế ngồi thật đúng để học sinh bắt chước. Ngay mỗi giờ đầu tập viết tôi
đều cho học sinh ngồi đúng tư thế, lưng thẳng, ngực không áp vào bàn, hai chân
đặt song song, vng góc với mặt đất, tay phải cầm bút, tay trái giữ mép vở, vai
ngang bằng, đầu hơi cúi để cách mắt với vở khoảng 20 – 30cm (tôi cho học sinh
chống cùi chỏ tay trên mặt bàn, ngửa bàn tay ra, áp trán vào sát lòng bàn tay để
ước lượng khoảng cách mặt với vở). Cách cầm bút tôi cũng làm mẫu và hướng
dẫn tỉ mỉ: Ngón cái và ngón trỏ đặt ở phái trên, ngón giữa ở phía dưới đỡ đầu
bút cách đầu bút khoảng 1đốt ngón tay, cán bút nghiêng về bên phải cổ tay; khi
viết đưa bút khoảng 1 đốt ngón tay, nhẹ nhàng không ấn mạnh. Khi học sinh
nắm các cách cầm bút, cách ngồi thì trước lúc viết tơi thường cho học sinh nhắc
lại và thực hiện theo đúng quy định: “Tay phải cầm bút bằng 3 ngón tay, tay
trái giữ mép vở, lưng thẳng, đầu hơi cúi, ngực khơng tì vào bàn”.  Trong quá
trình học sinh viết rất hay quên, thay đổi tư thế ngồi đúng, lúc đó tơi lại phải
kiên nhẫn chỉnh sửa cho từng em. Lặp đi lặp lại nhiều lần, các em cũng dần dần
ngồi đúng, cầm bút đúng. Để viết dễ, chữ đẹp tơi cịn hướng dẫn các em cách để
vở. Cách để vở: Đặt vở nghiêng một góc khoảng 15- 300 về phía trên bên phải so
với mép bàn. Đây là chiều thuận của tay phải khi viết chữ viết là vận động từ
trái sang phải, khi viết xuống những dòng dưới, các em tự đẩy vở lên trên để
cánh tay ln tì lên  mặt bàn làm điểm tựa khi viết. [2]
          *Dạy cho học sinh có kỹ thuật viết đúng, viết đẹp.
           Ngay từ đầu, tôi hướng dẫn cho học sinh nắm chắc, viết tốt các nét cơ bản
của chữ viết về tên gọi, điểm đặt bút, điểm dừng bút.
          Tôi cho học sinh nắm được các thuật ngữ: “Dòng kẻ ngang 1, dòng kẻ
ngang 2, …. dòng kẻ ngang 5;  Dòng kẻ dọc 1, dòng kẻ dọc 2, … dòng kẻ dọc
5”.
- Xác định điểm dừng bút, đặt bút của con chữ:
+ Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút


thể nằm trên dịng kẻ ngang, hoặc khơng nằm trên dịng kẻ ngang
+ Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm dừng
bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc khơng nằm trên dịng kẻ ngang
- Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách đưa bút, lia bút, cách viết liền mạch:
8


+ Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng
trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
+ Kĩ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay nối
các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết ( đầu
ngịi bút hoặc phấn) khơng chạm vào mặt phẳng viết ( giấy, bảng) thao tác đưa
bút trên không gọi là lia bút
          Để học sinh viết không bị rời rạc, đứt nét phải nhấn mạnh hơn chỗ nối nét,
nối chữ nhất là chỗ lia bút, nhắc các em viết liền mạch đến đâu mới được nhấc
bút, thường xuyên cho học sinh nhắc lại độ cao, độ rộng, từng nét từng chữ,
khoảng cách giữa các chữ cái trong một chữ, giữa chữ với chữ.
        Kỹ thuật viết đẹp: Khi viết, các em chỉ cần đưa nét bút từ điểm dừng bút
của chữ cái đứng trước đến đến đặt bút của chữ cái đứng sau một cách thuận lợi
theo hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải. Mặc dù đây là trường hợp
thuận lợi nhưng các em vẫn phải chú ý điều tiết độ cao, độ rộng của các nét chữ
một cách hợp lí thì sản phẩm chữ viết mới hài hồ, đẹp mắt. Ví dụ: chim yến,
nét chữ, vi tính.
Trường hợp viết nối khơng thuận lợi. Đây là những trường hợp nối các chữ cái
mà ở vị trí liên kết không thể viết các nét nối từ điểm cuối của chữ cái đứng
trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau. Có các trường hợp cụ thể sau đây:
- Liên kết một đầu:
+ Chữ cái đứng trước có nét liên kết, chữ cái đứng sau khơng có nét liên kết.
Ví dụ: đơ, no, mơ, ác, bát ngát, cá, cờ,… Điểm liên kết sẽ là điểm kết thúc của

chữ cái đứng trước. Khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước, cần lia
bút đến điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau rồi viết, sao cho nét cong trái của chữ
cái đứng sau chạm vào điểm dừng bút của chữ cái đứng trước.
+ Chữ cái đứng trước khơng có nét liên kết, chữ cái đứng sau có nét liên kết. Ví
dụ: q, sư, thời, ướt, ơn… Khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước,
cần lia bút đến điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau và viết tiếp theo quy trình viết
liền mạch. Điểm liên kết sẽ là điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau.
- Khơng có nét liên kết: Đây là trường hợp cả hai chữ cái đứng cạnh nhau đều
khơng có nét liên kết, khi viết phải tạo thêm nét liên kết phụ. Ví dụ: chót vót,
con sóc, ốc… Cần xác định điểm nối ở chữ cái đứng sau sao cho nét liên kết phụ
nối từ chữ cái đứng trước chạm vào đúng điểm liên kết của chữ cái đứng sau. Ví
dụ: Khi viết các chữ có dấu phụ, dấu thanh, cần chú ý viết dấu phụ và dấu thanh
sau khi viết “thân chữ” (tập hợp các nét chữ cơ bản đã liên kết với nhau theo quy
trình viết liền mạch). Có như vậy các thao tác viết chữ mới được hiện thực liền
mạch, đảm bảo tốc độ viết và tính thẩm mĩ của chữ viết. [1]
  * Khắc sâu những chi tiết học sinh thường gặp khó khăn.
           Đó là, giáo viên cần nhấn mạnh chỗ ghi dấu thanh với vần, từng loại vần,
cái khó với học sinh là khơng biết ghi dấu thanh ở vị trí nào nhất là những chữ
9


có từ 2,3 chữ cái trở lên. Khi dạy mỗi vần mới, cuối cùng tôi đều cho học sinh
nhận xét chốt lại những chữ ghi vần đó thì viết dấu thanh ở chữ cái ghi âm gì.
Đặc biệt ở bài ôn tập mỗi loại vần tôi đều khắc sâu vị trí ghi dấu thanh.Với chữ
có dấu phụ là dấu mũ như ơ, ơ, ê thì thanh sắc, huyền, hỏi phải ghi ở bên phải
dấu mũ cịn thanh ngã thì ghi ở giữa, phía trên của dấu mũ, các dấu thanh phải
ngay ngắn, cân đối nằm đúng dòng li quy định và không được chạm vào chữ cái
hay dấu phụ.
  * Xây dựng chương trình và phương pháp dạy học cụ thể cho mỗi phần
học, mỗi tiết học tập viết cũng như mỗi phần luyện tập.

         Với mỗi giờ Tập viết, tôi đều thực hiện đầy đủ các bước hướng dẫn học
sinh quan sát, nhận xét; giáo viên viết mẫu; học sinh tập viết bảng con, bảng lớp;
hướng dẫn học sinh viết vào vở đến bước chấm, chữa bài và nhận xét.
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học
sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái nên khi viết mẫu tôi
viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, phân tích cho học sinh.
Khi viết mẫu, tơi chú ý để học sinh nhìn thấy tay của giáo viên viết từng nét chữ.
Khi viết, tôi vừa kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút như thế nào? Thứ tự các
nét viết ra sao? và chú ý phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh.
- Hướng dẫn học sinh luyện tập viết:
+ Luyện viết trên không
Việc các em luyện viết trên không là bước giúp các em rèn luyện đơi tay và
rèn luyện quy trình viết các nét để học sinh khỏi ngỡ ngàng khi viết.
+ Luyện viết trên bảng con, bảng lớp
Ở mỗi tiết học tôi cho vài em luyện viết trên bảng lớp, cả lớp viết bảng
con những chữ cái hoặc từ đã học trong khi viết tơi thường chọn những chữ
khó viết mà học sinh hay viết sai.
Khi nhận xét chữ viết của học sinh, tôi cho các em quan sát lại chữ mẫu;
gợi ý để học sinh tự nhận xét chữ viết của mình và của bạn, biết tự tham gia
chữa lại những chỗ đã viết sai.
Tôi thường chữa lỗi sai chung bằng cách viết lại chữ đúng ngay bên cạnh
chữ viết của học sinh, tránh viết đè lên chữ viết sai của học sinh.
+ Luyện viết bài vào vở:
Luyện viết trong vở tập viết: Để cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập
viết, tơi hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng bài (chữ
mẫu, các dấu chỉ khoảng cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết
nét…) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
Trước khi cho học sinh viết bài tôi thường nhắc lại tư thế ngồi viết, cách cầm
bút, nhắc nhở học sinh trước khi viết: đặt bút ngay điểm bắt đầu viết, viết chữ


10


đúng nét, đúng độ cao của các nét, các chữ, khoảng cách giữa các chữ, các cụm
từ.
Luyện viết trong vở ở ơ li: Tơi viết mẫu cho tồn bộ học sinh trong vở cho
đến khi học hết phần âm ( chữ cái). Sau khi chuyển sang phần học vần, tiếng, từ
tôi chọn 1 số em viết chưa đẹp để viết mẫu
Trong khi học sinh thực hành viết bài vào vở, tơi theo dõi, uốn nắn cho một số
em có chữ viết còn xấu, cầm tay hướng dẫn cho học sinh viết 1 đến 2 chữ đầu
tiên.
+ Chấm, chữa bài:
Mỗi tiết học tôi chấm chữa từ 6 – 8 bài tại lớp, kết hợp chấm những học
sinh có chữ viết xấu và những học sinh rèn viết chữ đẹp. Các em còn lại được
chấm luân phiên ở trên lớp. Số bài viết của các học sinh cịn lại, tơi thu về nhà
chấm để kịp thời chữa cách viết của học sinh ở tiết sau. [2]
Tôi thường chữa những lỗi học sinh sai phổ biến, hướng dẫn kỹ lại cách viết
của chữ đó để các em khắc sâu cách viết một lần nữa.
Cho cả lớp xem bài viết đẹp. Kịp thời động viên, khích lệ những học
sinh có chữ viết tiến bộ, tun dương những học sinh có bài viết đẹp.
Tơi chia lớp thành 3 nhóm nhỏ, cho học sinh thi đua giữa các nhóm, nhóm nào
có nhiều bài viết đẹp, nhóm đó nhận được cờ thi đua.
Hàng tháng, tơi chấm vở sạch, chữ đẹp cho từng học sinh và sơ kết thi đua.
          Khi hướng dẫn học sinh thực hành luyện viết tôi luôn quan tâm theo dõi
hoạt động viết chữ của học sinh để kịp thời nhắc nhở và uốn nắn, giúp đỡ để học
sinh viết đúng hoặc biểu dương những học sinh viết đẹp; giúp học sinh thấy rõ
thành công hay hạn chế trong bài tập viết của các em. Trong q trình dạy viết,
tơi cịn để học sinh tự nhận xét chữ viết, tự sửa chữa cho nhau khi cần thiết.
Những em viết yếu, ngoài sự kèm cặp của cơ giáo cịn được sự giúp đỡ của các
bạn trong nhóm, trong lớp.

          Tốc độ viết cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chữ viết. Thời gian đầu
tôi cho các em viết chậm. Khi viết đẹp tôi mới cho tăng dẫn tốc độ viết, tạo cho
các em thói quen khi viết song mỗi chữ, mỗi từ, phải nhẩm lại kiểm tra độ chính
xác.
Một phương pháp khơng thể thiếu khi rèn chữ viết là phương pháp luyện
tập, mỗi học sinh ngồi vở tập viết bắt buộc ra tơi cịn cho các em chuẩn bị 2
loại vở nữa là vở ô li (loại giấy đẹp) và vở thực hành luyện viết để hướng dẫn
tập viết vào giờ học buổi chiều. Mỗi loại vở tôi đều thường xuyên chấm chữa
lỗi, nhận xét, nêu ưu khuyết điểm cho từng em.
3.5. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết và phát động phong trào thi đua “Giữ vở
sạch, viết chữ đẹp”

11


Để việc tập viết của học sinh được thực hiện một cách thuận lợi, không
gây ảnh hưởng xấu đến mắt, tay, cột sống… của các em, cần chú ý tới các điều
kiện vật chất sau đây:
- Ánh sáng phòng học: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, độ chiếu
sáng trong không gian lớp học từ 200 - 500 lux (lux: đơn vị đo độ chiếu sáng
quốc tế). ở những nơi thiếu ánh sáng tự nhiên ta có thể dùng ánh sáng nhận tạo
(Ví dụ: đèn điện) phân đều ở các phía lớp học. Chú ý treo đèn cách nền khoảng
2,8m và không để ánh sáng đèn làm loá bảng lớp hoặc khuất tầm mắt của học
sinh khi các em viết vào vở.
- Bảng lớp: Trang bị bảng từ tính và chống lố. Trên bảng có dịng kẻ cự li 4 5cm. ở phần bảng phía dưới ngang tầm viết của học sinh và ở phần bên trái của
bảng cần kẻ thêm các dịng kẻ mơ phỏng ơ li để học sinh tập viết và để giáo viên
viết mẫu. Bảng cần phải được treo ở độ cao vừa phải: cạnh dưới của bảng ngang
tầm đầu của học sinh ngồi trong lớp.
- Bàn ghế học sinh: Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung bình
của học sinh lớp 1. Tỉ lệ chiều cao của bàn - ghế phải tương xứng để khi ngồi,

khuỷu tay các em ngang với mặt bàn.
- Bảng viết của học sinh (bảng con), phấn viết bảng: dùng loại bảng viết phấn,
không dùng bảng Foormica và bút dạ vì loại bảng này trơn và bút không vừa tay
học sinh. Chọn loại bảng phẳng, mặt bảng nhẵn nhưng khơng trơn, có kẻ ơ
vng 1 mặt, ơ li 1 mặt(mơ phỏng các dịng kẻ trong vở ơ li). Phấn viết tốt là
phấn có độ cứng vừa phải, không bụi. Cần dùng khăn lau bảng ẩm và sạch. [1]
  Ở lớp ngoài sự trang bị sẵn có như bàn, ghế đúng quy cách, các bóng điện
phục vụ ánh sáng đầy đủ, tủ đựng đồ dạy – học; tơi cịn treo thêm mẫu chữ viết
trong trường Tiểu học, kẻ bảng lớp để thuận tiện cho việc dạy tập viết như: có
bảng kẻ các dịng li phóng to như vở Tập viết để viết mẫu và hướng dẫn viết vở.
          Để rèn chữ viết thành cơng phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, từng li, từng tí
của giáo viên. Mặt khác, giáo viên còn phải hiểu tâm lý lứa tuổi học sinh. Không
nên cho các em ngồi viết liền trong một thời gian dài dễ gây mỏi tay và chán.
Cần thường xuyên tổ chức các trò chơi thi viết chữ đẹp trong mỗi tiết học,. Tổ
chức thi “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” Trong từng tháng. Động viên khen ngợi
kịp thời những tổ hay cá nhân thực hiện tốt, đặc biệt những tổ hay cá nhân có
tiến bộ tạo cho học sinh sự hứng khởi hăng hái thi đua rèn luyện.
4. Hiệu quả của SKKN:
Qua quá trình nghiên cứu, vận dụng các biện pháp trên tôi thấy chữ viết
của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Đa số các em nắm được cấu tạo chữ, mẫu chữ và
kĩ thuật viết chữ. Các em viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định, chữ
đứng nét đều. Việc viết nắn nót và cẩn thận đã trở thành thói quen của các em.
Vở viết của học sinh đảm bảo chất lượng, chữ viết đúng mẫu, đúng tốc độ. Các
em luôn tự giác trong học tập, sách vở luôn giữ sạch đẹp. 100% học sinh giữ vở
sạch sẽ.
12


Phong trào giữ vở sạch, viết chữ đẹp của lớp ln dẫn đầu tồn trường,
được Ban giám hiệu nhà trường và các thầy cô giáo trong trường đánh giá cao.

Việc rèn luyện chữ viết đẹp cho học sinh thực sự là một thử thách lớn đối
với mỗi giáo viên, qua việc rèn chữ cho học sinh tay nghề được nâng cao bản
thân giáo viên khi dạy cũng thấy hứng thú, say sưa nên chất lượng giờ dạy ngày
càng tốt hơn. Vì thế lương tâm và trách nhiệm của thầy cơ được nâng lên, cơ trị
gần gũi nhau thêm.
Kết quả cụ thể như sau: (Cuối học kì I có thêm 1 em từ Miền Nam chuyển
về)
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ CHỮ VIẾT CỦA HỌC SINH
Năm học
(Cuối học
kì 1)

Sĩ số
học sinh

2016 -2017

22

Loại A

Loại B

Loại C

Không
xếp loại

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

12

54,5

10

45,5

0

0

0

0


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.

Trên đây là một số kinh nghiệm và việc làm cụ thể của bản thân tôi về
“ Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” trường tiểu học Hà Châu,
tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện viết chữ đẹp cho học sinh đóng một vai trị
quan trọng trong việc học tập của học sinh , rèn luyện chữ viết đẹp là một nhiệm
vụ không thể thiếu với lớp học đầu cấp. Cùng với tập đọc, luyện viết chữ giúp
học sinh chiếm lĩnh phần chữ viết của Tiếng việt . Rèn chữ viết học sinh là rèn
luyện một số phẩm chất như tính kiên trì, cẩn thận, khả năng thẩm mỹ….Viết
chữ đẹp là nguyện vọng là mong muốn của mỗi giáo viên, của mỗi phụ huynh
học sinh . Vậy có thể thấy rằng chữ đẹp là một nét văn hóa truyền thống, thể
hiện sự tài hoa của người cầm bút, là món ăn tinh thần khơng kém phần quan
trọng trong cuộc sống của con người xưa và nay.
Qua nhiều năm giảng dạy ở Lớp 1, bản thân tôi thấy được rằng muốn nâng
cao hiệu quả việc rèn chữ viết cho học sinh lớp Một thì giáo viên phải có tâm
huyết với nghề, nhiệt tình trong cơng tác giảng dạy, thương yêu, gần gũi với học
sinh. Bên cạnh đó từ những ngày đầu học sinh cắp sách tới trường, giáo viên cần
phải giúp các em khắc phục vượt qua những khó khăn, trở ngại về mặt tâm lý
khi mới vào lớp. Tạo được cho các em sự thích thú khi đi học, rồi giáo viên tiến
hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả năng tự học của học
sinh. Một số biện pháp hỗ trợ để rèn chữ viết cho học sinh lớp Một thành công

13


đó là thường xuyên kết hợp với cha mẹ của các em để báo cáo kịp thời kết quả
học tập cũng như thay đổi của các em trong quá trình học tập mà nhắc nhở giáo
dục các em.
2. Kiến nghị:

* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm
để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường của từng khối lớp.
- Duy trì các phong trào thi đua “ Giữ vở sạch- viết chữ đẹp”. Hội thi viết
chữ đẹp cấp trường.
- Trưng bày các bài viết đẹp , tập vở sạch cho học sinh tồn trường tham
khảo.
- Phân cơng giáo viên dạy Lớp 1 nên chọn những giáo viên có năng lực
chun mơn, chữ viết đẹp và tâm huyết với nghề, khéo léo trong việc ứng xử với
các em.
* Đối với giáo viên:
- Cần thấy được vị trí, tầm quan trọng của phân môn Tập Viết ở các lớp.
Mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, từ tư thế ngồi viết ,
cách cầm bút đến chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách chấm bài, nhận xét
cho học sinh.
Đề tài mà tôi nghiên cứu không đi sâu vào môn Tiếng Việt mà chỉ nghiên
cứu ở phần rèn chữ viết cho học sinh lớp 1. Đề tài này có thể áp dụng với các
Lớp 1 ở trường Tiểu học Hà Châu nhằm góp nâng cao chất lượng về chữ viết,
giảm tỷ lệ học sinh viết chữ quá xấu cho học sinh Lớp 1.
Đề tài này bản thân tôi đã thực hiện và mang lại hiệu quả rất tốt. Trong q
trình thực hiện tơi đã cố gắng tìm đọc và tham khảo tài liệu dạy học của lớp
mình phụ trách cũng như học hỏi từ đồng nghiệp. Tuy nhiên trong q trình thực
hiện khơng thể tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Vì vậy tơi rất mong được sự
đóng góp, bổ sung của các cấp lãnh đạo cũng như các bạn đồng nghiệp để sáng
kiến của tơi có tính khả thi hơn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hiệu trưởng


Hoàng Thị Duyên

Hà Châu, ngày 06 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép, không coppy
Người thực hiện

Nguyễn Thị Vị

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
[1] Phương pháp dạy học, chữ viết Tiếng Việt – Giáo trình sư phạm
[2] Rèn luyện kĩ năng viết chữ đẹp – Giáo trình sư phạm.
[3] Mẫu chữ viết theo chương trình giảng dạy ( Chữ viết thường)
[4] Vở tập viết Lớp 1 T1 ( Nhà xuất bản giáo dục)
[5] Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn:

15


DANH MỤC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài
Sáng kiến
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giảng dạy phân môn Lịch sử
Lớp 5
Sử dụng phương tiện dạy học và

phần mềm trình chiếu Microsoft
PowerPoint trong dạy học phân
mơn Địa lý ở Lớp 5
Một số biện pháp phụ đạo học
sinh yếu phân môn Học vần môn
Tiếng Việt lớp 1

Năm học

Xếp loại

Số, ngày, tháng, năm của quyết
định công nhận,cơ quan ban
hành QĐ
QĐ số 12/QĐ- SGD&ĐT, ngày
06/01/2010 của Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

2008 - 2009

C

2011 - 2012

B

QĐ số 7185/QĐ- PGD&ĐT, ngày
03/11/2014 của Phòng GD&ĐT
Hà Trung


C

QĐ số 753/QĐ- SGD&ĐT, ngày
03/11/2014 của Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

2013 - 2014

16



×