Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thành phần loài thú và ảnh hưởng của cộng đồng dân cư đối với công tác bảo tồn các loài thú khu bảo tồn thiên nhiên bắc hướng hóa tỉnh, quảng trị​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 83 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

Trường đại học lâm nghiệp

NGễ KIM THI

THàNH PHầN LOàI THú Và ảNH HƯởng của cộng đồng
dân cư đối với công tác bảo tồn các loài thú
khu bảo tồn thiên nhiên bắc hướng hoá
Chuyên ngành: Lâm học
MÃ số: 60.62.60

Luận văn thạc sỹ khoa häc l©m nghiƯp

Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: tiÕn sÜ phạm trọng ảnh

Hà tây 2007


1

MỞ ĐẦU
Từ lâu, động vật hoang dã giữ vai trò quan trọng trong việc cân bằng
sinh thái tự nhiên và nhiều mặt trong đời sống con người. Là nguồn gốc của
tất cả các lồi động vật chăn ni hiện nay, nó chứa đựng tiềm tàng nguồn
gen quý giá mà chúng ta có thể tuyển chọn, lai tạo chúng thành những lồi vật
ni có tính kháng bệnh cao, năng suất cao, lại thích nghi với điều kiện khí
hậu của từng địa phương. Động vật hoang dã là nguồn tài nguyên có thể tái
tạo, là tiềm năng thật sự nếu chúng ta biết khai thác, sử dụng hợp lý... Nhưng


chúng lại bị tác động mạnh mẽ của con người vào nhiều mục đích khác nhau
và với tình trạng rừng vẫn ngày càng bị giảm sút chất lượng và diện tích đã
làm cạn kiệt dần nguồn tài nguyên quý giá này. Nhiều loài trở nên rất hiếm,
một số loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng ngay trên vùng đất mà
chúng đã sinh ra và tồn tại trong một thời gian dài.
Nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ tài ngun thiên nhiên,
mơi trường nói chung, động vật hoang dã nói riêng là một trong những vấn đề
bức xúc và nóng bỏng nhất hiện nay.
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, được các tổ chức quốc tế
công nhận là một trong 16 quốc gia trên thế giới có tính đa dạng sinh học cao.
Trong đó có khu hệ thú (Mammalia) với 289 loài và phân loài đã được ghi
nhận [15]. Để bảo tồn và phát triển tài nguyên sinh vật một cách bền vững,
Việt Nam đã thành lập được 30 vườn quốc gia, 56 khu bảo tồn thiên nhiên và
37 khu bảo vệ cảnh quan với diện tích khoảng 2.541.000 km2 [5]. Đây là
những biện pháp tích cực, nhằm góp phần bảo tồn đa dạng sinh học nói chung
và duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất
nước.
Khu BTTN Bắc Hướng Hoá được thành lập theo quyết định số:
479/QĐ-UBND ngày 14/03/2007 “Về việc phê duyệt dự án quy hoạch và đầu


2

tư khu BTTN Bắc Hướng Hoá huyện Hướng Hoá”. Đây là khu BTTN thứ hai
được thiết lập trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Về đa dạng sinh học, các kết quả khảo sát bước đầu của tổ chức
Birdlife quốc tế chương trình Việt Nam cho thấy đây là điểm nóng về đa dạng
sinh học và là nơi sinh sống của các lồi động thực vật có ý nghĩa bảo tồn
quốc tế. Thú lớn và linh trưởng có các lồi: Sao la, Bị tót, Mang lớn, Vọoc
Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng, Chà vá chân nâu, Thỏ vằn… Các loài chim đặc

hữu đang bị đe dọa ở cấp quốc gia và quốc tế có: Gà lơi lam mào trắng, Trĩ
sao, Hồng hồng, Niệc nâu, Gà so Trung Bộ... Tuy có giá trị đa dạng sinh học
cao, nhưng các nghiên cứu để đánh giá các giá trị này hiện vẫn đang được
thực hiện rất hạn chế. Các thông tin và tư liệu đánh giá về giá trị đa dạng sinh
học ở đây cũng cịn rất ít, trong đó kể cả các nghiên cứu liên quan khu hệ thú
và nguồn tài nguyên rừng.
Đặc biệt, cơng tác bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và các lồi thú
nói riêng liên quan chặt chẽ với đời sống kinh tế-xã hội của cộng đồng dân cư
trong vùng. Vì thế, điều tra tìm hiểu mối quan hệ giữa cộng đồng với đa dạng
sinh học nói chung và với các lồi thú nói riêng, tình hình săn bắt bn bán
thú trong khu BTTN Bắc Hướng Hố để đề xuất một số giải pháp bảo tồn đa
dạng sinh học với sự tham gia của cộng đồng là một việc làm hết sức cần
thiết.
Xuất phát từ cơ sở đó, chúng tơi mạnh dạn chọn đề tài: “Thành phần
lồi thú và ảnh hưởng của cộng đồng dân cư đối với công tác bảo tồn các
loài thú Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá, Tỉnh Quảng Trị ".
 Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
*Mục tiêu nghiên cứu:
- Điều tra, đánh giá và xây dựng danh lục thú rừng cho Khu BTTN Bắc
Hướng Hoá.


3

- Đánh giá tính đa dạng và ước tính độ phong phú các lồi thú tại khu
vực nghiên cứu.
- Tìm hiểu và đánh giá ảnh hưởng của cộng đồng địa phương đến
nguồn tài nguyên thú rừng ở Khu BTTN Bắc Hướng Hố.
- Xác định các lồi thú bị khai thác, buôn bán ghi trong Nghị Định
32/NĐ-CP/2006, Danh lục Đỏ IUCN (2006) và Sách Đỏ Việt Nam (2000).

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác bảo tồn.
*Nội dung nghiên cứu:
- Điều tra, tổng hợp và phân tích thành phần lồi thú, lập danh lục thú
tại địa điểm nghiên cứu.
- Xác định giá trị bảo tồn thơng qua đánh giá các lồi q, hiếm, đặc
hữu của khu vực nghiên cứu.
- Xác định sự phân bố loài theo sinh cảnh, theo vùng địa lý và ước tính
mức độ phong phú của các loài thú ở khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá hiện trạng khai thác sử dụng và bn bán các lồi động vật
hoang dã ở Khu BTTN Bắc Hướng Hoá và một số khu rừng đặc dụng lân cận
- Xác định mục đích, thị trường và mạng lưới buôn bán động vật hoang

- Xác định yếu tố tác động chính đến khu hệ thú ở Khu BTTN Bắc
Hướng Hố.
- Tổng hợp, phân tích và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
trong công tác bảo tồn.
 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
*Ý nghĩa khoa học
- Đề tài tập trung nghiên cứu, tổng hợp và phân tích các thơng tin,
nhằm khẳng định, phát hiện đầy đủ hơn các giá trị và tiềm năng tài nguyên
thú cũng như ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng đối với công tác bảo tồn


4

trong phạm vi khu BTTN Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, cả vùng Bắc
Trung Bộ và tồn quốc.
- Có một danh lục đầu tiên đầy đủ hơn về các loài thú cho khu BTTN
Bắc Hướng Hoá
- Xác định được hiện trạng tài nguyên thú tại khu BTTN Bắc Hướng

hoá
- Đánh giá được giá trị bảo tồn, số lượng các loài thú quý hiếm, đặc
hữu hiện có tại khu BTTN Bắc Hướng Hoá.
- Xác định được hiện trạng khai thác, sử dụng và bn bán các lồi thú
tại vùng lõi và vùng đệm khu BTTN Bắc Hướng Hoá.
*Ý nghĩa thực tiễn
- Đây sẽ là nghiên cứu đầu tiên ở tỉnh Quảng Trị về lĩnh vực này. Hy
vọng các kết quả của đề tài sẽ là cơ sở khoa học giúp cho các nhà hoạch định
chính sách, cơ quan quản lý các cấp xây dựng kế hoạch bảo tồn và quản lý tài
nguyên thiên nhiên của tỉnh Quảng Trị.
- Cung cấp cơ sở khoa học cho việc đánh giá và quy hoạch xây dựng
khu BTTN Bắc Hướng Hóa
- Lựa chọn và đề xuất các giải pháp quản lý tài nguyên hợp lý để thu
hút cộng đồng tham gia vào việc bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời gắn kết
sự nghiệp bảo tồn đa dạng sinh học với phát triển sản xuất bền vững ở địa
phương.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh
viên học tập, giảng dạy, nghiên cứu trong lĩnh vực sinh học và quản lý bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên .


5

Chương 1
SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THÚ
Ở BẮC VIỆT NAM VÀ QUẢNG TRỊ
1.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu thú ở Bắc Việt Nam
Ở nước ta, từ lâu đời thú đã được nhân dân ta sử dụng làm thực phẩm,
dược liệu, xuất khẩu..., chính vì vậy mà các cơng trình nghiên cứu về thú ở
nước ta bắt đầu khá sớm.

Trong khoảng thời gian từ năm 1724 – 1784, Lê Quý Đôn đã viết các
cuốn sách “ Vân đài loại ngữ” và “Phủ biên tạp lục”, trong đó ơng thống kê
nguồn lợi động vật của một số địa phương. Tiếp theo đó là nhiều cơng trình
khác như “Đại nam nhất thống chí” của nhà bác học triều Nguyễn (1874)
thống kê các loài thú phổ biến ở nhiều tỉnh trong cả nước.
Brousmiches (1887) đã ghi nhận nhiều loài thú ăn thịt như Cáo - Vulpes
vulpes, Rái cá thường - Lutra lutra, Mèo rừng - Prionailurus bengalensis, Hổ
- Panthera tigris, Báo hoa mai - Panthera pardus, trong tài liệu "Nhìn chung
về lịch sử tự nhiên của Bắc bộ”.
Heude (1894), ghi nhận loài Sơn dương - Capricornis maritimus phân
bố ở miền bắc Việt Nam.
Billet (1896), các mơ tả lồi Hươu sao - Cervus nippon, Thỏ rừng Lepus sinensis và tê tê - Manis pentadactyla thu được ở tỉnh Cao Bằng.
Pousargues (1898), ghi nhận lồi Voọc đen - Pithecus francoisi có ở
vùng biên giới phía Bắc và Trung bộ.
Ménégaux (1906) mơ tả thêm 2 loài thú ăn thịt mới: Chồn bạc má bắc Melogale moschata và loài Cầy hương - Viverricula indica.
Boutan (1906) trong sách "Mười năm nghiên cứu động vật" đã ghi nhận
thêm 2 lồi thú ăn thịt mới: Cầy móc cua - Herpestes urva, Rái cá vuốt bé -


6

Aonyx cinerea, các lồi thú móng guốc và khỉ hầu, Hươu sao - Cervus
nippon, Hươu xạ - Moschus berezovskii, Nai - Cervus unicolor, Lợn rừng Sus scrofa, Hoẵng - Muntiacus muntjak, Khỉ vàng - Macaca mulatta, Khỉ
đuôi lợn - M. nemestrina, Khỉ mốc - M. assamensis, Thỏ rừng - Lepus
nigricolis cũng được ghi nhận.
Osgood (1932) đã tổng hợp nhiều tài liệu về thú do các đồn nghiên cứu
thú Đơng Nam Á Kelley -Roosevelts và của Delacour, Stevens, đã ghi nhận
172 loài và phân loài thú ở Việt Nam. Đây là một cơng trình khoa học tạo nên
bước ngoặt trong lịch sử nghiên cứu thú ở nước ta và Đông Dương.
Từ năm 1962 - 1966, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà Nước đã tổ chức

nghiên cứu liên hợp động vật - ký sinh trùng, côn trùng gồm nhiều cơ quan
phối hợp: Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà Nước, Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội , Trường Đại học Y khoa, Trường Đại học Nông Nghiệp I ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Cơn trùng.
Đồn nghiên cứu do Ban Sinh vật-Địa - Ủy ban Khoa học và kỹ thuật Nhà
nước chủ trì đã tiến hành điều tra , khảo sát tổng hợp về động vật trên 12 tỉnh
ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả của các đợt khảo sát được Đặng Huy Huỳnh
và cs tổng kết và ghi nhận 169 lồi thú thuộc 32 họ và 11 bộ, trong đó, có 85
lồi thú hoang dã phân bố ở vùng Đơng Bắc Việt Nam[11].
Lê Hiền Hào (1973) đã giới thiệu một số đặc điểm sinh học và phân bố
của những loài thú kinh tế miền Bắc Việt Nam trong cuốn “Thú kinh tế miền
Bắc Việt Nam”[9].
Cơng trình nghiên cứu của Cao Văn Sung và cs (1980). Về những loài
gặm nhấm ở Việt Nam đã ghi nhận 64 loài, thuộc 23 giống, 7 họ[24].
Đào Văn Tiến (1985) đã ghi nhận 129 loài thuộc 32 họ, 11 bộ trong
“Khảo sát thú ở miền Bắc Việt Nam”[25]. Đáng chú ý có 8 lồi lần đầu tiên
ghi nhận ở Việt Nam và 10 loài lần đầu tiên ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam.


7

Từ đầu năm 1980 đến nay, các dự án nghiên cứu thành lập các VQG, khu
BTTN mới bắt đầu triển khai mạnh. Nhiều kết quả nghiên cứu thú trong các
các khu BTTN và VQG lần lượt được công bố.
Dang Huy Huynh et al.,(1996), đã ghi nhận 31 loài thú thuộc 17 họ và 9
bộ ở VQG Cát Bà .
Năm 2001, trong “Báo cáo Điều tra hiện trạng đa dạng sinh học rừng đặc
dụng Hữu Liên, tỉnh Lạng Sơn”, các tác giả đã ghi nhận 69 loài thú thuộc 27
họ và 8 bộ
Nguyễn Xuân Đặng và cs (2006) đã ghi nhận ở VQG Tam Đảo có 77

lồi thuộc 24 họ và 8 bộ.
Trong thời kỳ này, các nhà nghiên cứu thú Việt Nam đã xuất bản 3 cuốn
danh lục thú Việt Nam:
Sokolov V.E., Kuznetxov G.V., Đặng Huy Huỳnh, Cao Văn Sung, Phạm
Trọng Ảnh,(1986) xuất bản cuốn "Khu hệ và sinh thái chim thú Việt Nam"
bằng tiếng Nga.
Đặng Huy Huỳnh, Đào Văn Tiến, Cao Văn Sung, Phạm Trọng Ảnh,
Hoàng Minh Khiên (1994) đã xuất bản “Danh lục các loài thú (Mammalia)
Việt Nam” [12]Trong danh lục này đã ghi nhận 223 loài thú thuộc 37 họ, 12
bộ.
Lê Vũ Khôi (2000) đã xuất bản cuốn“Danh lục các loài thú ở Việt
Nam”[15] ghi nhận 289 loài và phân loài thuộc 40 họ, 14 bộ.
Trịnh Việt Cường (2001) kết quả điều tra thành phần các loài thú ở VQG
Pù Mát, sơ bộ thống kê được 50 lồi thú thuộc 20 họ của 7 bộ, trong đó có 24
lồi q hiếm.
Lê Trọng Trãi và cs (2004) [20] đã ghi nhận ở vườn quốc gia Ba Bể có
55 loài thú thuộc 25 họ bà 8 bộ; ở khu BTTN Nà Hang đã ghi nhận 83 loài thú
thuộc 23 họ và 8 bộ[26].


8

Vùng Bắc Trung Bộ là khu vực có địa hình đa dạng hiểm trở, đặc biệt
các vùng dọc biên giới Việt-Lào, đã tạo nên đa dạng các hệ sinh thái từ miền
đồng bằng ven biển đến các vùng gò đồi, núi đá có nhiều hang động nổi tiếng
như động Phong Nha (VQG Phong Nha Kẻ Bàng) đó là nền tảng tạo thành
tính ĐDSH cao. Các hệ sinh thái ở Bắc Trung Bộ ln giữ vai trị quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội vùng.
Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu về thú đã được tiến hành trong
vùng. Điều đặc biệt trong 2 năm (1992 và 1994), các nhà khoa học đã phát

hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai lồi thuộc vùng rừng núi Hà Tĩnh,
đó là Sao La (Pseudoryx nghetinhensis) phát hiện tại Khu BTTN Vũ QuangHà Tĩnh năm 1992 và loài Mang lớn hay cịn gọi là Mang bầm
(Megamuntiacus vuquangensis) cũng được tìm thấy ở khu BTTN Vũ QuangHà Tĩnh, nơi mà trước đây khơng lâu đã phát hiện lồi trĩ cuối cùng trên thế
giới, lồi Gà lam đi trắng hay cịn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis).
Phạm Nhật, Nguyễn Xuân Đặng, 1999 trong báo cáo “Primates in
Phong Nha Ke Bang area: The status overview and recomendations for
further survey and monitoring” gửi cho WWF Việt Nam đã cho biết vùng
Phong Nha Kẻ Bàng là trung tâm Linh trưởng quan trọng của Việt Nam. Ít
nhất đã ghi nhận được 11 trên tổng số 25 lồi và phân lồi Linh trưởng có ở
Việt Nam. Chưa có một vùng nào có số lồi và phân lồi Linh trưởng cao như
vậy.
Averianov A.O, Abranov A.V, Tikhonov A.N. (2000) đã phát hiện
loài thỏ vằn Nesolagus timminsi loài thú mới cho khoa học trên cơ sở một
bộ xương thu thập được tại Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Phạm Nhật và các cộng sự (2001) kết quả điều tra khu hệ thú ở VQG
Phong Nha-Kẻ Bàng đã xác định có mặt của 98 loài thú, thuộc 24 họ, 9 bộ ,


9

trong đó đã phát hiện thêm hai lồi / phân loài mới cho khu vực là Thỏ vằn
(Nesolagus timinsi) và Voọc đen tuyền (Trachypithecus francosi ebenus).
1.2. Tình hình nghiên cứu thú tại Quảng Trị và Bắc Hướng Hóa:
Điều tra ĐDSH nói chung và thú nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
không nhiều và chỉ mới bắt đầu thực hiện gần đây, khi Quảng Trị bắt đầu hình
thành các khu rừng đặc dụng.
Báo cáo điều tra đa dạng sinh học thú tại Khu BTTN Đakrông của tác
giả Đặng Huy Huỳnh, Nguyễn Mạnh Hà năm 2005 ghi nhận được 67 loài thú
thuộc 25 họ và 10 bộ [7].
Dự án xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng

Trị của UBND tỉnh Quảng Trị năm 2006 đã ghi nhận tại khu BTTN Bắc
Hướng Hố có 42 lồi thú thuộc 17 họ và 6 bộ [27].
Kết quả điều tra của Nguyễn Xuân Đặng, Đặng Ngọc Cần, Nguyễn
Xuân nghĩa từ năm 2004-2007 ghi nhận tại địa bàn tỉnh Quảng Trị có 54 loài
thú lớn, thuộc 20 họ và 7 bộ, trong đó ở khu BTTN Bắc Hướng Hố là 47
lồi, ở khu BTTN Đakrơng là 49 lồi và ở khu BTTN đường Hồ Chí Minh
huyền thoại là 25 lồi [3].
Mới đây trong chuyến khảo sát điều tra về dơi và thú nhỏ của Viện sinh
thái và tài nguyên sinh vật - tháng 04/2007 của Nguyễn Trường Sơn và nnk,
đã ghi nhận có 11 lồi dơi thuộc 5 họ trong đó có một loài quý hiếm là Dơi
muỗi sọ nhỏ Pipistrellus paterculus.[21]


10

Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên:
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu BTTN Bắc Hướng Hóa nằm trong vùng sinh thái Trung Trường
Sơn chuyển tiếp giữa Nam và Bắc Trường Sơn, có ranh giới phía Tây giáp
với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào( chiều dài khoảng 6km), phía Bắc
giáp với tỉnh Quảng Bình( chiều dài khoảng 20km), phía Nam giáp các xã
Hướng Phùng, Hướng Sơn và Hướng Linh, phía Đơng giáp với 3 huyện Gio
Linh, Vĩnh Linh và Đakrơng. Tổng diện tích tự nhiên của khu BTTN Bắc
Hướng Hóa là 25.200 ha, trong đó điện tích đất có rừng là 22.537 ha
(Nguồn:Kết quả rà sốt 3 loại rừng năm 2006 của UBND tỉnh Quảng Trị)
Ranh giới của khu BTTN bắc Hướng Hóa nằm trên địa bàn 5 xã: Hướng Lập,
Hướng Việt, Hướng Sơn, Hướng Linh và Hướng Phùng thuộc huyện Hướng

Hóa.
2.1.2. Địa hình
Địa hình khu vực nghiên cứu là vùng núi thấp ở phía nam của giải
Trường Sơn Bắc với dãy núi cao trên 1000 m chạy theo hướng Tây Bắc-Đông
Nam dọc ranh giới hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Về phía Quảng Trị địa
hình nâng cao hơn, chia cắt mạnh, độ dốc lớn phổ biến từ 15-25o, có nhiều
nơi, nhiều chỗ dốc đứng. Trong khu vực có các đỉnh cao điển hình như: Động
Sa Mù (1550m) gần đỉnh đèo Sa Mù và Động Voi Mẹp(1771m) ở phía đơng
nam khu bảo tồn. Trong khu vực ngồi đồi, núi đất chiếm đa số cịn lại có hai
dãy núi đá vôi. Ở gần trung tâm là dãy đá vôi chạy theo hướng Đông-Tây,
ranh giới hai xã Hướng Lập và Hướng Việt, gần trung tâm xã Hướng Việt có
dãy núi đá vơi chạy theo hướng Bắc-Nam.


11

2.1.3. Địa chất
Khu vực nghiên cứu nằm trên hệ địa máng-uốn nếp Caledon Việt Lào ở
Bắc Trung Bộ, giới hạn bởi đứt gãy sâu Sơng Mã ở phía bắc và đứt gãy sâu
Tam Kỳ-Hiệp Đức ở phía nam. Các phức hệ địa máng phát triển từ kỷ Cambri
(có thể từ Sini) cho đến cuối Silur hoặc đầu Đevon. Trên chúng đã hình thành
các lớp phủ nền trẻ Epicaledon Paleozoi giữa-muộn, cũng như các võng
chồng hoạt hoá-tạo núi trong Mesozoi-Kainozoi. Hầu hết các núi trung bình
được cấu tạo bởi đá Granit phân bố khá phổ biến trong vùng. Các núi thấp
được cấu tạo bởi đá trầm tích lục nguyên tuổi Ocdovic-Silur gồm có cát kết
Mica, cát kết phân phiến, bột kết và sét kết phân phiến bị biến chất yếu ở dạng
Xirixit. Ngoài đá Granit nêu trên là các đá biến chất yếu tuổi Cambri-Ordovic
hạ bao gồm phiến thạch kết tinh, phiến thạch Xirixit, Pyrit, cát kết bị quarzit
hoá (Theo bản đồ địa chất Việt Nam).
2.1.4. Đất đai

Trong phạm vi khu vực nghiên cứu có các loại đất sau:
- Đất Feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp phát triển trên đá trầm tích
và biến chất có kết cấu hạt mịn.
- Đất Feralit vàng nhạt vùng đồi phát triển trên đá trầm tích và biến chất
có kết cấu hạt thơ.
- Đất Feralit mùn vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá trầm tích và
biến chất có kết cấu hạt thơ.
- Đất Feralit vàng nhạt núi thấp phát triển trên đá hỗn hợp.
- Đất Feralit vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá phún xuất tính
chua.
- Đất Feralit mùn vàng đỏ núi phát triển trên đá phún xuất tính chua.
- Đất phù sa sông suối.


12

2.1.5. Thời tiết khí hậu
Khu BTTN Bắc Hướng Hố nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió
mùa, có mùa đông lạnh, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5. Ba tháng có lượng
mưa nhiều nhất là tháng 9, 10 và 11. So với khí hậu Quảng Trị, vùng này mùa
khô đến sớm hơn và mùa mưa cũng đến sớm hơn. Số liệu khi hậu thời tiết
được tông hợp ở bảng 2.1.
B¶ng 2.1. Ỹu tè khÝ hËu thêi tiÕt ë Hướng Hoá từ năm 2000 2005

1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12
TB

Nhiệt độ TB
(0C)
18,0
18,5
23,1
26,1
28,2
29,3
29,4
28,9
28,1
25,1
20,5
19,0
24,5

Lượng mưa TB
(mm)
114
56
58
71

157,4
150
73
124
375
754
665
321
239,41

Độ ẩm TB
(%)
88
89
86
85
78
75
73
75
83
87
89
89
83

Số giờ nắng
TB ( giờ)
119
103

159
175
240
232
252
216
183
133
102
90
167

800
600
400

Lượng mưa TB
(mm)

200

Độ ẩm TB (%)

0

18,0
18,5
23,1
26,1
28,2

29,3
29,4
28,9
28,1
25,1
20,5
19,0

Tháng

Số giờ nắng TB
( giờ)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Hình2.1: Đồ thị khí hậu và thời tiết

( Nguồn:Trung tâm khí tượng thuỷ văn Đông Hà)


13

Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng từ 24oC - 25oC tương đương với
tổng nhiệt năm khoảng 8300 - 8500oC. Mùa đông tương đối lạnh và rất ẩm
ướt do ảnh hưởng của gió mùa đơng bắc, nhiệt độ trung bình trong các tháng
này ở vùng có độ cao < 400m nhiệt độ xuống dưới 22oC, còn trên các vùng có
độ cao từ 400-500 m trở lên thường xuống dưới 20oC và nhiệt độ trung bình
tháng thấp nhất ở Khe Sanh vào tháng 12 và tháng 1. Ngược lại mùa hè do có
sự hoạt động của gió Tây Nam nên rất nóng và khơ. Có tới 3 - 4 tháng (từ

tháng 4 đến tháng 7) nhiệt độ khơng khí trung bình lớn hơn 25oC, tháng nóng
nhất thường là tháng 6 hoặc tháng 7 nhiệt độ trung bình lên tới 29oC. Nhiệt độ
cao nhất lên tới 39 - 40oC. Độ ẩm trong các tháng này cũng xuống rất thấp, có
khi chỉ đạt dưới 30%.
Chế độ mưa ẩm
Vùng nghiên cứu có lượng mưa rất lớn, lượng mưa trung bình năm đạt
tới 2400 - 2800mm hoặc lớn hơn và tập trung chủ yêú trong mùa mưa, hai
tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9 và 11, chiếm tới 45% tổng lượng mưa
tồn năm. Mưa ít bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 11, tuy vậy lượng
mưa trung bình của tháng 5 ở Khe Sanh cũng đạt tới 157,4 mm.
Độ ẩm khơng khí trong vùng đạt tới 80-85%, trong mùa mưa độ ẩm lớn
hơn 90%.
Một số hiện tượng thời tiết đặc biệt
Gió Tây Nam khơ nóng: Đây là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của gió
Tây Nam khơ nóng, hoạt động của gió Tây Nam thường gây nên hạn hán
trong thời kỳ đầu và giữa mùa hè (từ tháng 2-4). Trong những tháng này nhiệt
độ tối cao có thể vượt quá 39oC và độ ẩm tối thấp xuống dưới 30%.
Sạt lở đất: Đây là vùng có lượng mưa lớn hàng năm, do địa hình dốc,
các cơng trình giao thơng đang mở rộng và nâng cấp thường xảy ra sạt lở đất,


14

đôi khi lũ quét cục bộ trong những tháng mùa mưa. Nhìn chung đây là một
trong những vùng khí hậu ít thuận lợi ở nước ta.
2.1.6. Thuỷ văn
Do có địa hình có độ dốc lớn nên sơng suối xuất phát từ đây thường
ngắn, dốc đổ ra biển theo hướng đông hoặc đơng bắc. Trong vùng nghiên cứu
có các hệ thống sơng chính sau:



Phía đơng bắc là sơng Bến Hải, tất cả các con suối bắt nguồn từ

sườn đông đều chảy vào sông Bến Hải và đổ ra biển Đông ở Cửa Tùng.


Phía tây bắc và nam là thượng nguồn sơng Xê Păng Hiêng chảy

qua Lào vào sơng Mê Kơng.


Phía đơng nam, bao gồm bắc Động Sa Mù và đông Động Voi

Mẹp là thượng nguồn của sông Cam Lộ (gọi là nguồn Rào) và đổ ra biển
Đơng tại Cửa Việt.


Phía nam là hệ thống suối của sông Rào Quán, là một chi lưu của

sơng Quảng Trị (Thạch Hãn). Nơi đây có cơng trình thủy điện Rào Qn đang
xây dựng.
2.1.7. Thảm và khu hệ thực vật
a.Thảm thực vật rừng:
Toàn bộ khu vực được bao phủ bởi các kiểu rừng kín thường xanh. Ở độ
cao dưới 600 m là rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và từ 600m trở lên
là kiểu rừng kín thường xanh á nhiệt đới. Nhưng trải qua quá trình tác động
lâu dài của con người như đốt nương làm rẫy, khai thác lâm sản và ảnh hưởng
của chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hoá học đã làm thay đổi nhiều diện
mạo của rừng thường xanh ở khu vực Bắc Hướng Hóa.
 Thảm thực vật nguyên sinh

Phạm vi nghiên cứu nằm ở phía bắc và tây bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng
Bình, nơi đây có nhánh tây đường Hồ Chí Minh đi qua, khu vực nghiên cứu là


15

rừng nguyên sinh rất ít bị tác động kể từ năm 1975 trở lại đây. Thảm thực vật
tại đây phản ánh sâu sắc yếu tố địa hình, địa chất và hoạt động của con người.
Phần mô tả thảm chỉ khái quát những đặc trưng hình thái, ghi nhận những cấu
trúc ban đầu trong tổ thành của hệ thực vật.
+ Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (phân bố dưới 600m)
++ Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất
Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất chiếm
phần lớn diện tích khu vực nghiên cứu, hầu như không bị tác động (kể từ năm
1975 trở lại đây), thành phần thực vật có tính đa dạng cao. Trong tổ thành có
sự tham gia của rất nhiều họ thực vật nhiệt đới ẩm, cây lá rộng xanh quanh
năm, cây to, tán lớn, tròn.
Đặc trưng về tầng tán: thể hiện rõ sự phân tầng; rừng này thường thấy
có 5 tầng.
Tầng 1 (Tầng vượt tán/tầng nhơ): Trên khu vực núi đất trong tầng vượt
tán có chiều cao 20-25m đơi chỗ có thể có cây cao trên 25m.
Tầng 2 (Tầng ưu thế sinh thái): Thường cây gỗ có chiều cao tương đối
đồng đều 10-15m, tán trịn tạo ra một màn có độ che phủ cao đạt tới 50-60%.
Cây gỗ có đường kính trung bình 30-40cm; Tầng này là sự đan xen, có tính đa
dạng cao của các họ thực vật nhiệt đới ẩm, lá rộng thường xanh.
Tầng 3 (Tầng dưới tán/tầng cây bụi và gỗ nhỏ): Có chiều cao 7-10m.
Thường gặp các cây tái sinh của hai tầng trên và những loài cây gỗ nhỏ.
Tầng 4 (Tầng cây bụi): có chiều cao 3-5m thường là các cây bụi chịu
rợp sống dưới tán.
Tầng 5 (Tầng thảm tươi/tầng cỏ quyết).

++ Kiểu phụ thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh mưa mùa
nhiệt đới trên núi đá vôi.


16

Do đặc trưng về lập địa: thường các dãy núi đá vơi có thành rất dốc, có
chỗ vách đá dựng đứng, chóp nhọn, tầng đất mặt rất mỏng hay khơng có,
phần chân thoải. Rừng trên núi đá vơi có độ che phủ thấp, không tạo được
một màn khép tán liên tục như kiểu rừng trên núi đất. Về mặt cấu trúc tầng
tán: Vẫn thể hiện 5 tầng; Nhưng điều khác biệt cơ bản của kiểu phụ thảm thực
vật trên núi đá vôi so với kiểu phụ trên núi đất là thành phần hệ thực vật. Ưu
thế trong các tầng của kiểu thảm này là những lồi chịu khơ, phát triển trên
nền đá vơi với những lồi đặc trưng khơng gặp trên vùng núi đất.
+ Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp (phân bố từ độ cao 600m
trở lên)
Khu vực Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, kiểu thảm thực vật thường
xanh á nhiệt đới núi thấp phân bố từ độ cao 600m trở lên chỉ gặp trên núi đất
(khu vực núi đá vơi ít, khơng có các đỉnh cao). Kiểu thảm này có diện tích
khá, phần lớn giữ được tính tự nhiên ít bị tác động. Về cấu trúc tầng không
đồng nhất ở các khu vực: vùng thung lũng, nơi bằng có dạng điển hình 5 tầng
gần giống với kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất,
cũng thể hiện rõ 5 tầng. Nhưng ở những triền núi dốc hay ở các đỉnh dông,
đỉnh núi, do bị bào mịn tầng đất mặt mỏng (có nhiều đá lộ đầu), yếu tố ánh
sáng mạnh cộng với tác động của gió đã ảnh hưởng mạnh tới hệ thực vật:
Khơng có cây to cao, nên ít thấy cây vượt tán, như thế rừng chỉ thấy rõ 4
tầng. Các đỉnh cao, các chóp núi thường có gió liên tục, cường độ, mật độ ánh
sáng phân bố đều, cộng với tầng đất mặt rất mỏng chỉ thích hợp cho một số
lồi ưa lạnh, chịu gió, phát triển được trên tầng đất nghèo dinh dưỡng, nên
thành phần thực vật nghèo nàn; Tầng tán đơn giản, chỉ thấy rõ 3 tầng.

Tầng đất mặt rất mỏng, gió thường xun, lại có mù ln xuất hiện nên
chỉ thấy rải rác có cây bụi.


17

 Thảm thực vật thứ sinh
Nhìn chung cả đai thấp dưới 600m và đai cao 600m trở lên có thể nơi
nhiều, nơi ít nhưng khơng tránh khỏi sự tác động của con người, sự tác động
mạnh mẽ nhất là canh tác nương rẫy, thể hiện rõ ở đai thấp dưới 600m, tiếp
đến là khai thác gỗ và lâm sản khác. Ở đai cao từ 600m trở lên ít bị tác động
bởi canh tác nương rẫy. Một số nơi thảm thực vật nguyên sinh bị hủy diệt do
chất độc hóa học (trước năm 1975) và một số nơi khác là những căn cứ qn
sự (Nơi đóng qn, hầm hào, lơ cốt). Đó là nguyên dân dẫn đến thảm thực vật
nguyên sinh bị mất đi. Cây gỗ, cây bụi, cây thảo tái sinh phát triển trở lại tạo
nên các thảm thực vật thứ sinh. Tùy thuộc vào mức độ tác động nhiều hay ít,
diễn ra một hay nhiều lần, thời gian phục hồi của thảm thực vật thứ sinh diễn
ra dài hay ngắn mà thảm thực vật thứ sinh có những nét đặc trưng khác nhau
về ngoại mạo, về cấu trúc, về thành phần hệ thực vật, cũng như tính đa dạng
thực vật. Đương nhiên các thảm thực vật thứ sinh không thể có tính đa dạng
sinh học cao so với thảm thực vật nguyên sinh.
+ Rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy
Phần lớn phân bố từ độ cao 600m trở xuống. Khác với vùng núi phía
Bắc và các vùng khác; Tại khu vực Bắc Hướng Hóa chỉ có dân tộc Vân Kiều
số lượng không nhiều; sống ở các khu vực thấp ven suối; nương rẫy canh tác
cũng không xa bản. Trình độ dân trí thấp, chưa biết sản xuất hàng hóa: Canh
tác nương rẫy chỉ là lúa, ngơ nhằm giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ nên
rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy không nhiều, vùng thấp quanh khu vực
bản làng. Những khu vực sau canh tác nương rẫy, được bỏ hoang từ 8 – 10
năm, rừng thứ sinh hình thành. Cấu trúc và thành phần hệ thực vật cũng như

hình thái ngoại mạo khác biệt rõ rệt so với rừng ngun sinh. Thường khơng
có tầng tán rõ rệt.


18

Tầng 1 (Tầng ưu thế sinh thái) Tầng này với các cây gỗ ưa sáng phát
triển trở lại từ chồi hay hạt, cùng tuổi có chiều cao dao động từ 8 -10m, đường
kính dao động từ 10 – 15cm.
Tầng 2 (Tầng gỗ nhỏ cây bụi). Có chiều cao 5 - 7m.
Tầng 3 (Tầng cây bụi dưới tán).
Tầng 4 (Tầng cỏ quyết)
Nét đặc trưng của rừng thứ sinh sau nương rẫy là hệ dây leo nói chung,
dây leo gỗ nói riêng rất ít. Tầng cỏ quyết đơn điệu, nghèo nàn, độ phủ tầng
này rất thấp. Tầng bì sinh (Phong lan, dương xỉ sống bám) hầu như khơng có;
có lẽ do độ ẩm thấp và chưa đủ thời gian cho những loài bì sinh, dương xỉ hay
Phong lan phát triển trở lại.
+ Trảng cây bụi, cỏ cao
Kiểu thảm này có diện tích đáng kể trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Phân bố ở đai thấp dưới 600m và trên 600m.
Thảm này cần có những nghiên cứu sâu nguyên nhân hình thành kiểu thảm
này, đặc biệt là những diện tích bị rải chất diệt cỏ (trước 1975). Qua khảo sát
tại một số khu vực chúng tơi thấy có 4 nguyên nhân:
1. Phát nương làm rẫy
2. Cháy rừng
3. Chất độc hóa học (trước 1975)
4. Xây dựng cứ điểm quân sự trong chiến tranh
Bốn nguyên nhân trên đã làm mất đi thảm thực vật nguyên sinh: Ở đai
thấp (dưới 600m) là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, đai cao (từ
600m trở lên) là rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp; Diễn thế rừng thứ

sinh diễn ra khi đất nương rẫy được bỏ hoang, đất sau cháy rừng và những
diện tích rừng bị hủy diệt do chất độc hóa học của Mỹ rải xuống (trước 1975).


19

Nguyên nhân làm mất thảm thực vật nguyên sinh là khác nhau nhưng
thảm thực vật thứ sinh: Trảng cây bụi, cỏ cao có những đặc trưng hình thái và
cấu trúc ngoại mạo giống nhau ở cả đai cao và đai thấp.
+ Trảng thứ sinh tre nứa (Trúc sặt) phân bố ở độ cao 600m trở lên
Ở độ cao 700 – 1200m có một diện tích khá nhiều Trảng thứ sinh Trúc
sặt (Arundiunria peteloti). Cây cao từ 3 - 5m có mật độ khá dầy, mọc tản
(khơng hình thành bụi cụm) ưu thế tuyệt đối 60 – 70% độ che phủ. Kiểu trảng
thứ sinh này rất đặc trưng , thường phân bố ở độ cao từ 800 – 1500m gặp ở
Ba Vì, Tam Đảo, Phan Xi Phăng. Có lẽ do một tác động nào đó (cháy rừng,
chất độc hóa học) làm cho thảm thực vật rừng ẩm thường xanh á nhiệt đới núi
thấp bị mất đi. Loài Trúc sặt (Arundinaria petelotii) – một lồi thuộc họ Hịa
thảo (Poaceae) ưa sáng thân ngầm lan nhanh, phát triển mạnh, ưu thế tuyệt
đối nhờ sức cạnh tranh đã chiếm lĩnh nhanh chóng diện tích rừng nguyên sinh
á nhiệt đới núi thấp bị mất. Cây gỗ, cây bụi, tái sinh phát triển chậm, sức cạnh
tranh kém cũng bị loại, tạo nên kiểu trảng thứ sinh Trúc sặt gần như thuần
loài, dầy đặc, độc đáo ổn định.
+ Trảng cỏ cây bụi thấp
Trên những vùng đất bằng chân núi, gần khu vực bản làng, những diện
tích canh tác nương rẫy diễn ra nhiều năm, đất bạc màu, tầng đất mỏng do bị
xói mịn. Đây cũng là nơi chăn thả, kiếm ăn của gia súc, sự giẫm đạp, tác
động thường ngày của gia súc đã hạn chế sinh trưởng của cây. Nên tại những
khu vực này chỉ còn những loài cây bụi cỏ thấp phát triển được trên nền đất
thối hóa nghèo dinh dưỡng. Tùy theo mức độ thối hóa của tầng đất mặt và
mức độ tác động ít nhiều của gia súc mà thành phần cây bụi, cây thảo là loài

này hay loài khác và ưu thế thuộc về cây bụi hay cây thảo.


20


21

b. Khu hệ thực vật
Điều tra ban đầu đã ghi nhận được 920 lồi thực vật bậc cao có mạch
thuộc 518 chi và 130 họ. Trong đó có 17 lồi quý hiếm được ghi trong sách
đỏ Việt Nam(2000) và 23 loài được ghi trong Danh lục đỏ thế giới (IUCN
2004). Về kinh tế trong tổng số những loài thống kê được có 125 lồi cây
cung cấp gỗ, 161 lồi cây làm thuốc, 44 loài cây làm cảnh và 89 loài cây làm
thực phẩm (ăn được) [28].
2.1.8. Khu hệ động vật
Khu hệ động vật hoang dã khu vực Bắc Hướng Hóa là một phần của
khu hệ động vật Bắc Trung Bộ hay một phần của khu hệ động vật vùng núi
thấp miền Trung Việt Nam. Các đặc trưng của khu hệ động vật hoang dã được
mơ tả ở các nhóm động vật dưới đây:
a. Khu hệ thú
Luận chứng kinh tế kỹ thuật quy hoạch và xây dựng khu BTTN Bắc
Hướng Hoá của Birdlife International cho biết đã thống kê được 42 lồi thú
(khơng kể Dơi) thuộc 17 họ và 6 bộ đã được ghi nhận trong quá trình điều tra
[28]. Trong đó có 26 lồi đã chắc chắn ghi nhận cho khu vực và 16 loài được
ghi nhận tạm thời qua thơng tin phỏng vấn. Trong đó lồi Voọc Hà Tĩnh, Thỏ
vằn là 2 loài đặc hữu của Việt Nam lần đầu tiên phát hiện ở tỉnh Quảng Trị.
Trong số 26 loài ghi nhận chắc chắn trong hai đợt điều tra, 11 lồi có
trong Danh lục đỏ thế giới (IUCN, 2004) ở các cấp bị đe dọa, gần bị đe dọa
hoặc chưa đủ thơng tin để xếp vào các nhóm lồi bị đe doạ. Mười một trong

số này có tên trong Sách Đỏ Việt Nam 2000, bao gồm 5 loài ‘Nguy cấp’:
Voọc vá chân nâu, Voọc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng, Gấu ngựa và Sao la;
sáu loài thuộc loại sắp nguy cấp là Tê tê Java, Khỉ mặt đỏ, Rái cá vuốt bé,
Mang lớn, Bị tót và Sơn dương .


22

b. Khu hệ chim
Kết quả của hai lần khảo sát năm 2004 và 2005 đã ghi nhận 171 loài
chim, thuộc 14 Bộ, và 32 Họ cho khu BTTN Bắc Hướng Hóa. Trong số đó có
18 lồi có giá trị bảo tồn, có 9 lồi được ghi trong sách đỏ Thế Giới
(2004)[28], đây là những lồi bị đe dọa mang tính toàn cầu và 12 loài ghi
trong sách đỏ Việt Nam (2000). Trong số 18 lồi có 7 lồi là những lồi có
vùng phân bố hẹp (vùng phân bố tồn cầu nhỏ hơn 50.000km2), trong đó có 2
lồi đặc hữu cho Việt Nam (Gà lôi lam mào trắng và Gà so trung bộ).
c. Khu hệ bò sát và ếch nhái
Khảo sát khu hệ Bò sát và Ếch nhái khu vực Bắc Hướng Hóa do nhóm
chuyên gia của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh Vật và Viện Động vật St.
Petersburg-Viện Hàn Lâm Khoa học Nga tiến hành từ ngày 20/4-15/5/2005.
Kết quả phân tích và báo cáo sơ bộ đã chỉ ra rằng khu hệ Bị sát và Ếch nhái
khu vực có tính đa dạng sinh học cao. Tổng số ghi nhận 61 lồi Bị sát và Ếch
nhái, trong đó 30 lồi Ếch nhái thuộc 5 họ và 1 bộ và 31 lồi Bị sát thuộc 8
họ và 2 bộ[27]. Kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận mới một số loài cho khu
vực như: 2 loài ếch cây thuộc giống Theloderma spp., Ếch cây Hymalayan,
Rắn ri cá, Rắn khuyết, Rắn lục cườm, Rắn cạp nia thường v.v. Về giá trị bảo
tồn chưa thống kê cụ thể nhưng có nhiều lồi q hiếm trong sách đỏ Việt
Nam và Thế Giới như: Tắc kè, Rồng đất, Cạp nia nam, Cạp nia thường, Rắn
lục volgel, Rùa đất Sêpơn, Cóc rừng, Ếch gai sần .v.v. (Hồ Thu Cúc 2005. báo
cáo tóm tắt gửi Chi cục kiểm lâm Quảng Trị).

2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.2.1. Dân số và sự phân bố dân cư
Các thông tin về kinh tế xã hội được thu thập ở 5 xã có liên quan đến
Khu BTTN Bắc Hướng Hố thuộc huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị bao
gồm: Hướng Lập, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Việt và Hướng Linh,


23

trong đó xã Hướng Việt mới được thành lập theo Nghị định số 08/NĐ-CP
ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Chính Phủ. Tổng số dân là 9.150 người,
1.915 hộ, trong đó có 1.308 hộ là người Vân Kiều (chiếm 68,3 % tổng số hộ
của 5 xã), còn lại là người Kinh. Kết quả thống kê tình hình dân số, diện tích
và mật độ dân số năm 2004 của vùng nghiên cứu được trình bày ở bảng 2.2.
Bảng 2.2: Thống kê tình hình dân số, diện tích và mật độ dân số
trong khu vực năm 2004
Hạng mục
Tổng số hộ
+ Kinh
+ Vân Kiều
+ Pacô
+ Khác
Nhân khẩu
+ Nam
+ Nữ
Lao động
+ Nam
+ Nữ
Số hộ đói nghèo
Tỷ lệ hộ đói

nghèo(%)
Mật độ dân
số(người/km2)
Diện tích tự nhiên
(km2)

Hướng
Hướng
Hướng
Hướng
Hướng
Lập
Việt
Phùng
Sơn
Linh
188
185
928
262
352
6
5
576
8
11
182
180
352
254

341
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1.154
1.039
3.517
1.540
1.900
591
524
1849
798
948
563
515
1668
742
952
426
422
1.634
592

763
212
218
862
300
385
214
204
772
292
378
114
115
148
140
234
60,6
62,2
15,9
53,4
66,5

Cộng
1.915
606
1308
0
1
9.150
4.710

4.440
3.837
1.977
1.860
751
40,06

7,4

15,9

28,2

7,5

16,3

19,1

155,37

65,2

124,79

204,56

116,55

666,47


Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 (Phòng thống kê huyện Hướng Hoá);

Kết quả ở bảng 2.2 cho thấy, tổng số hộ đói nghèo của 5 xã là 751 hộ
(chiếm 39,2 % tổng số hộ của 5 xã). Trong đó, xã có tổng số hộ đói nghèo
nhiều nhất trong 5 xã là xã Hướng Linh với tổng số hộ đói nghèo là 234 hộ,
chiếm 66,5% tổng số hộ của xã. Tổng diện tích đất tự nhiên của 5 xã là
66.647 ha. Trong đó, xã Hướng Việt có diện tích tự nhiên nhỏ nhất (6.520 ha),
xã Hướng Sơn có diện tích tự nhiên lớn nhất (20.456 ha). Dân cư các xã trong
vùng nghiên cứu có mật độ dân số là tương đối thấp (19,1 người/km2) trong


24

đó xã có mật độ phân bố dân cư thấp nhất là xã Hướng Lập với 7,4
người/km2, xã có mật độ dân số cao nhất là xã Hướng Phùng với 28,2
người/km2.
2.2.2. Giáo dục
Hầu hết các xã trong vùng nghiên cứu đều có trường trung học cơ sở và
trường tiểu học. Tuy nhiên các xã vẫn chưa có trường phổ thơng trung học,
công tác phổ cập học sinh trong độ tuổi đến trường vẫn chưa huy động hết,
đội ngũ giáo viên cịn thiếu, chất lượng dạy và học chưa cao. Trình độ văn
hố nói chung cịn thấp, đặc biệt là đối với cộng đồng người dân tộc Vân
Kiều. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện kinh tế của người dân trong vùng
vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng phục vụ cho cơng tác giảng dạy
cịn thiếu, điều kiện giao thơng đi lại khó khăn đặc biệt là vào mùa mưa.
2.2.3. Cơng nghiệp và dịch vụ
Tình hình phát triển các ngành cơng nghiệp, thương mại và dịch vụ
ngồi quốc doanh trong vùng nói chung cịn kém phát triển và số lượng cịn ít.
Cụ thể là, tổng số cơ sở cơng nghiệp ngồi quốc doanh trong vùng là 21 cơ

sở, tổng sổ cơ sở thương mại và dịch vụ ngoài quốc doanh là 51 cơ sở (Niên
giám thống kê năm 2004 huyện Hướng Hố).
2.2.4. Giao thơng và y tế
Mạng lưới giao thông trong vùng khá phát triển, các xã trong vùng đều
có đường ơ tơ đến tận trụ sở UBND. Tuy nhiên vào mùa mưa giao thông đi lại
giữa các xã trong vùng là rất khó khăn, ngoại trừ đường Hồ Chí minh nhánh
tây đi qua các xa Hướng Phùng, Hướng Việt và Hướng Lập. Mạng lưới y tế
đã có tới các xã, 100% các xã trong vùng đều có trạm y tế nhà cấp 4 trở lên,
nhưng nhìn chung cơng tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân còn nhiều hạn
chế, thuốc chữa bệnh còn thiếu, và đội ngũ cán bộ y tế chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân vẫn còn thiếu.


×