Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.92 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TẬP LÀM VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 4

Người thực hiện: Vũ Thị Sự
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Lê Tất Đắc
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2016

0


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
II. Đối tượng nghiên cứu:
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
V. Phương pháp nghiên cứu:

Trang

B. PHẦN NỘI DUNG

A. PHẦN MỞ ĐẦU


1


I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân mơn
Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vơ cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn là
môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học:
Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và
người học là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho
các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống
xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngơn ngữ giàu hình ảnh. Song một
thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc
Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.
Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài
viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất
thơng báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở
lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước
thực tế đó, tơi rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em u thích
mơn văn? Để giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của
cảnh vật, thiên nhiên đất nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá
nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách cho các em?”.
Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp
4A1 Trường Tiểu học Lê Tất Đắc. Tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn dấu trong mỗi
học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh
nghiệm “ Nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4”.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
1. Học sinh lớp 4A1- Trường Tiểu học Lê Tất Đăc.
2. Chương trình phân mơn Tập làm văn lớp 4.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, tơi xác định mình phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận của giờ Tập làm văn.
2. Tìm hiểu thực trạng của việc dạy phân môn Tập làm văn.
3. Tổ chức dạy thực nghiệm .
4. Một số giải pháp đề xuất để nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Tập làm văn.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo.
2. Điều tra khảo sát thực tế.
3. Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngơn ngữ, so sánh đối chiếu,
thống kê và xử lý các số liệu thu được.

2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. SƠ LƯỢC CƠ SỞ LÍ LUẬN.
- Xuất phát từ mục đích, mục tiêu giáo dục cấp học, lớp học.
- Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ và yêu cầu của phân môn Tập làm văn.
- Xuất phát từ một số tồn tại và vướng mắc trong quá trình dạy Tập làm
văn của cả giáo viên và học sinh.
- Xuất phát từ các chuyên đề, thực tế dự giờ, thăm lớp của đồng nghiệp.
- Xuất phát từ kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy.
II. THỰC TRẠNG LÀM VĂN CỦA HỌC SINH LỚP 4 HIỆN NAY.
- Đầu năm học 2015-2016 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 4. Qua
quá trình giảng dạy và qua việc dự giờ, để học tập chuyên môn ở các đồng
nghiệp. Tôi nhận thấy việc làm văn ở lớp 4 còn gặp một số khó khăn:
1.Về phía giáo viên .
- Chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích

cực và những kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy trong từng bài học.
2. Về phía học sinh.
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy
đơn giản trực quan nên việc làm văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Chất
lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn
chưa cao.
- Vốn sống và vốn kiến thức văn của học sinh chúng tơi cịn hạn chế .Đa
số các em l chưa có ý thức mua sách báo để đọc, để tìm hiểu . Hơn nữa khơng ít
em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với
các tác phẩm văn học.
- Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng làm văn
của học sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn.
Qua khảo sát chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đầu năm học 20152016 tôi đã thu được kết quả như sau với tổng số học sinh của lớp là 42 học
sinh:
Kết quả khảo sát đầu năm học 2015 – 2016
Sĩ số

42
em

Kết
quả
đầu
năm

Bài viết hay
có cảm xúc,
giàu hình
ảnh


Bài viết đúng
thể loại, đủ ý,
diễn đạt trơi
chảy

Bài viết đúng
thể loại, ghèo
hình ảnh

Bài viết chưa
đủ ý, diễn đạt
vụng, nghèo
hình ảnh

2 em=4,7%

12 em=28,5%

20 em=47,6%

8 em=19,2%

Đây cũng chính là một thực trạng khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở về
việc làm văn của học sinh lớp 4 và của cả những năm học trước. Trước thực tế
ấy, tôi đã luôn suy nghĩ tìm tịi và tham khảo: Làm thế nào để nâng cao được
chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4? Cuối cùng tơi cũng tìm được một số
biện pháp để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4. Tôi đã áp dụng
những biện pháp này vào việc dạy làm văn cho học sinh lớp 4A1 trường Tiểu
3



học Lê Tất Đắc trong năm học 2015- 2016 và tiếp tục đưa vào áp dụng trong
những năm học tiếp theo. Thật đáng mừng qua một năm áp dụng chất lượng làm
văn của học sinh lớp tôi đã được nâng cao một cách rõ rệt. Tôi xin mạnh dạn
chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp .
III. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TẬP LÀM
VĂN CHO HỌC SINH.
Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4 địi hỏi người giáo
viên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một cơng việc rất khó khăn. Tơi đã tiến
hành những biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng làm văn .
1. Cung cấp các kiến thức văn học.
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới
có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các
em rất ít. Điều này khiến tơi suy nghĩ rất nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu
vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi cách phải bổ sung vào
vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của tiếng Việt. Cách làm nhanh nhất
là thông qua môn Tập đọc. Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ
ngữ mà các em chưa hiểu, sau đó tơi chốt lại một từ yêu cầu các em ghi vào “ sổ
từ”, tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
Ví dụ: Ở bài Đường đi Sa Pa. (Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 102), tôi
yêu cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và
hình ảnh.
- Trắng xóa tựa mây trời,
- Lướt thướt liễu rủ.
- Bồng bềnh huyền ảo.
Bài Con chuồn chuồn nước ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127).
- Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mơng, thung thăng, cao vút.
- Đặt câu: - Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh.
- Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông.

Vậy qua môn Tập đọc học sinh tích lũy được “ vốn liếng” từ khơng hề
nhỏ. Ngồi ra cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn
hay trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào văn
bản của mình.
Ví dụ:
Cá thu Biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
( Đồn thuyền đánh cá)
Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi
cong lướt thướt liễu rủ.
( Đường đi Sa Pa)
2. Luyện điền từ, chọn từ.
Song song với việc tích lũy vốn từ qua môn Tập đọc. Trong tiết luyện
viết đoạn văn tôi thường xuyên cho các em củng cố về từ ngữ qua dạng bài
luyện từ, từ dễ, từ khó.
* Điền từ để câu văn giàu hình ảnh:
- Nắng ban mai (hồng tươi) nhuốm chan hoà trên từng sắc lá.
4


- Hoa hồng đẹp (lộng lẫy) cánh hoa đỏ (thắm), mịn (như nhung).
- Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang (phả lửa) lên
trời.
- Bầu trời xanh (thăm thẳm), mây trắng (bồng bềnh) trôi.
- Cây cao (cao vút).
- Gió thổi (rì rào) trong đám lá.
- Mào của trống ta y hệt một bơng hoa đỏ (chon chót)
- Những quả cam (vàng óng), da (căng mọng) như mời gọi người đến
thưởng thức.
- Đôi mắt (long lanh như thuỷ tinh), lúc nào cũng (liến láu) nhìn quanh.

Việc chọn từ điền vào câu văn, giáo viên nên để học sinh thoải mái,
không ép hay áp đặt. Sau mỗi lần để học sinh chọn điền tơi cũng để học sinh
khác bình luận, nhận xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt mơn văn
có thể học hỏi được nhiều từ, câu của các bạn giỏi. Bài tập này đa dạng, dễ cho
ví dụ. Giáo viên nên khuyến khích và động viên làm tốt. Nếu với những câu quá
khó giáo viên có thể gợi ý.
Với dạng bài này tơi cho các em luyện tập ở các tiết “Luyện tập xây dựng
đoạn văn”, tiết “Hướng dẫn học” giúp các em lựa chọn các câu văn hay để viết
đoạn văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học, vừa nhớ lâu.
3. Dạy viết câu có kết cấu đơn giản.
Tháp cao nào cũng phải xây dựng từ dưới mặt đất. Để viết được những
câu văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên học sinh cần nắm được
câu trong dạng đơn giản nhất, đó là những dạng câu học sinh đã được học: Ai
làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?... câu khiến, câu hỏi, câu cảm.
Dạy những loại câu này đối với học sinh khơng khó. Ta chỉ cần hướng
dẫn tốt qua tiết Luyện từ và câu. Xác định các yêu cầu cơ bản học sinh cần nắm
được, và thường xuyên củng cố thật nhiều.
Câu phải có hai bộ phận chính: Chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Vật gì?
- Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? Như thế nào? Là gì?
Đi đơi với việc dạy lý thuyết tơi cho học sinh luyện viết câu, phân tích
thật nhiều, lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu:
Ví dụ: Sau khi học xong bài Tập đọc “ Sầu riêng” Tiếng việt 4 tập 2:
+ Học sinh cần tích luỹ từ: ngọt ngào, quyến rũ, quyện.
+ Đặt câu và phân tích:
Dạ hượng / ngọt ngào lan toả khắp khu vườn
CN
VN
Vườn hoa / quyến rũ lũ ong bướm rập rờn bay đến
CN

VN
Mít chín / thơm nồng, ngọt sắc như vị của trứng gà quyện với mật ong
già
CN
VN
Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững
chắc về câu.
4. Dạy viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp.
5


Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, khơng
hấp dẫn người đọc. Bởi vậy, ta cần trang bị những kiến thức nâng cao về câu
cho những “mầm non văn học”. Tuy nhiên ta khơng bắt buộc học sinh tiếp thu
những gì q phức tạp khơng phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có
thể dạy là:
- Câu có trạng ngữ.
- Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.
a. Với câu có trạng ngữ.
Đâu tiên tơi nên cho học sinh tiếp xúc với các loại câu này, tập tìm chủ
ngữ, vị ngữ.
Trên vịm cây, chim hót líu lo.
Học sinh rất dễ nhầm lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ nếu chưa tiếp xúc
với loại câu này. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi:
+ Con gì hót líu lo? ( con“ chim” vậy “ chim” là chủ ngữ).
+ Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ).
Vậy “Trên vịm cây” là bộ phận gì? học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ
nói rõ chim hót ở đâu.
Tương tự như vậy tơi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian,
nguyên nhân, mục đích, nơi chốn để học sinh có thể đặt câu:

Ví dụ:- Ngồi vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
- Để chăm sóc con, chị gà cần mẫn bới đất tìm thức ăn.
- Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trơng thật xinh.
b. Câu có nhiều chủ, vị.
Tôi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu.
Ví dụ: Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung.
Bằng cách làm này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc
khô khan kể lể. Học sinh viết câu văn hấp dẫn hơn.
- Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc.
- Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống.
- Chú mèo cuộn mình, lăn trịn như quả bóng.
- Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi.
Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt.
Bài văn không rời rạc, khô khan bởi chỉ được viết từ các câu đơn.
5. Dạy các biện pháp nghệ thuật.
Muốn bài văn hay thì trong bài văn khơng thể thiếu tính nghệ thuật. Học
sinh lớp 4 kiến thức về lĩnh vực này còn hiểu lơ mơ, hời hợt. Nếu giáo viên
khơng dạy, học sinh khó mà nắm bắt được. Để đưa nghệ thuật vào trong văn có
rất nhiều biện pháp. Nhưng theo tơi, đối với học sinh ở lứa tuổi này, hai biện
pháp nghệ thuật phù hợp nhất là so sánh và nhân hóa.
A. Biện pháp so sánh.
Tơi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có các biện pháp so sánh trong các
bài Tập đọc đã học.
Ví dụ:
- Bơng hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng
rực rỡ.
6


- Hoa cẩm chướng là ngơi sao màu trên vịm trời xanh lục giữa vườn.

- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng
ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng
ngàn ngọn nến trong xanh.
- Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu
vườn .
- Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.
- Những tán hoa lớn xòe ra như mn ngàn con bướm thắm đậu khít
nhau.
- Với những cánh tay quều quào xoè rộng, nó như con quái vật già nua
cau có và khinh khỉnh giữa đám bạch dương tươi cười.
- Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đó
thả hàng vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời xanh biếc chi chít cành và xoay thành
những tán trịn quanh thân cây.
Với những câu văn này tôi sẽ giới thiệu để các em nắm chắc được biện
pháp so sánh bằng cách sau:
Ví dụ: Câu “Bơng hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia
nắng vàng rực rỡ”. Tơi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy
hình ảnh mặt trời để tả bơng hướng dương.
Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu
khác để mô tả bông hướng dương.
“Bơng hướng dương rất to, màu vàng, có rất nhiều cánh nhỏ”. Và yêu cầu
học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu thứ nhất, 100% học
sinh được hỏi đều trả lời như vậy. “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử
dụng biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so
sánh tôi lại đưa ra một câu văn nữa.
“Bông hướng dương như chiếc đĩa màu vàng”
Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng
định câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi:
“Tại sao cả hai câu đều sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay
hơn?” và giải thích “ở câu thứ nhất, tác giả dùng hình ảnh mặt trời đang toả

nắng” một hình ảnh đẹp, sinh động và rất độc đáo để so sánh vì vậy đã làm cho
bơng hướng dương tươi đẹp hẳn lên. Còn câu thứ ba so sánh với cái đĩa có đặc
điểm giống bơng hướng dương song đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của bông
hoa. Từ đó giúp học sinh hình thành sự hiểu biết. Khi so sánh muốn làm cho
một sự vật đẹp hơn phải so sánh với sự vật khác giống nhưng đẹp hơn, có
những nét độc đáo, nổi bật hơn và ngược lại.
Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên, vì nếu khơng luyện
tập thì các kiến thức đó cũng mai một dần. Sau đây là một vài dạng bài tập mà
tôi đã xây dựng trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”:
a. Nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn.
So sánh như vậy giúp các em cảm nhận được điều gì mới mẻ của sự vật?
Thân dừa bạc phếch tháng năm.
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao.
7


Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng
chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu trịn và hai con mắt
long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng
mùa thu.
Dạng bài này khơng khó đối với học sinh nhưng không phải học sinh nào
cũng cảm nhận được cái đẹp cái mới mẻ trong đoạn văn, đa phần các em chỉ
nhận ra hình ảnh so sánh.
b. Điền từ thích hợp vào chỗ trống tạo thành câu văn có hình ảnh so
sánh gợi tả.
- Nhìn từ xa, cây bàng… một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
- Những trái chuối cong cong… vầng trăng khuyết.
- Những chiếc gai… những chú lính đứng trang nghiêm gác cho nàng

công chúa hoa hồng.
Ở dạng bài này hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống
như, tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt.
c. Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi chỗ
trống để mỗi dòng dưới trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh động.
- Lá cọ trịn x ra nhiều phiến nhọn dài, trơng xa như (bàn tay vẫy hoặc
một mặt trời mới mọc)
- Hoa bỏng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng
nhỏ xíu hoặc chùm quả).
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như (những mũi tên bay trong gió
hoặc những viên đạn rời khỏi lịng súng).
- Đơi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che
chở cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là (ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời con hoặc ngôi
sao dẫn đường cho con đi lên phía trước).
- Nụ hồng trơng giống hệt những (chiếc tháp) bé bé, xinh xinh.
Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền
thoải mái, khơng áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen
học sinh chọn từ để cho học sinh hứng thú học văn.
d. Tập so sánh.
Nâng cao hơn, tơi u cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu.
Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như:
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan.
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín.
- Tàu dừa, vầng trăng (trịn, khuyết), mặt hồ.
Loại bài tập này khó hơn, nó địi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong
phú lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Bởi vậy, tôi thường đưa ra những câu tham khảo khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà vẫn
chưa có được những câu văn có thể tích luỹ được để làm tư liệu. Ví dụ:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.

- Đồng lúa chín y hệt một biển vàng.
8


- Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn in sắc mây, trời.
- v.v.
Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một
phong phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày càng một nâng cao. Trong các
bài viết, đưa biện pháp mô tả vào để so sánh một việc làm dễ dàng đối với học
sinh.
B. Biện pháp nhân hóa.
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn
trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những câu
chuyện cổ tích của bà, của cơ giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới
phong phú của nghệ thuật nhân hố. Khơng cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới
thiệu học sinh sẽ nhanh chóng nắm được ngay.
Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho
các em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:
1. Thân chuối màu đen khơ ráp vì nắng gió.
2. Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khơ ráp vì nắng gió.
1. Gà Mái Mơ nuôi con rất khéo.
2. Chị gà Mái Mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
1. Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
2. Những bé gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
1. Gốc hồng màu đen xám.
2. Gốc hồng như một người mẹ già đi trong bộ áo xám đen nhường sắc
non xanh cho hoa, cho lá.
1. Bông hồng nhung vươn cao.
2. Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp
của mình.

1. Nắng chiếu đầy vịm lá.
2. Những tia nắng tinh nghịch đùa trên vịm lá.
v.v .
Khơng khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung
một câu trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất.
“ Nó hay hơn vì sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi
nghĩ giáo viên cần lí giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa:
Chị Mái Mơ, chị chuối, bé gà, cô hồng nhung… trở nên sinh động, đáng u vì
đã có những suy nghĩ, tính cách của con người.
Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu
cho các em cách nhân hoá sự vật.
a. Gọi tên sự vật.
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cơ trăng, chị gió,
bác mặt trời, anh gà trống, chị Mái Mơ, bác mèo mướp, chị chuối tiêu.
b. Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
- Hoa quỳnh trầm tư.
- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị Mái Mơ hiền lành.
9


- Những bé gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót.
- Trăng tinh nghịch nhòm qua cửa sổ.
- Quyển vở sung sướng, hãnh diện khoe điểm 10 đỏ chói v.v.
Song song với việc giới thiệu, tôi thường dành thời gian đọc cho
các em nghe những câu chuyện có sử dụng nhiều biện pháp nhân hố như: Dế
Mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa, Hai con ngỗng của nhà văn Tơ Hồi (tiến
hành vào tiết Sinh hoạt tập thể, Kể chuyện).

Nhắc học sinh liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích có các con vật
đáng u
thơng minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu mực cho học sinh tập,để
nắm được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.
Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này
ta cho các em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
1. Tập nhân hoá các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh bằng cách 1 hoặc
cách 2?
2. Nêu tâm trạng của các loài hoa vào mùa xuân?
3. Tưởng tượng ra cuộc trị chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo?
4. Chị Mái Mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những
cử chỉ, lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
Dựa vào những câu chuyện đã được nghe, những bộ phim hoạt hình đã
được xem thì những bài tập trên khơng khó lắm đối với học sinh. Tuy nhiên
giáo viên cần lưu ý chủ đề viết. Có thể gợi ý học sinh như sau:
- Bác mặt trời toả tia nắng ban mai hồng tươi.
- Chị gió tinh nghịch nơ đùa cùng đám lá.
- Mèo mướp lười biếng nằm sưởi nắng ở dưới sân.
- Cô gà mái đảm đang dẫn đàn con đi kiếm mồi.
- Chị chim sâu chăm chỉ lách chách chuyền cành.
- Hồng nhung lộng lẫy trong chiếc áo đỏ thắm mịn màng.
- Cúc vàng ủ rũ nhìn các bạn đi hội xn. Nó khơng cịn bộ quần áo nào
lành lặn cả.
- Hễ kiếm được miếng mồi nào chị Mái Mơ cũng lục tục gọi bầy con đến
nhường cho chúng.
- Chị dang đôi cánh ấm áp ủ bầy con nhỏ.
- Từ ngày nuôi lũ con, bộ lông chị gà cứ xơ xác hẳn đi.
- Chị gà rất giàu kinh nghiệm, chị chẳng bao giờ dẫn đàn con đến gần
rãnh nước.
Bằng cách luyện tập này thì việc vận dụng biện pháp nhân hố vào

bài tiến bộ rõ rệt .Câu trả lời này, tôi sẽ minh hoạ bằng bài văn của các em ở
phần sau.
Trên đây là các bước “dạo đầu” giúp các em có một vốn văn học
nhất định phục vụ cho việc viết bài. Học sinh sử dụng các “viên gạch” đó xây
nền các “ngơi nhà” như thế nào mới quan trọng. Muốn có bài văn hay cần gì
trong tiết dạy? Tơi xin trả lời bằng nội dung của phần 2 đề tài.
IV. DẠY VIẾT BÀI VĂN.
10


Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài viết
hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật,
cảm xúc. Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của học sinh cần
có tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn ta tập chung giải quyết
3 nhiệm vụ.
1. Xây dựng nội dung.
Phong phú về nội dung là yêu cầu đầu tiên của một bài viết tốt. Giải quyết
nhiệm vụ này tương đối khó nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ. Khi dạy, giáo viên
cần lưu ý hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa vì chương trình văn được soạn
cho trình độ phổ cập, đối với lớp khá ta có thể bổ sung thêm. Đích đầu tiên học
sinh cần đạt là phải hồn thiện về bố cục (có 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài) ý
phong phú có trọng tâm.
Khi đã hồn thiện về bố cục. Tơi tiếp tục chú ý đến nội dung bài văn.
Muốn bài văn phong phú học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi
câu hỏi học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ không phải một câu cộc
lốc. Ví dụ như câu hỏi:
- Thân cây thế nào? (trong bài quan sát cây hoa hồng). Tơi khơng bằng
lịng với câu trả lời kiểu: “Thân cây khẳng khiu, cành đâm ra mọi phía”. Cao
hơn, tơi địi hỏi ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ (màu sắc, độ cao, to, cách bố trí, các
cành, cành non, cành già, gai) và trả lời bằng một đoạn văn.

- Thân cây thâm thấp, màu xanh tươi. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào
nhau, vươn ra mọi phía. Đơi ba mầm non mới trồi lên mập mạp đầy sức sống.
Rải rác trên cành lá những chú gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú
lính gác cho nàng cơng chúa hoa hồng .
Rèn luyện thói quen quan sát nhiều góc cạnh của sự vật sẽ giúp học sinh
có được những bài văn “giàu ý”. Tuy nhiên không thể dàn trải mênh mông mà
bài văn phải có trọng tâm. Học sinh biết lựa chọn chi tiết nổi bật, lướt qua chi
tiết phụ để viết sâu dùng “từ đắt”. Ví dụ bài: Tả cây hoa hồng thì phải tả kĩ.
Nhìn tổng thể hoa trên cây, nhìn chi tiết từng bơng: Bơng nở to, bơng chúm
chím, nụ. Phát hiện vẻ đẹp riêng của chúng, so sánh chúng. Quan sát kĩ từng
cánh hoa, cách cấu tạo và điều quan trọng nhất là phải làm nổi bật hình ảnh lồi
hoa, cây hoa mình quan sát.
2. Đưa nghệ thuật vào bài văn.
Nói đến nghệ thuật ta có cảm giác nó cao siêu và xa vời với học sinh Tiểu
học. Nhưng cái “nghệ thuật” ở các em chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ ngữ,
hình ảnh và sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa. Bởi vậy nó cũng rất
gần gũi quen thuộc với các em vì các em đã có được cả một q trình học tập và
rèn luyện.
Trong q trình tập diễn đạt nội dung, có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
- Ta có thể tả màu sắc hoa hồng nhung bằng từ nào? (đỏ thẫm, đỏ thắm).
- Gốc hồng làm nhiệm vụ gì?
Tuy nó sần sùi màu nâu và khơ cằn. Em có thể dùng biện pháp so sánh
hay nhân hoá để làm nổi bật nét đẹp trong hình thức xấu xí của nó được không?
(gốc cây như người mẹ giản dị trong bộ áo nâu xám. Nhường sắc xanh tươi cho
lá, cho hoa).
11


- Những chiếc gai có thể nhân hóa được khơng? (Nhân hố như những người lính).
- Tàu lá chuối có thể so sánh với cái gì? ( Cái quạt khổng lồ, tấm lụa màu

xanh lục).
- Những quả chuối cong cong giống cái gì? (Vầng trăng khuyết).
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của
mình. Sau khi nghe phần trình bày của các em, tơi sẽ rút ra một số từ ngữ, hình
ảnh, câu văn hay để cả lớp có thể học tập và đưa vào bài của mình.
3. Đưa cảm xúc vào bài văn.
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm
xúc” của người viết. Cảm xúc khơng chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm
đậm trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật
là trừu tượng.
Bởi vậy ta khơng nên địi hỏi các em một cách chung chung. Các em lồng
được tình cảm của mình vào từng ý văn, giáo viên nên gợi ý cụ thể như sau:
- Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế
nào? (Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lịng người).
- Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm
được ăn ghê lắm).
- Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn).
Tương tự như vậy ta cần “bắt” học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận xét
cảm xúc của mình trước một vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự liệt
kê. Nó thấm đẫm các suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
Kết hợp được 3 yếu tố trên: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc thì bài văn của
học sinh cũng đạt tới một thành cơng lớn. Nó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho ta vun
trồng những năm học tới.
4. Kết quả.
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự
lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học văn
của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy
gọn, mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình
ảnh, điểm khá, điểm giỏi ngày càng nhiều. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn
điển hình của các học sinh lớp tơi.

*/ Bài số 1: Đề bài: Tả chiếc áo mà em thích?
Bài làm:
Em có một tủ quần áo với rất nhiều quần áo đẹp. Nhưng em thích nhất
chiếc áo trắng đồng phục mùa hè. Đây là chiếc áo, em được mẹ may cho từ đầu
năm học.
Đó là một chiếc áo sơ mi trắng tinh. Màu trắng tinh khơi của tuổi học trị,
tuy giản dị nhưng với em nó thật đẹp. Quanh cổ và ống tay áo được trang trí
thêm đường diềm kẻ sọc màu nâu xen lẫn màu đen, rất khoẻ khoắn. Bên ống tay
trái may thêm một chiếc túi xinh xắn và cặp cầu vai bồng bồng. Thân áo hình
chữ A mặc lên người nhìn rất điệu đà, hợp với học sinh chúng em. áo may bằng
vải phin trắng, đặc biệt thấm mồ hơi vào những ngày hè nóng bức. Chính vì vậy
em thấy rất tự tin và thoái mái mỗi khi mặc nó.
12


Hàng tuần, cứ vào thứ hai, thứ tư, thứ sáu em lại khoác trên người tấm áo
thân yêu. Sân trường em dường như dịu đi dưới cái nắng hè chói chang nhờ
những tấm áo màu trắng ấy. Nhìn từ trên cao xuống sân truờng em như có hàng
trăm chú cị đang bay lượn.
Em luôn hãnh diện và tự nhủ phải luôn cố học thật tốt để xứng đáng là
con ngoan trò giỏi.
Mai Thanh Hà – Lớp 4A1
*/ Bài số 2: Đề bài: Tả cây bóng mát hoặc cây hoa em thích?
Bài làm:
Mảnh vườn xinh xắn nhà em có rất nhiều hoa nhưng nổi bật nhất là cây
hoa hồng nhung. Bố em trồng từ mùa xn năm ngối.
Nhìn từ xa, cây hoa hồng giống như một cây nấm màu xanh điểm xuyết
vài chấm đỏ. Khi lại gần ta mới thấy hết vẻ đẹp tuyệt vời của cây. Thân cây
thâm thấp, gốc như một người mẹ giản dị khoác tấm áo màu nâu xám nhường
sắc xanh tươi, đỏ thắm cho lá, cho hoa. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào nhau

vươn ra mọi phía. Đơi ba mầm non mới nhú lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác
trên cành lá những chú lính gai nhọn hoắt đứng trang nghiêm canh gác cho nàng
công chúa hoa hồng. Lá cây cũng lạ lắm, chúng được viền một hàng răng cưa
màu tía đều đặn. Đầu cành những chùm lộc non màu nâu đỏ mỡ màng vươn
mình đón những tia nắng ban mai ấm áp.
Nổi bật trên nền lá xanh là những bông hoa đỏ thắm, đẹp lạ lùng. Cánh
hoa mịn màng như nhung, cuốn quanh vầng nhuỵ. Đơi ba nụ hồng chúm chím e
lệ, lấp ló trong nền áo xanh mỏng. Một vài bơng muốn khoe hết vẻ đẹp của
mình, xoè rộng từng chiếc cánh, phơ vầng nhuỵ vàng óng, thật lộng lẫy, ngào
ngạt toả hương thơm. Mùi hương quyến rũ, lũ ong bướm bay tới như đi hội. Hoa
hồng đẹp nhất vào buổi sáng sớm, khi ấy những hạt sương còn đọng trên cánh
hoa, lấp lánh như những hạt ngọc. Ai đi qua cũng phải trầm trồ khen “Hoa hồng
đẹp quá!”. Chủ nhật hay ngày lễ, mẹ em thường ngắt vài bông hoa mang vào
nhà cắm.
Hoa đã làm đẹp cho cuộc đời, đem niềm vui đến cho mọi người. Ngày
nào em cũng dậy thật sớm để tưới cho cây. Chăm sóc cây hoa là một việc làm
thú vị phải không các bạn?.
Nguyễn Mai Chi – Lớp 4A1
*/ Bài số 3: Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà?
Tả đàn gà mẹ và đàn gà con?
Bài làm:
Sáng sớm ông mặt trời tỉnh giấc, vươn vai, vén màn rọi những tia nắng
ban mai xuống làng quê, cảnh vật thay đổi, tươi tỉnh hẳn. Chị Mái Mơ dẫn đàn
con đi kiếm ăn.
Đàn gà trông thật xinh xắn, chúng kêu liếp nhiếp chạy quanh chân mẹ
giống như cái kén vàng ươm biết cử động. Đôi mắt chúng ngơ ngác nhìn quanh
tỏ vẻ lạ lùng, giống như những em bé mới cất tiếng khóc chào đời. Đơi chân nhỏ
xíu như chiếc tăm màu hồng hồng. Cái mỏ như hai vỏ trấu chắp lại nhưng em
chắc rằng chúng phải cứng cáp hơn nhiều. Trông đàn gà con bé bỏng, tuổi thơ
lại chợt hiện về với bao ký ức đẹp đẽ. Con gà mái mẹ thì lo lắng để mắt đến con

13


mình. Đơi mắt ấy mới dịu dàng làm sao, nó cứ dõi theo từng bước chân của đàn
con nhỏ. Chân chị bước thong thả cho đàn con kịp theo. Thấy mẹ “lục tục”, đàn
con ùa về chân mẹ để được chia phần. Trên mặt chị Mái Mơ hiện rõ niềm vui.
Khi mặt trời lên cao, đôi cánh của chị đủ rộng che mát cho cả đàn con của mình.
Chú trống choai thấy mẹ con gà Mái Mơ đi kiếm ăn ở vườn lạ cũng đi theo.
Thỉnh thoảng chú lại cất giọng gáy lanh lảnh của mình cho tất cả cùng nghe. Gió
nhẹ thổi làm cỏ cây rung rinh. Trên cành cây chim hót véo von.
Nhìn đàn gà con đáng u lòng em tràn ngập niềm vui. Em mong sao các
chú gà con nhanh lớn để có thêm đàn gà con mới.
Trịnh Nguyên Thành – Lớp 4A1
V. Hiệu quả của sáng kiến.
Qua một năm giảng dạy và áp dụng những biện pháp trên tôi thấy chất
lượng làm văn của học sinh lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt. Từng bước khắc
phục những khó khăn đã nêu ở trên . Sau đây là kết quả đối chứng chất lượng
làm văn đầu năm và cuối năm học 2015-2016 của lớp tôi như sau.
Kết quả đối chứng đầu năm và cuối năm học 2015-2016


số
42
em
42
em

Bài viết hay
có cảm xúc,
giàu hình

ảnh

Bài viết đúng
Bài viết đúng
thể loại, đủ ý,
thể loại, ghèo
diễn đạt trơi
hình ảnh
chảy

Kết quả
đầu
2 em= 4,7% 12 em=28,5% 20 em=47,6%
năm
Kết quả
cuối
10 em=23,8% 20 em=47,6% 12 em=28,6%
năm

Bài viết
chưa đủ ý,
diễn đạt
vụng, nghèo
hình ảnh
8 em=19,2%

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên biết sáng
tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên còn cần tận
tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học. Để dạy văn đ14



ược tốt, trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kĩ, dạy thật tốt các phân môn Tập đọc,
Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bởi chúng có tác động trực tiếp đến Tập làm văn.
Nó giúp học sinh tích luỹ vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu văn,
đoạn văn hay của bài Tập đọc vào bài văn của các em. Mặt khác thông qua
những bài văn hay cần cho học sinh nhận xét việc sử dụng từ ngữ, các biện pháp
nghệ thuật, từ đó giúp các em tích luỹ được vốn kiến thức văn học. Hay trong
giờ Luyện từ và câu, tơi ln khuyến khích, hướng dẫn học sinh tìm các từ hay
(theo chủ đề), đặt câu văn giàu hình ảnh, phân tích từ, so sánh câu. Mơn Tập làm
văn quả là khó đối với học sinh. Bài Tập làm văn là một tác phẩm văn học của
các em. Tác phẩm này hay, dở còn phụ thuộc vào năng lực của mỗi em, kĩ năng
giao tiếp, điều kiện sống của gia đình. Với lịng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm,
lịng u nghề, tơi đã khắc phục được khó khăn và giúp học sinh lớp tơi ngày
càng u thích môn Tập làm văn hơn và tôi thấy các em học văn thực sự có hiệu
quả.
Trên đây là một số biện pháp tơi đã thực hiện trong q trình giảng dạy
nhằm bồi dưỡng niềm say mê, u thích mơn Tập làm văn cho học sinh lớp 4.
Trong quá trình thực hiện tôi đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song
khơng tránh được những thiếu sót. Vậy tơi rất mong nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ và đóng góp chân thành của các cấp lãnh đạo, các đồng chí trong Ban
giám hiệu nhà trường và bạn bè đồng nghiệp để tơi giảng dạy ngày một tốt hơn,
góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
của Trường Tiểu học Lê Tất Đắc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 04 tháng 5 năm 2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung

của người khác.
Người viết

Vũ Thị Sự

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
II. Đối tượng nghiên cứu:

Trang
15


III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
V. Phương pháp nghiên cứu:

B. PHẦN NỘI DUNG

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:

Trang 1

III. Đối tượng nghiên cứu:

Trang 1,2

V. Nhiệm vụ nghiên cứu:


Trang 2

VI. Phương pháp nghiên cứu:

Trang 2

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
II..Thực trạng làm văn của học sinh lớp 4 hiện nay.

Trang 3

III. Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh.

Trang 4

1.Cung cấp các kiến thức văn học :

Trang 5

2. Luyện điền từ, chọn từ :

Trang 6

3. Dạy viết câu có kết cấu đơn giản :

Trang 7

4.Dạy viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp:


Trang 8

5. Dạy các biện pháp nghệ thuật:

Trang 9

IV. Dạy viết bài văn:

Trang 17

1. Xây dựng nội dung:

Trang 17

2. Đưa nghệ thuật vào bài văn:

Trang 18

3. Đưa cảm xúc vào bài văn:

Trang 19
16


4. Hiệu quả:

Trang 23

C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


Trang 24

Trang 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục 2005
2. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II
tác giả: GSTS Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Hà Nội 1995
3. Luyện thực hành tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Đà Nẵng - năm 2003.
4. Dạy học Chính tả ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2000.
5. Dạy Tập đọc ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục – năm 2000.
6. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Năm 2005 - Nhà xuất bản Giáo dục.
7. Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2005
8. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản
Giáo dục - năm 1999.
9. Sử dụng một số tư liệu của đồng nghiệp.

17



×