Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp rèn kĩ năng nói và viết cho học sinh lớp 2, trường tiểu học lương sơn 1, huyện thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.11 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
TT

A
I
II
III
IV
B
I
II
1
2
III
1
2
IV
C
I
II

TÊN ĐỀ MỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
NỘI DUNG
CƠ SỞ LÍ LUẬN
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


Thuận lợi
Khó khăn
CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Các giải pháp
Các biện pháp tổ chức thực hiện
HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
KẾT LUẬN
ĐỀ XUẤT

TRANG

2
2
3
3
4
4
4
5
5
5
6
6
7
18
19
19
19


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trải qua hàng nghìn năm, cùng với sự tiến hố của lồi người, ngơn ngữ
cũng dần dần được hình thành, phát triển và hồn thiện. Ngôn ngữ từ mức độ
1


đơn giản là trao đổi thông tin, tiếp đến là biểu lộ tình cảm, trạng thái tâm lí, cao
hơn nữa là yếu tố quan trọng biểu lộ văn hố, tính cách của con người. Việc sử
dụng ngơn ngữ: nói - viết không thể thiếu trong học tập, lao động - giao tiếp
hằng ngày. Việc nói, viết đúng chuẩn mực là cơ sở để ta có thể đánh giá trình độ
văn hố về mặt ngơn ngữ của một người. Khi chúng ta dùng sai tức là chúng ta
đã làm nghèo đi vốn Tiếng Việt, làm mất vẻ đẹp của tiếng nói và chữ viết. Xuất
phát từ mục tiêu giáo dục hiện nay: Giáo dục với tư cách là bậc học nền tảng
trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học nhằm hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các
kĩ năng cơ bản áp dụng cho cuộc sống sau này. Trong tất cả các môn học, Tiếng
Việt là một trong những môn học quan trọng, chiếm nhiều thời lượng, thời gian
dạy học. Việc dạy học Tiếng Việt trong nhà trường, ở cấp tiểu học đã chú trọng
tới bốn kĩ năng cơ bản đó là: nghe, nói, đọc, viết. Trong bốn kĩ năng này, kĩ năng
nào cũng quan trọng, có quan hệ mật thiết với nhau, song với kĩ năng nghe và
nói là hai kĩ năng học sinh đã có sẵn một số “vốn” nhất định. Học sinh “nghe”
thì dễ nhưng tiếp nhận thơng tin và thể hiện, diễn đạt “nói” cho người khác tiếp
nhận lại thơng tin một cách hiệu quả thì đó là cả một quá trình học hỏi, trau dồi.
Hai kĩ năng đọc và viết được hình thành và phát triển khi học sinh đi học, bắt
đầu ở cấp tiểu học học sinh mới thực sự thực hiện kĩ năng viết. Thực tế dạy học,
tôi nhận thấy rằng: nhiều thế hệ học sinh của mình cịn có nhiều em gặp khó
khăn trong việc nói và viết câu đúng theo chuẩn ngơn ngữ Tiếng Việt.
Vậy, làm thế nào để tất cả đối tượng học sinh, cho dù các em sống ở
những nơi điều kiện có nhiều khó khăn và sách tham khảo chưa được phong

phú đa dạng vẫn phát huy được sự sáng tạo, thông minh và khả năng suy nghĩ
linh hoạt khi đặt câu, viết văn, tự tin khi diễn đạt?
Là một giáo viên đã từng công tác lâu năm ở huyện miền núi, và đã nhiều
năm dạy học ở lớp 2, cùng những trăn trở nêu trên. Chính vì vậy, tơi đã chọn đề
tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói và viết cho học sinh lớp 2”, trường Tiều
học Lương Sơn 1, huyện Thường Xuân.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập với nền kinh tế, quốc tế hố
tồn cầu. Cùng với sự phát triển lớn mạnh về mọi mặt thì giáo dục đóng vai trò
2


quan trọng trong việc phát triển của đất nước . Nghị quyết TW II của Đảng đã đề
ra nhiệm vụ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu của đất nước.” Đảng ta, chính phủ
ta cũng đã chỉ ra rằng: Chúng ta hồ nhập chứ khơng hồ tan. Sinh thời Bác Hồ
của chúng ta đã nói: Tiếng Việt của chúng ta rất giàu và đẹp. Hãy giữ gìn sự
trong sáng của Tiếng Việt như giữ gìn chính con ngươi của mắt mình. Vậy phải
làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, bản sắc văn hoá dân tộc?
Một phần quan trọng đó chính là việc giữ gìn, trau dồi ngôn ngữ Việt. Từ xa xưa,
ông cha ta đã rất coi trọng việc giáo dục ngôn ngữ: Tục ngữ có câu: “Học ăn học
nói, học gói học mở”. Con người muốn tư duy tốt phải có ngơn ngữ. Ngơn ngữ là
cơng cụ của tư duy. Vì thế, tư duy và ngơn ngữ có quan hệ chặt chẽ, mật thiết,
tác động qua lại với nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trơi chảy,
và nếu ngơn ngữ được trau dồi tỉ mỉ thì sẽ tạo điều kiện tốt cho việc phát triển tư
duy. Để hoàn thành nhiệm vụ phát triển tư duy, để học sinh nói và viết tốt phải
kể đến vai trò và trách nhiệm của mỗi giáo viên trong nhà trường. Ngay từ lớp 2,
tôi thấy việc rèn kĩ năng nói và viết câu cho học sinh hết sức quan trọng và cần
thiết, tạo nền tảng, tiền đề cho những lớp học, cấp học tiếp theo. Trong nhiều
năm được phân công trực tiếp giảng học sinh lớp 2, tôi đã tập trung nghiên cứu

khả năng sử dụng ngơn ngữ, nói và viết câu của học sinh, những vấn đề cịn hạn
chế hoặc khó khăn của học sinh trong cách diễn đạt để từ đó giúp các em thực
hiện tốt hơn kĩ năng nói và viết câu. Điều này đã thơi thúc tơi ln tìm hiểu tài
liệu, học hỏi đồng nghiệp, suy nghĩ tìm tịi, áp dụng đúc kết kinh nghiệm dạy học
của mình để làm sao nâng cao được chất lượng dạy học của mình trong từng tiết
học.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó là những kinh nghiệm rèn kĩ năng nói
và viết cho học sinh lớp 2.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp trực quan: tôi tiến hành theo dõi, giúp đỡ trực tiếp.
- Phương pháp thực hành – luyện tập
- Phương pháp thảo luận nhóm: Đối với những từ khó dễ viết sai, hiểu
sai… tơi trao đổi với đồng nghiệp để tìm cách giải quyết tốt nhất.

3


Ngồi ra tơi cịn tự tìm hiểu qua sách báo, qua mạng để tham khảo những
câu văn hay, cách viết văn, kinh nghiệm giáo dục học sinh nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Ngơn ngữ là một thứ cơng cụ có giá trị, có tác dụng vơ cùng to lớn, nó có
thể dùng để diễn đạt tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy, biết được từ
những cái nhỏ bé, đơn giản nhất. Ngôn ngữ được thể hiện chủ yếu, cơ bản nhất
dưới hai hình thức: nói và viết. Đến tuổi đi học, các em mới có điều kiện học
chữ, học ngơn ngữ viết. Đây là một hình thức ngơn ngữ mới, có sức diễn đạt lớn

nhưng lại xây dựng theo những quy tắc, chuẩn mực nghiêm ngặt. Như chúng ta
đã biết, đơn vị ngơn ngữ thường dùng chính là câu. Khi giao tiếp thực tế hoặc
học tập bất kỳ môn học nào cũng cần địi hỏi, rèn luyện hai kĩ năng: nói và viết,
tức là khả năng sử dụng câu. Vậy chúng ta cần phải dạy học sinh nói và viết như
thế nào cho đúng, cho hay, để các em hiểu và giao tiếp đạt đến một mức độ
chuẩn mực? Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe chỉ hiểu lơ mơ. Nói, viết
khơng sao thể hiện được ý mình cho sn sẻ, rõ ràng, mạch lạc thì sẽ làm cho
người nghe khó hiểu, thậm chí hiểu sai. Như vậy các em cũng không thể nào
khai thác, tiếp nhận đầy đủ thông tin từ thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, trong nhà
trường, việc bồi dưỡng, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh là việc làm vơ cùng
quan trọng và cần thiết.
Nói như vậy, Tiếng Việt cũng khơng phải là những gì xa lạ. Đó chính là
vốn sống, vốn hiểu biết, là sự học hỏi, trau dồi kiến thức của mỗi chúng ta. Thế
nên, hãy đem những gì chúng ta biết, chúng ta học tập, chắt lọc để truyền dạy
cho các em ngay từ khi các em đang chập chững bước vào ngưỡng của của cuộc
đời, để mai sau cùng với kiến thức, vốn sống các em sẽ tự khẳng định được
mình.
Với những suy nghĩ trên, là một giáo viên, trong những năm qua, tôi đã
không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ để đạt được
hiệu quả cao trong dạy học. Đã nhiều năm, được phân công chủ nhiệm lớp 2. Tơi
thấy rằng học sinh của mình cịn mắc lỗi rất nhiều khi nói và viết câu. Vì thế, tơi
ln trăn trở để tìm ra giải pháp giúp học sinh khắc phục lỗi nói và viết câu đạt
4


hiệu quả. Đó chính là: “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói và viết cho học sinh
lớp 2.”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

Trong những năm qua, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp hai. Tơi

thấy có những thuận lợi và khó khăn nhất định ít nhiều ảnh hưởng đến chất
lượng dạy học. Đó là:
1. Thuận lợi:
Đa số các bậc phụ huynh đều thấy được tầm quan trọng của việc học nên
đã tạo điều kiện cho học sinh đến trường đến lớp. Các em có đủ đồ dùng cần
thiết để học tập.
2. Khó khăn:
Nhiều gia đình kinh tế cịn gặp khó khăn, đời sống vật chất cịn thiếu thốn,
chưa kể một số đông học sinh là con em dân tộc thiểu số, phát âm theo chuẩn
ngôn ngữ Tiếng Việt ít nhiều có sự ảnh hưởng của yếu tố địa phương. Ví dụ:
một số âm chưa rõ: “l” với “đ”: “lời nói” có khi thành “đời nói”; âm “b” trong
một số trường hợp lẫn với âm “v”, “bỏ đi’ thành “vỏ đi”… Các em ít có điều
kiện được tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, kĩ năng giao tiếp có phần
hạn chế. Một số học sinh nhà xa điểm trường đường đi trơn dốc, có khi phải lội
qua suối, trời mưa to không thể đi qua được. Khả năng tiếp thu, trình độ kiến
thức của học sinh khơng đồng đều.
Bên cạnh đó cịn có một số gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, gửi con lại cho
ơng bà trong khi đó các em lại đang cịn nhỏ, tính tự học chưa cao.
Từ thực trạng trên, tơi đã tiến hành khảo sát lớp mình chủ nhiệm trong hai
năm học như sau:
Năm học 2016 – 2017, tôi chủ nhiệm lớp 2A với kết quả là:
Sĩ số

Các kĩ năng

Sĩ số

Các kĩ năng

25


Kĩ năng nói
Kĩ năng viết

HTT

HT

CHT

SL
TL
SL
TL
SL
TL
Kĩ năng nói
7
25,9
13
48,2
7
25,9
27
Kĩ năng viết
7
25,9
13
48,2
7

25,9
Năm học 2017 - 2018, tôi chủ nhiệm lớp 2D. Kết quả đạt được như sau:
HTT

SL
4
4

HT

TL
16
16

SL
15
15

CHT

TL
60
60

SL
6
6

TL
24

24
5


Qua kết quả khảo sát, tôi nhận thấy: số lượng học sinh chưa hồn thành
các kĩ năng nói và viết cịn nhiều nên trong q trình dạy học, tơi đã tìm tịi,
nghiên cứu và đưa ra các giải pháp và biện pháp như sau:
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHÚC THỰC HIỆN.

Trong quá trình triển khai thực hiện các giải pháp, tôi đưa ra các giải pháp
như sau:
1. Các giải pháp:
Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh.
- Nhóm thường mắc lỗi về kĩ năng nói.
- Nhóm thường mắc lỗi về kĩ năng viết.
- Nhóm thường mắc lỗi cả về kĩ năng nói và viết.
Từ việc nắm bắt tình hình học sinh, trên cơ sở đó đề ra hướng giải quyết,
giúp đỡ học sinh:
- Đối với nhóm học sinh thường mắc lỗi về kĩ năng nói, tơi tạo điều kiện
cho học sinh được tham gia hỏi đáp thảo luận, trả lời các câu hỏi, từ đó giúp học
sinh sửa chữa.
- Đối với nhóm học sinh thường mắc lỗi về kĩ năng viết, tôi đã chú ý
hướng dẫn các em sửa cách trình bày câu văn, dùng từ sao cho phù hợp, chú ý
sửa câu sai khi học sinh viết đoạn văn. Đưa ra những câu văn khác nhau để học
sinh lựa chọn, khuyến khích học sinh viết đoạn văn theo chủ đề…
- Trong trường hợp học sinh thường mắc lỗi ở cả hai kĩ năng: nói và viết
câu, tùy vào mức độ, tôi sẽ cố gắng tạo điều kiện để học sinh trao đổi, giao tiếp
nhiều với các bạn khác, học hỏi cách trình bày của bạn, mạnh dạn trình bày ý
kiến, bài viết của mình để cô giáo và các bạn giúp đỡ…
Giải pháp 2: Thống kê lỗi học sinh thường mắc

- Câu không đủ thành phần: Học sinh nói, viết có thể thiếu một hoặc cả
hai bộ phận chính của câu, khiến cho nghĩa của câu không trọn vẹn, làm cho
người đọc hiểu sai hoặc buồn cưởi thậm chí cả hụt hẫng thất vọng.
- Câu thừa thành phần: Đây là những câu có thành phần câu lặp lại một
cách không cần thiết.
- Câu không phân định rõ thành phần: là những câu rất khó xác định
thành phần câu làm cho câu rắc rối, lủng củng, nghĩa của câu không rõ ràng, tối
6


nghĩa hoặc vô nghĩa. Nguyên nhân của loại lỗi này khá phức tạp. Trước hết là do
các em không chuẩn bị cho mình một nội dung cần nói, cần viết nên khơng phân
định được từng ý rạch rịi. Một phần nữa là do các em viết gần như trong tình
trạng vô thức, nhớ từ nào hoặc cụm từ nào là các em viết ngay vào bài khơng tìm
cách sắp xếp các từ, cụm từ để biểu đạt nội dung cần trình bày.
- Ngồi những kiểu câu sai về ngữ pháp như trên, học sinh cịn nói, viết
câu sai về nghĩa, câu khơng rõ nghĩa, câu khơng có sự tương hợp về nghĩa giữa
các thành phần câu, các vế câu.
- Một số lỗi khác ngoài câu
Ngoài những lỗi như trên, trong q trình dạy học, tơi cịn phát hiện thấy
học sinh còn mắc một số các lỗi khác, từ đơn giản đến phức tạp như: Hết câu
không biết dùng dấu chấm câu, dùng sai dấu câu, dùng dấu câu một cách tuỳ
tiện, dùng ngơn ngữ nói vào trong ngơn ngữ viết, dùng từ địa phương.
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện
Từ những giải pháp trên, tơi đã nghiên cứu, tìm tòi, đề ra các biện pháp
chủ yếu giúp học sinh rèn kĩ năng nói và viết câu như sau:
Biện pháp 1: Sửa trực tiếp.
Trong quá trình dạy học, bản thân tôi nhận thấy việc sửa trực tiếp hết sức
cần thiết vì dưới sự gợi ý, phân tích, giúp đỡ của giáo viên, các em sẽ nhận thấy
“lỗi” ngay tại lớp và “sửa” hiệu quả. Ưu điểm của biện pháp này là có thể áp

dụng cả khi học sinh nói và viết câu, đoạn văn. Giáo viên có thể cho em nghe lại
câu của mình vừa nói, từ đó phân tích điểm chưa được và hướng dẫn học sinh
sửa. Giáo viên có thể làm mẫu yêu cầu học sinh nhắc lại và bắt chước.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết tự thuật. Giáo viên hỏi: Tên em là gì?
Học sinh trả lời: Ngọc Khánh. Tôi hướng dẫn em bằng cách: Em trả lời như vậy
là chưa đủ câu. Em cần phải nói : Tên em là: Hà Thị Ngọc Khánh. (học sinh
nhắc lại câu trả lời).
Trong trường hợp học sinh viết câu, đoạn văn cịn chưa đúng, chưa đủ câu,
tơi đã trực tiếp sửa cùng học sinh và yêu cầu học sinh viết lại cho đúng, cho hay
hơn. Kết quả cho thấy học sinh của lớp tôi đều thực hiện sửa lỗi viết câu rất hiệu
quả.

7


Biện pháp 2: Giải thích để học sinh thấy được lỗi khi nói, viết câu để tự sửa,
tự khắc phục.
Giúp học sinh tự thấy “lỗi” cần phải sửa chữa là vấn đề khơng đơn giản,
đó phải là cả một q trình “tự học hỏi”, “tự rèn luyện” của mỗi học sinh thông
qua sự hướng dẫn, định hướng của giáo viên. Học sinh phải thật sự “hiểu” vấn đề
mình đang nói đến để có cách diễn đạt tốt nhất có thể.
Ví dụ: Khi học sinh viết đoạn văn nói về em bé. Một học sinh viết: Em bé rất
béo. (Học sinh Hỏa Tâm Đan)
Tơi giải thích cho em hiểu: Khi viết về em bé mình đã dành tình cảm yêu
quý cho em bé đó. Vậy mình nên thay từ béo bằng từ nào? Và như vậy học sinh
sẽ nói: Em bé trông rất bụ bẫm; Em bé trông mũm mĩm, đáng yêu…
Biện pháp 3: Gợi ý để học sinh khác giúp bạn sửa lỗi nói và viết.
Các cụ xưa thường nói: “Học thày không tày học bạn”. Đối với bạn bè
cùng trang lứa, các em sẽ thoải mái, dễ dàng trò chuyện, học hỏi lẫn nhau, các
em sẽ tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên hơn.

Chẳng hạn: Khi học sinh nói hoặc viết câu chưa đúng, chưa hay, tơi sẽ hỏi
học sinh khác? Em thấy câu văn của bạn thế nào?/ Em có nhận xét gì về câu văn
của bạn?../ Em hãy sửa lại giúp bạn…Từ đó, học sinh khác sẽ phát hiện chỗ
sai và giúp bạn khắc phục để có những cách nói hoặc viết đúng và hay.
Biện pháp 4: Đưa ra các câu văn khác nhau cùng diễn đạt một ý để học
sinh lựa chọn câu văn hay, phù hợp.
Trường hợp này, thường gặp ở những học sinh còn lúng túng khi đặt câu,
các em cốt làm sao đặt câu đúng theo yêu cầu. Để giúp học sinh, tơi khuyến
khích các học sinh đưa ra nhiều câu văn khác nhau để học sinh lựa chọn.
Ví dụ: Khi đặt câu với từ “mở”, học sinh viết: Em mở cặp. Tôi hướng dẫn học
sinh: Em đặt câu như vậy đã đúng rồi nhưng em hãy xem câu của em vừa đặt
với câu: “Em mở cặp lấy sách vở ra học.”, câu nào đủ ý và hay hơn? Học sinh
chắc chắn sẽ chọn câu thứ hai.
Ví dụ: Cũng là giới thiệu về một mùa mà em u thích, tơi khích lệ các học sinh
của mình đưa ra nhiều cách nói và các em đã có nhiều cách giới thiệu: Mùa em
thích nhất là mùa hạ; Em thích mùa xuân nhất, mùa xuân là mùa đầu tiên trong
năm; Trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đơng em thích mùa xn nhất; Một năm có
8


bốn mùa, bát đầu là mùa xuân, tiếp theo là mùa hạ rồi đến mùa đông và cuối
cùng là mùa xuân, mùa nào cũng có vẻ đẹp riêng nhưng em thích mùa thu nhất…
Biện pháp 5: Ra thêm các bài tập, yêu cầu học sinh đặt câu, viết đoạn văn
theo chủ điểm đã học.
Ngoài các bài tập trong sách giáo khoa, tơi cịn dành thời gian nghiên cứu,
tìm tịi các mẫu câu, đoạn văn phù hợp để các em được thực hành nhiều hơn, bởi
thực hành, luyện tập là vấn đề vô cùng quan trọng, giúp các em củng cố kiến
thức, rèn luyện kĩ năng viết câu, vì vậy, tùy vào các tiết học cụ thể, tôi xem học
sinh nào cịn chưa học tốt ở phần nào, tơi sẽ ra thêm các bài tập ở phần đó và
kiểm tra, hướng dẫn các em thực hiện vào đầu buổi học và các tiết ôn luyện. Đối

với tất cả học sinh trong lớp, tôi yêu cầu học sinh phải nắm chắc các kiến thức
liên quan đến các mẫu câu đã học để khi đặt câu học sinh khơng mắc phải sai
sót. Chẳng hạn: khi đặt câu theo mẫu: Ai (cái gì, con gì)/ là gì? (từ - cụm từ trả
lời cho bộ phận câu: là gì? Chính là từ (cụm từ) chỉ sự vật. Với mẫu câu: Ai (cái
gì, con gì)/ làm gì? từ (cụm từ) trả lời cho bộ phận câu: làm gì? là từ (cụm từ) chỉ
hoạt động. Ai (cái gì, con gì)/ như thế nào? từ - cụm từ trả lời cho bộ phận câu:
như thế nào? là từ (cụm từ) chỉ đặc điểm… Từ mẫu câu, tôi khuyến khích học
sinh thêm cụm từ hoặc hình ảnh so sánh để được câu văn hay hơn.
Ví dụ: Con mèo có bộ lơng màu đen. (Câu mẫu dạng: Con gì/ thế nào?) học sinh
có thể viết thành các câu: Con mèo có bộ lơng đen mượt như tơ; Con mèo có bộ
lơng đen mượt như nhung; Con mèo nhà em khốc chiếc áo lông đen mượt…;
Cũng từ một câu cho sẵn, tơi cho học sinh thực hiện cách diễn đạt tình cảm của
mình để câu văn hay hơn. Ví dụ: Câu mẫu: Lớp ta hôm nay rất sạch. Dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ phát triển thành các câu sau: Lớp ta hơm
nay mới sạch làm sao!, Ơi, lớp ta hôm nay sạch sẽ thế!, Lớp ta hôm nay sạch thật
đấy!, Hôm nay ai trực nhật mà lớp ta sạch sẽ thế nhỉ?... Qua đó tơi cũng phát
hiện thêm nhiều điều lý thú, sáng tạo của học sinh để tích lũy thêm cho kinh
nghiệm dạy học của mình.
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng phân cắt câu, cách sử dụng
dấu câu phù hợp.

9


Thực tế dạy học, tơi thấy rằng học sinh cịn lúng túng khi sử dụng dấu
chấm câu. Khi viết đoạn văn, có khi chưa hết câu các em đã dùng dấu chấm, có
khi hết câu lại chỉ dùng dấu phẩy.
Trường hợp này, tôi giúp học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức: Câu diễn đạt
một ý trọn vẹn giúp người nghe hiểu được nội dung cần nói. Khi viết, chữ cái
đầu câu cần phải viết hoa, cuối câu phải viết dấu chấm. Nếu là câu hỏi, cuối câu

phải viết dấu chấm hỏi. Khi tách câu, chúng ta phải đọc kĩ đoạn văn, và phải đọc
lại từng câu sau khi đã tách câu.
Ví dụ: Khi viết đoạn văn nói về con vật ni em thích, một học sinh viết:
Em rất thích con gà trống nhà em nó có bộ lơng nhiều màu sắc, đơi cánh
chắc khỏe, trên đầu nó có cái mào đỏ chót… (học sinh: Lơ Thị Phương )
Tơi hướng dẫn học sinh tách câu: Em rất thích con gà trống nhà em. Nó có
bộ lơng nhiều màu sắc. Đơi cánh chắc khỏe. Trên đầu nó có cái mào đỏ chót…
Biện pháp 7: Kiểm tra bài làm, chấm bài, chữa lỗi thường xuyên.
Việc kiểm tra bài, chấm, chữa bài thường xun là việc làm hết sức cần
thiết vì đó khơng chỉ thúc đẩy, động viên học sinh học tập mà còn giúp giáo viên
kịp thời phát hiện năng lực học tập, sáng tạo cũng như những thiếu hụt của các
em để kịp thời bồi dưỡng, khắc phục. Trong quá trình kiểm tra, chấm bài, tôi đã
giúp học sinh nhận ra sai sót trong khi viết câu và giúp các em sửa chữa, viết lại
câu văn, đoạn văn từ mức đạt yêu cầu trở lên và rất hiệu quả. Khi học sinh viết
đoạn văn, tôi kiểm tra, nhận xét, dựa trên ý diễn đạt của học sinh, tôi đã hướng
dẫn học sinh lựa chọn cách diễn đạt để hoàn thành đoạn văn được tốt hơn.
Biện pháp 8: Đa dạng các hình thức dạy học để thu hút sự chú ý của học
sinh, tạo được hứng thú học tập cho các em.
Tuỳ theo từng bài học, tiết học, tơi có thể cho học sinh đóng vai, hỏi đáp,
tổ chức trị chơi, hoạt động theo nhóm…nhằm gây hứng thú, thu hút sự chú ý
của các em để tăng kĩ năng nói và viết của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học.
Ở những tình huống đóng vai, học sinh của lớp tơi đã mạnh dạn hơn nhiều, kĩ
năng nói và viết cũng được nâng lên, các em rất hào hứng không chỉ thể hiện mà
cịn cả ở việc nhận xét đóng vai của bạn. Tơi đã cho học sinh đóng vai nhiều ở
các tiết kể chuyện, các tình huống trong tiết Tập làm văn hay trong môn Đạo
đức…học sinh đều thực hiện khiến tơi hài lịng. Ở các hoạt động trị chơi, học
10


mà chơi, chơi mà học đều mang đến nhiều mong đợi và thích thú cho học sinh.

Vì vậy tơi đã lồng ghép trò chơi vào tiết học để học sinh bớt căng thẳng nhưng
vẫn tiếp thu được kiến thức bài học một cách tự nhiên và dễ dàng hơn. Ví dụ: Tổ
chức cho các nhóm thi viết những câu văn có từ: nghĩ/ nghỉ kết hợp đánh giá
phần trình bày của nhóm. Trong tiết Luyện từ và câu, Tự nhiên và xã hội, hoặc
tiết Tập làm văn, tôi đã tổ chức cho học sinh chơi đoán tên con vật (hoặc cây cối,
đồ vật). Ví dụ: học sinh của nhóm này đưa ra đặc điểm, hoạt động của sự vật,
nhóm kia sẽ nêu đúng tên của sự vật đó, hoặc nhóm này đưa ra tên sự vật, nhóm
kia phải nêu đúng đặc điểm hoặc hoạt động của sự vật … Đây cũng là biện pháp
giúp học sinh mạnh dạn tự tin trong việc rèn kĩ năng nói và viết cho họ sinh.
Biện pháp 9: Đa dạng hoá các bài tập về câu.
Để giúp các em không bị lúng túng hoặc nhàm chán khi làm bài tập, tôi đã
cho học sinh làm quen, thực hành với nhiều dạng bài tập như:
+ Đặt câu.
+ Tách câu trong đoạn văn.
+ Lựa chọn câu văn hay.
+ Đánh dấu vào những câu văn theo em là đúng (chưa đúng), hợp lí (chưa
hợp lí).
+ Rèn kĩ năng nhìn tranh để nói câu.
+ Rèn kĩ năng nói : Kể về một người thân, Kể về một bạn, kể về một em
bé; Kể về một con vật, hoặc kể về một cái cây …
Với cách làm này, kĩ năng nói và viết câu của học sinh lớp tơi đã có sự
tiến bộ rõ rệt.
Biện pháp 10: Tăng cường kĩ năng nói và viết.
Tơi đã tạo điều kiện cho học sinh được luyện nói, luyện viết nhiều trong
các tiết học Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả và cả ở các mơn học
khác, trong các tình huống giao tiếp thực tế, ở các tiết học ngoại khóa... Tơi đặc
biệt lưu ý học sinh: Khi đặt câu, viết đoạn văn, cuối câu thường phải viết dấu
chấm; Cuối câu hỏi nhất thiết phải dùng dấu chấm hỏi(?). Đối với những câu thể
hiện tình cảm, cuối câu thường dùng dẫu chấm than (!). Ở biện pháp này, tôi
thường ra các bài tập lựa chon dấu câu để điền vào cuối mỗi câu đã cho và từng

bước nâng cao dần độ khó của bài tập. Có thể đoạn văn được lựa chọn nhiều loại
11


dấu câu, có câu văn buộc họ sinh phải suy nghĩ, tư duy để xác định nghĩa của câu
để từ đó lựa chọn dấu câu phù hợp. Ví dụ: Bài viết này của ai mà chữ đẹp thật
đấy( ). Học sinh phải suy nghĩ và hiểu đay là câu tỏ ý khen vậy cần điền dấu (!)
chứ không phải dấu (?). Nhưng nếu là câu: Bài văn này của ai mà chữ đẹp thế
nhỉ thì cuối câu cần điền dấu (?) vì ý câu này vừa muốn hỏi vừa muốn khen và
quan trọng là muốn hỏi để biết ai viết đoạn văn….
Biện pháp 11: Áp dụng các biện pháp dạy học sinh chữa lỗi trong từng
phân môn Tiếng Việt.
a) Phân môn Tập đọc:
Trong phân môn Tập đọc, học sinh thường sai ở việc trả lời câu hỏi thiếu
thành phần. Vì thế, ngay từ bài học đầu tiên tôi chỉ cần hướng dẫn và yêu cầu các
em trả lời lại cho đầy đủ câu. Hình thành ý thức, kĩ năng trả lời câu hỏi cho các
em.
Ví dụ: Trả lời câu hỏi bài đọc: Có cơng mài sắt, có ngày nên kim.
Giáo viên

- Lúc đầu, cậu bé học hành thế nào?
- Em có nhận xét gì về câu trả lời của
bạn?
- Em hãy giúp bạn trả lời lại cho đủ
câu nào?
GV nhận xét, chốt câu đúng.

Học sinh

- nhác đọc, nhác viết ạ!

- Bạn trả lời chưa đầy đủ câu ạ!
- Thưa cô, lúc đầu cậu bé nhác đọc, nhác
viết ạ!

b) Trong phân mơn Kể chuyện.
Ngồi việc nhớ nội dung truyện để kể, học sinh phải sử dụng câu đúng
trong hai trường hợp. Đó là: Trả lời câu hỏi gợi ý và: Kể chuyện bằng lời của
em. Học sinh thường mắc lỗi nói thừa thành phần câu và nói những câu khơng
phân định rõ thành phần.
Ví dụ: Kể chuyện: Sự tích cây vú sữa (Tuần 12).
Yêu cầu 1 (sgk): Kể lại đoạn 1 câu chuyện Sự tích cây vú sữa bằng lời của em.
Một học sinh đã kể: Ngày xưa, ở một làng kia, có hai mẹ con sống trong
một ngơi nhà ở làng có cậu bé rất ham chơi (HS Hà Văn Hồng). Nhiều em kể
rất lúng túng. Tơi đã giúp các em kể đúng, kể trơi chảy bằng việc giải thích cho
các em hiểu: kể bằng lời của mình nghĩa là các em đã nhớ và hiểu nội dung, từ
12


đó diễn đạt lại bằng lời của mình nhưng ý của đoạn truyện hoặc của cả câu
chuyện vẫn không thay đổi. Như vậy các em có thể thêm từ, sửa câu sao cho phù
hợp và đúng với nội dung là được. Tôi đã cho các em khác nghe, nhận xét bạn
kể, sửa và kể lại. Kết quả, các em sử dụng câu từ rất đa dạng và kể rất hay như
sau: Ngày xưa, ở một làng kia, trong ngôi nhà có hai mẹ con, được mẹ hết lịng
thương u, chiều chuộng, cậu bé trở nên nghịch ngợm, ham chơi… (Nguyễn
Thị Huyền)
Tôi đã tận dụng tối đa thời gian cho học sinh tập kể, nghe kể và kể lại. học
sinh nhờ được luyện kể, luyện nói nhiều nên khả năng diễn đạt cũng tốt lên
nhiều.
c) Trong phân môn Luyện từ và câu:
Tôi đã hệ thống lại các dạng bài tập các em dễ mắc lỗi về câu để từ đó đề

ra biện pháp dạy học phù hợp.
* Dạng 1: Điền từ cịn thiếu để được câu văn đúng.
Ví dụ 1: Bài tập 4c – Tuần 7: Chọn từ chỉ hoạt động thích hợp với mỗi chỗ trống.
Cơ … chúng em chăm học.
Nhiều học sinh lúng túng khi tìm, lựa chọn từ. Tôi đã gợi ý cho các em
liên hệ với việc cô dạy các em ở lớp để chọn từ. Đây là câu có thể lựa chọn được
nhiều từ để điền: khun, bảo, mong, khen... Tơi khuyến khích các em suy nghĩ
và lựa chọn từ hợp lý nhất để điền. Nhiều học sinh đã chọn từ “khuyên”: Cô
khuyên chúng em chăm học.
Ví dụ 2: Bài tập 2 – Tuần 8: Chọn từ trong ngoặc đơn thích hợp với mỗi chỗ
trống: (giơ, đuổi, chạy, nhe, luồn)
Con mèo, con mèo
…. Theo con chuột
… vuốt, … nanh
Con chuột …. quanh
Luồn hang … hốc.
Chỗ trống ở dịng 2, có học sinh chọn từ “chạy”, có học chọn đúng từ
“đuổi”. Tôi cho học sinh chọn từ “đuổi” giải thích cách chọn. (thực tế con mèo
đang đuổi theo bắt con chột để ăn thịt khác với việc chạy bình thường.)

13


Chỗ trống ở dịng 3, tơi u cầu học sinh chỉ ra vị trí các bộ phận của con
mèo: Vuốt ở dưới chân, nanh là răng nanh nằm trong miệng. Vì thế học sinh dễ
dàng lựa chọn và điền đúng: “Giơ vuốt, nhe nanh” mà không điền “Giơ nanh,
nhe vuốt”. Hai chỗ trống còn lại, học sinh dễ dàng điền đúng.
* Dạng 2: Đặt câu theo mẫu (Ai (cái gì, con gì)? là gì?/ làm gì?/ như thế nào?
Tơi cho học sinh ghi nhớ một số “mẹo” khi đặt và phân biệt các loại câu này.
- Đối với mẫu câu: Ai/ cái gì/ con gì? là gì? cần nhớ trong câu có từ “là”.

Ví dụ: Mẹ em là giáo viên.
- Đối với mẫu câu: Ai/ cái gì/ con gì? làm gì? cần nhớ bộ phận trả lời cho ý hỏi
“làm gì” là các từ chỉ hoạt động. Vậy nên trong câu phải có các từ chỉ hoạt động.
Ví dụ: Em học bài chăm chỉ.
- Đối với mẫu câu: Ai/ cái gì/ con gì? như thế nào? Ta cần nhớ bộ phận trả lời
cho ý hỏi “như thế nào?” là các từ chỉ hình dáng, màu sắc, kích thước, tính nết,
tính chất. Vậy trong câu sẽ phải dùng các từ chỉ đặc điểm.
Ví dụ: Mẹ em rất hiền; Con voi rất khỏe; Cây cau rất cao.
* Dạng 3: Nói câu kể về nội dung tranh.
Học sinh dễ dùng câu thiếu hoặc câu thừa thành phần.
Ví dụ: Bài tập 3- Tuần 12: Nhìn tranh, nói 2 – 3 câu về hoạt động của mẹ và
con.
Có học sinh nói: Em bé đưa điểm mười cho mẹ xem và khoe điểm mười
với mẹ, em bé đang ngủ.
Tôi đã hướng dẫn học sinh phân cắt các câu thành: Bạn gái khoe điểm
mười với mẹ. Em bé đang ngủ rất ngon trong lòng mẹ. Giúp các em hiểu: “đưa
cho xem” ở đây cũng có nghĩa là “khoe với mẹ”. Từ “em bé” trong 2 câu trên là
hai em bé khác nhau. “Em bé” trong câu đầu là chị của “em bé” trong câu sau.
Vì thế, để làm rõ nghĩa cho người nghe hiểu, ta phải dùng từ “Bạn gái” hoặc
“Chị” thay cho từ “Em bé” trong câu văn đầu.
* Dạng 4: Đặt câu cho bộ phận in đậm. (Chủ yếu ở dạng bài tập đặt câu hỏi)
Tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ, nắm rõ yêu cầu. Cho học sinh đặt câu và trả lời theo
cặp rồi trình bày xem đã hợp lý chưa. Đồng thời nhắc các em sử dụng dấu câu
cho đúng.
* Dạng 5: Bài tập về: “sử dụng dấu câu”
14


+ Loại bài lựa chọn dấu câu:
Ví dụ 1: Bài tập 4 – Tuần 14: Em chọn dấu chấm hay dấu chấm hỏi để điền vào

ô trống?
Tôi cho học sinh ghi nhớ kiến thức: Cuối câu hỏi, ta phải điền dấu chấm
hỏi, các câu còn lại ta phải điền dấu chấm. Đa số học sinh đã làm tốt.
Ví dụ 2: Bài tập 3 – Tuần 28: Điền dấu chấm hay dấu phẩy vào ô trống?
Giáo viên
Học sinh
Khi nào chúng ta dùng dấu chấm?
…khi chúng ta viết hết một câu.
Chữ đầu câu phải viết như thế nào?
- Chữ đầu câu phải viết hoa ạ!
Lưu ý trường hợp tên riêng cũng viết hoa
nên ta phải xem khi gặp từ này đã hết
câu hay chưa để điền dấu chấm câu cho - Làm tốt bài tập.
đúng.

+ Loại bài dùng dấu phân cắt câu, bộ phận của câu.
Ví dụ 1: Bài tập 3 – Tuần 8; Bài tập 4 – Tuần 12:
Em có thể đặt dấu phẩy vào những chỗ nào trong mỗi câu sau?
Chúng em ln kính trọng biết ơn các thầy giáo cô giáo.
Chăn màn quần áo được xếp gọn gàng.
Tôi giúp học sinh hiểu: các từ, các cụm từ có nhiệm vụ, tương đương với
nhau trong cùng một câu, ta phải dùng dấu phẩy để tách chúng.
Trong câu 1: “ kính trọng” tương đương với “ biết ơn”, “ thầy giáo” cũng
như “cô giáo”. Như vậy các câu trên, học sinh sẽ biết dùng dấu phẩy.
Chúng em ln kính trọng, biết ơn các thầy giáo, cô giáo.
Chăn màn, quần áo được xếp gọn gàng.
Ví dụ 2: Bài tập 3 – Tuần 4; Bài tập 3 – Tuần 35 – Tiết 1.
Ngắt đoạn văn sau thành 4 câu rồi viết lại cho đúng chính tả:
Trời mưa to Hịa qn mang áo mưa Lan rủ bạn đi chung áo mưa với mình
đơi bạn vui vẻ ra về. (Bài tập 3 – Tuần 4).

Với việc hướng dẫn học sinh nắm vững cách dùng dấu chấm như trên, sau
khi cho học sinh làm bài, tôi yêu cầu học sinh đọc và soát lại từng câu. Kết quả
việc dùng sai dấu câu của các em đã giảm hẳn. Nhiều em đã tách đoạn văn trên

15


đúng: Trời mưa to. Hoà quên mang áo mưa. Lan rủ bạn đi chung áo mưa với
mình. Đơi bạn vui vẻ ra về.
d) Trong phân mơn Chính tả.
Dạng bài tập liên quan đến câu chủ yếu là Đặt câu để phân biệt các tiếng,
từ dễ viết sai.
Ví dụ: Bài tập 3a – Tuần 8 – Tiết 2: Đặt câu để phân biệt các tiếng sau:
- da, ra, gia
- dao, rao, giao.
Nhiều học sinh đặt: Mẹ mua cặp da. Em đi ra… Thật ra những câu này đã
đủ bộ phận chính nhưng khi đọc ta vẫn cảm thấy có sự hụt hẫng vì thiều các bộ
phận phụ làm rõ nghĩa cho câu. Trường hợp này, tôi đưa ra một số câu văn đã
thêm các bộ phận phụ vào để học sinh so sánh như: Em hãy lựa chọn câu văn em
cho là hay nhất trong các câu văn sau:
+ Mẹ mua cặp da.
+ Mẹ mua cho em một chiếc cặp da rất đẹp.
+ Hôm qua, mẹ mua cho em một chiếc cặp da rất đẹp.
Học sinh có thể lựa chọn câu văn thứ 2, hoặc thứ 3 là đạt yêu cầu. Song ở
lớp tôi, các em đa số đều chọn câu văn thứ 3.
Từ việc làm mẫu trên, tôi gợi ý cho học sinh làm tương tự bài mẫu khi đặt
câu. Có một số ít học sinh cịn nhầm “Bác rao hàng” là câu. Tôi giúp học sinh
chữa thành: Bác bán hàng rong đang cất tiếng rao hàng…
Ví dụ 2: Bài tập 3- Tuần 13 – Tiết 1: Đặt câu để phân biệt các từ trong mỗi cặp:
a) rối – dối; rạ - dạ

b) mỡ – mở; nữa – nửa.
Học sinh đã vận dụng được việc làm mẫu của tôi để đặt được những câu
văn đúng, đầy đủ, từ mức đạt yêu cầu trở lên.
Ví dụ: Mỡ lợn trắng tinh; Em mở cặp để lấy sách vở ra học bài…
e) Trong phân môn Tập làm văn.
Trong phân môn này, học sinh phải sử dụng câu chủ yếu qua các dạng bài
tập: Nhìn tranh nói, viết câu (đoạn) theo nội dung tranh; Nói, viết lời chào, cảm
ơn, xin lỗi, đề nghị, chúc mừng; Viết đoạn văn kể về người, về vật …Nói chung
ở dạng bài tập nào thì cũng vẫn có học sinh sử dụng câu sai, song qua việc chữa
16


trực tiếp và hướng dẫn các em tự chữa lỗi dưới nhiều hình thức và biện pháp
khác nhau, tơi thấy rằng số lượng và số lỗi học sinh lớp tôi chủ nhiệm đã giảm
đáng kể.
* Các biện pháp hỗ trợ khác
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý cho học sinh để tiện kèm cặp, giúp đỡ học sinh.
- Động viên các em tự tin, mạnh dạn khi nói, khi đọc bài.
- Yêu cầu các em đọc to, nói to, nói rõ khi đọc hoặc khi phát biểu ý kiến.
Động viên, khích lệ các em. Tuyệt đối tránh để các em rụt rè hoặc tự ti. Nghiêm
cấm việc cười nhạo, chế diễu bạn của các học sinh khác.
- Xây dựng tổ nhóm học tập, em nói viết câu tốt kèm cặp, giúp đỡ em còn
chậm, chưa giao tiếp và viết câu đúng.
- Tơn trọng lắng nghe và thấu hiểu khó khăn của học sinh khi thực hiện
bài tập để giúp các em giải quyết tốt vấn đề.
- Đề xuất với các bậc phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện tốt về việc mua
sắm đồ dùng, góc học tập, thời gian học tập và nhắc nhở các em học tập cũng
như chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp.
- Đề xuất với phụ huynh xây dựng tổ nhóm học tập ở địa phương có sự
kèm cặp của phụ huynh.

- Bản thân tơi cũng khơng ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên
môn.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM :

Sau một thời gian áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng nói và viết câu cho
học sinh lớp 2, tơi thấy học sinh đã có những tiến bộ rõ rệt. Các em đã nói câu
đúng, đầy đủ thành phần, rõ nghĩa. Học sinh cũng đã mạnh dạn, tự tin hơn trong
giao tiếp. Tất cả các em cũng đã cơ bản nắm được cách viết câu, sắp xếp các câu
văn hợp lí và hồn thành đoạn văn đạt u cầu trở lên.
Kết quả đạt được của cuối năm học 2016 – 2017 của lớp 2A mà tôi đã chủ nhiệm là:

Sĩ số

Các kĩ năng

27

Kĩ năng nói
Kĩ năng viết

HTT

SL
16
16

TL
59,3
59,3


HT

SL
11
11

CHT

TL
40,7
40,7

SL
0
0

TL
0
0

17


Đến giữa học kì II của năm học 2017 – 2018, Tôi đã tiến hành khảo sát
chất lượng lớp 2D và thu được kết quả như sau:
Sĩ số

Các kĩ năng

HTT


HT

CHT

SL
TL
SL
TL
SL
TL
Kĩ năng nói
13
52
12
48
0
0
25
Kĩ năng viết
13
52
12
48
0
0
Qua thực tế áp dụng các biện pháp đã nêu ở trên vào dạy học, tôi thấy:
Các biện pháp rèn kĩ năng nói và viết câu mang tính ưu việt. Khơng chỉ áp dụng
cho học sinh lớp 2 mà cịn có thể áp dụng cho tất cả các học sinh ở các khối lớp
khác trong bậc Tiểu học. Tuy nhiên, những biện pháp trên chỉ mang tính chất bổ

trợ, cịn điều quan trọng để học sinh ít mắc lỗi là bản thân học sinh phải nhớ
nghĩa của từ ở mặt chữ viết và có ý thức viết nói và viết đúng. Vì vậy để dạy học
sinh sử dụng câu đúng, Giáo viên cần phải nắm vững ngữ nghĩa, cấu tạo ngữ
pháp của Tiếng Việt, trên cơ sở đó cần đề ra phương pháp, biện pháp dạy học
sinh phù hợp. Chúng ta có thể dạy học sinh ở mọi lúc, mọi nơi và dạy cả ở khi
dạy các mơn học khác chứ khơng riêng gì một Tiếng Việt. Tạo cho học sinh có ý
thức nói và viết câu đúng.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:

Trong quá trình dạy học, tôi đã rút ra bài học hết sức q báu cho bản thân
mình. Đó là: Muốn nâng cao hiệu quả dạy học tới mức có thể thì:
- Trước hết, người thầy phải trau dồi ngơn ngữ của mình.
- Khi dạy học, giáo viên phải phát âm đúng chuẩn.
- Các bài tập đưa ra cho học sinh thực hiện thì “lệnh” cần phải ngắn gọn,
rõ ràng, dễ hiểu.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh một cách cụ thể, ngắn gọn.
- Bên cạnh đó cũng rất cần có những nhận xét chính xác, tuyên dương
động viên học sinh một cách kịp thời để tạo hứng thú cho học sinh.
Và điều quan trọng khơng thể thiếu, đó là người giáo viên phải thực sự
“Yêu nghề, mến trẻ”. Phải hết mực thương yêu, tận tuỵ dạy dỗ học sinh và
không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức cũng như trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của bản thân.
II. ĐỀ XUẤT
18


Qua nhiều năm trực tiếp dạy học, tôi thấy học sinh còn rụt rè, chưa mạnh
dạn, chủ động trong giao tiếp, chưa có sự cọ sát thực tế nhiều vì vậy tôi mong
muốn nhà trường, các cấp lãnh đạo cần tăng thêm các buổi hoạt động ngoại

khóa, các hình thức sinh hoạt, giao lưu các câu lạc bộ nhiều hơn nữa để các em
được học hỏi, được giao lưu, giúp các em tự tin hơn góp phần rèn kĩ năng nói và
viết câu cho các em được tốt hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Lương Sơn, ngày 10 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT

DANH MỤC
19


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Tuyết
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường TH Lương Sơn 1.

TT

Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 2A trường Tiểu học
1
Ngọc Phụng 1 giải tốn có

lời văn.
2
3

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Sở GD&ĐT

C

2014 - 2015

----------------------------------------------------

20



×