Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần công dân với đạo đức trong bộ môn giáo dục công dân lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.71 KB, 25 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Hiện nay, trong mơi trường học đường khơng ít học sinh có lối sống ích
kỷ, thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình; vơ tâm với các vấn đề diễn ra
xung quanh mình. Tình trạng bạo lực học đường ngày càng trở thành vấn đề
nhức nhối của gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài ra một số tệ nạn xã hội đã
xâm nhập, lan tỏa vào vào nhà trường như vi phạm pháp luật, quan hệ tình dục
trước hơn nhân, nghiện game, chìm đắm trong thế giới ảo của mạng enternet
như: Zalo, Facebook, Facebook Messengger, Periscoper, Mocha, Instagram,
WhatsApp, Snapchat, Twitter… Có rất nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng
trên nhưng nguyên nhân sâu xa nhất là do các em thiếu hụt một cách nghiêm
trọng kỹ năng sống. Vì thế cho nên, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là
một việc vô cùng cần thiết, đặc biệt là đối với học sinh Trung học phổ thông.
“Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỷ
XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống mà
thực chất là một cách tiếp cận kỹ năng sống” [1].
Ở lứa tuổi Trung học phổ thông (THPT), các em đã đạt được sự phát triển
nhất định về thể chất, nhân cách, trí tuệ, các năng lực sống…; vị thế xã hội của
các em đã có nhiều thay đổi nên xuất hiện những nhu cầu về hiểu biết xã hội và
các chuẩn mực quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội; khả
năng tự hiểu mình và tự khẳng định mình trong cuộc sống. Vì thế, các trường
THPT cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp các em hình thành và phát
triển khả năng làm chủ bản thân, đối phó với những sức ép của cuộc sống, sống
có trách nhiệm với bản thân. Nếu học sinh được rèn luyện kỹ năng sống vững
vàng sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống; có thái độ
tích cực trong cách ứng xử, trong giải quyết các vấn đề xung quanh.
Nghị quyết Số: 29-NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” được hội nghị
trung ương 8 (khóa XI) thơng qua đã và đang triển khai thực hiện. Mục tiêu tổng


quát của Nghị quyết đó là:
- Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục,
đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu
cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và
phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
1


- Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản
lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân
chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Mục tiêu cụ thể của Nghị quyết là: Đối với giáo dục phổ thông, tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện
và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối
sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Hồn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm
2015… Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ
giáo dục trung học phổ thơng và tương đương.
Bên cạnh đó, hiện nay cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang diễn ra tại
nhiều nước phát triển. Tại Việt Nam, một đất nước đang phát triển nên ở thời
điểm hiện tại mới chỉ có những tín hiệu bước đầu của ảnh hưởng của nền công
nghiệp 4.0: xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực tế, vạn vật kết nối
internet, robot thay thế con người… đang thách thức ý niệm của chúng ta về vai
trò thực sự của con người, trong đó có người thầy. Vai trị của người giáo viên

trong thế kỉ XXI trở nên phức tạp ở một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà
tri thức hầu như vô tận.
Bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT có vai trị rất quan trọng trong
mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện. Những kiến thức của bộ môn
Giáo dục công dân “nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thế
giới quan, nhân sinh quan, hệ thống các giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế
chính trị và những phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [2]. Giảng dạy
bộ mơn Giáo dục công dân không phải chỉ cần truyền thụ những kiến thức cơ
bản như trong sách giáo khoa mà còn cần phải hướng dẫn các em vận dụng nó
vào cuộc sống. Từ đó, giúp các em “có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào
việc giải thích và giải quyết những vấn đề gần gũi, có tính phổ biến trong đời
sống chính trị, kinh tế, xã hội cũng như khó khăn, vướng mắc của bản thân và
gia đình; biết lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp trong các tình huống của cuộc
sống; biết đánh giá đúng đắn các hành vi của bản thân và của những người
xung quanh; biết tự điều chỉnh hành vi của mình và đấu tranh với các hành vi
sai trái của người khác” [2].
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ mơn giáo dục cơng dân
trong việc giáo dục và hình thành nhân cách của thế hệ trẻ, trong thời gian qua
2


nhà trường đã tạo mọi cơ hội cho việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà
trường, bằng tình thương và trách nhiệm đã từng bước uốn nắn kịp thời để các
em hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, thực tế giảng dạy cho thấy bộ môn Giáo dục công dân thường
bị coi nhẹ trong nhà trường THPT, các em học với tinh thần “đối phó” là chủ
yếu. Hơn nữa, các phạm trù triết học, đạo đức, pháp luật mang tính khái quát,
trừu tượng cao. Nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên khơng có những
phương pháp tích cực thì khơng thể giáo dục cho các em được những kỹ năng

cần thiết trong cuộc sống. Với những suy nghĩ như trên, là một giáo viên giảng
dạy mơn Giáo dục cơng dân có bề dày hơn 10 năm công tác tại trường THPT
Nguyễn Quán Nho, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Giáo dục một số kỹ năng sống
thơng qua giảng dạy phần CƠNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC trong môn Giáo dục
Công dân 10” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi người
cần có những phẩm chất của cơng dân tồn cầu. Trong đó kỹ năng sống là một
năng lực không thể thiếu của người công dân trong thời đại mới. Giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh THPT là một vấn đề vô cùng cấp thiết, vì thế sáng kiến
kinh nghiệm của tơi đề xuất giáo dục một số kỹ năng sống cơ bản nhằm trang bị
cho các em những kỹ năng cần thiết để thích ứng với mọi thử thách của cuộc
sống, góp phần xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn.
- Đồng thời tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống với các
đồng nghiệp nói chung và đồng mơn nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả giảng
dạy môn Giáo dục công dân trong trường THPT hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Các kỹ năng sống cơ bản theo quan niệm của Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ
Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF).
- Các bài cụ thể trong phần “Công dân với đạo đức” - Giáo dục công dân
10.
- Thực trạng thực hiện kỹ năng sống của học sinh trường THPT Nguyễn
Quán Nho nói chung và của học sinh các lớp mà tơi trực tiếp giảng dạy: 12C1,
12C2, 12C3, 12C4; 11B5, 11B6; 10A1, 10A2, 10A4, 10A5, 10A6, 10A7 năm
học 2018 - 2019.

3



- Vận dụng một số kỹ thuật dạy học mới trong dạy học nhằm tích hợp kỹ
năng sống mà trọng tâm là ứng dụng vào giảng dạy nhằm giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận của sáng kiến kinh nghiệm là các nguyên tắc, phương
pháp luận của Triết học Mác - Lê-nin như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc
toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc thống nhất giữa cái trừu tượng
và cái cụ thể, sự kết hợp giữa cái phổ biến và cái đặc thù.
- Phương pháp cụ thể được sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm là các
phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa, trừu tượng hóa; điều
tra – quan sát, thực nghiệm sư phạm, tổng kết thực tiễn.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
* Về lí luận:
Phương pháp dạy học tích hợp giáo dục kỹ năng sống là một yếu tố giúp
các em có kỹ năng vững vàng trước khóa khăn, thử thách. Biết ứng xử giải
quyết những tinh huống khó khăn, thử thách khi gặp phải; biết ứng xử, giải
quyết vấn đề phức tạp cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn.
* Về thực tiễn:
Đề xuất việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm tăng
cường việc tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài trong chương trình
Giáo dục công dân lớp 10.

4


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường
THPT hiện nay.
2.1.1. Các quan niệm về kỹ năng sống.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi một quan

niệm cũng dựa trên những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên
cứu của sáng kiến này tơi xin trình bày 3 quan niệm về kỹ năng sống của 3 tổ
chức lớn trên thế giới sau đây:
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng rất
thiết thực mà con người cần để có một cuộc sống an tồn, lành mạnh. Theo đó,
có thể hiểu kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và
các kỹ năng về giao tiếp được vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày để giao
tiếp và tương tác với người khác.
- Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách
con người ta tiếp cận với các tình huống trong cuộc sống để thay đổi hoặc hình
thành những hành vi, thái độ mới phù hợp. Theo cách hiểu này thì kỹ năng sống
là sự cân bằng giữa việc tiếp thu kiến thức với việc hình thành thái độ và kỹ
năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), kỹ năng sống là toàn bộ những năng lực cá nhân được vận dụng để
thực hiện đầy đủ các chức năng của con người và tham gia vào cuộc sống hàng
ngày.
Như vậy, có thể thấy, dù các quan niệm về kỹ năng sống có khác nhau
nhưng đều có những điểm tương đồng. Khái quát lại, có thể hiểu kỹ năng sống
là cách thức nhằm giúp con người vận dụng kiến thức tiếp thu được vào trong
thực tế cuộc sống với thái độ và hành vi tích cực đem lại hiệu quả cao. “Kỹ
năng sống vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính chất xã hội. Kỹ năng
sống mang tính chất cá nhân vì đó là năng lực của cá nhân. Kỹ năng sống cịn
mang tính xã hội vì trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi
vùng miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có những kỹ năng sống thích hợp” [3].
2.1.2. Vai trị, tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với học sinh THPT trong
giai đoạn hiện nay.

5



“Cuộc đời một hành trình mà bằng cấp chun mơn giống như một bệ
phóng, cịn kỹ năng sống chính là động lực thúc đẩy con người vươn lên tầm
cao thành đạt” [4].
Trong quá trình hội nhập của đất nước ta, vấn đề giáo dục kỹ năng sống là
một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Nhất là trước tình trạng một bộ phận giới
trẻ hiện nay đang vi phạm một cách nghiêm trọng đạo đức, có lối sống bng
thả, coi trọng đồng tiền, coi trọng thế giới ảo, coi thường nhân cách của mình và
của người khác. Chính vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một phần không thể
thiếu của chương trình, mục tiêu giáo dục trong thời đại mới.
Đối với học sinh THPT – lứa tuổi thanh niên – là giai đoạn phát triển
phức tạp nhất. Bởi vì, giai đoạn này các em có nhiều biến đổi lớn về cả tâm lý
lẫn sinh lý. Nhà trường cần phải tạo cho các em những điều kiện vật chất – tinh
thần thuận lợi để các em có thể học tập và phát triển mạnh mẽ nhất. Ở lứa tuổi
này, các em tự coi mình đã là người lớn nhưng thực chất các em lại chưa phải là
người lớn. Có thể nói các em có một hình hài người lớn nhưng tâm lý đơi khi
vẫn cịn rất trẻ con. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho các em giai đoạn này có
ý nghĩa vơ cùng thiết thực, góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em và đặt
một nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo sau này.
2.2. Thực trạng dạy – học kỹ năng sống thông qua môn Giáo dục công dân
ở trường THPT Nguyễn Quán Nho hiện nay.
2.2.1. Thực trạng giảng dạy kỹ năng sống thông qua môn giáo dục công dân
ở trường THPT Nguyễn Quán Nho hiện nay.
Trong thời gian gần đây, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong
nhà trường đã trở thành vấn đề cần thiết. Từ năm học 2011-2012, Bộ giáo dục
đào tạo đã đưa nội dung giáo dục tích hợp kỹ năng sống vào các bộ mơn trong
chương trình giáo dục. Giáo dục kỹ năng sống cũng là một xu thế chung của
giáo dục Việt Nam nói riêng và các nền giáo dục trên thế giới nói chung. Thực
tế cho thấy, người có kỹ năng sống sẽ có lập trường kiên định, vững vàng; có
năng lực, phẩm chất tiến bộ, dễ dàng vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc

sống, tiếp nhận, xử lý các tình huống một cách tích cực, linh hoạt. Họ làm chủ
được bản thân và sống có trách nhiệm, có mục đích. Ngược lại người thiếu kỹ
năng sống thường bi quan, lập trường khơng vững vàng, khó làm chủ bản thân,
dễ vấp ngã, thất bại trong cuộc sống.
Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em đã đạt được sự phát triển nhất định về
thể chất và trí tuệ. Các em tiếp thu cái mới rất nhanh nhưng cũng dễ chủ quan,
6


nông nổi, ảo tưởng về sức mạnh của bản thân. Từ đó dẫn đến một số em vi phạm
nghiêm trọng các giá trị đạo đức của xã hội: vô lễ với thầy cô giáo, với người
lớn, coi thường bạn bè, ích kỷ, đề cao cái tôi cá nhân, thiếu ý thức bảo vệ mơi
trường… Có nhiều ngun nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó có một số
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
* Về phía xã hội:
Chính sách mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu đã đem lại chất lượng cuộc
sống tốt hơn. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ đó đã kèm theo mặt trái tiêu cực
ngồi xã hội, tác động không nhỏ đến suy nghĩ, hành động của học sinh cộng
với sự phối hợp chưa đồng bộ của một số ngành chức năng. Ta dễ dàng quan sát
thấy hàng loạt quán internet mọc khắp mọi nơi hoạt động khơng tn thủ theo
giờ giấc, thiếu sự kiểm sốt của các cơ quan chức năng, xuất hiện nhiều loại
sách, tranh ảnh mang nội dung khiêu dâm, đồi trụy, băng đĩa hình tràn ngập thị
trường với những nội dung tương tự bày bán cơng khai. Xuất hiện nhiều trị chơi
game online, đồ chơi trẻ em mang tính bạo lực và nhiều tệ nạn xã hội khác.
Những sân chơi lành mạnh cịn rất ít, sự phục hồi giá trị văn hóa truyền thống ở
nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức, cho thấy việc việc quản lí và xử lí
chưa nghiêm là vấn đề đáng lo ngại và báo động trong xã hội hiện nay.
* Về phía gia đình:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế theo đó là hàng loạt
những khó khăn và thách thức, nhiều bậc phụ huynh phải lao động kiếm tiền,

ngoài việc phục vụ cuộc sống gia đình, chăm sóc cho con cái học hành và nhiều
vấn đề phải lo lắng khác với thời kì bão giá như hiện nay. Nhưng có lẽ điều mà
các bậc phụ huynh trăn trở nhất là trẻ thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự lập, sống
ích kỷ, vơ tâm, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã họi làm cho khơng
ít các bậc phụ huynh phải phiền lòng.
Trước một xã hội ngày càng phát triển nhưng đầy phức tạp, một số phụ
huynh lại lo âu và vội vàng tách con mình ra khỏi mơi trường xung quanh, đưa
con mình vào mơi trường gị bó nhất định càng khiến cho việc tiếp xúc, trải
nghiệm cuộc sống chỉ là những thứ sẵn có khiến chúng khơng thể thích nghi với
những thay đổi và khi xảy ra những tình huống thật sự ngoài đời sẽ phản ứng
theo bản năng một cách tiêu cực.
Khi những việc đáng tiếc xảy ra, điều đầu tiên mà người ta nhắc tới là sự
giáo dục lỏng lẻo của nhà trường rồi mới tới trách nhiệm của gia đình. Nhưng
bài học đầu đời về học ăn, học nói, học cách đối nhân xử thế lại bắt nguồn từ
trong gia đình, từ cách cha mẹ cư xử với con cái, với những người xung quanh,
giá trị sống trong mỗi gia đình là kỹ năng sống đầu tiên của mỗi cá nhân trước
khi bước ra môi trường xã hội.
* Về phía bản thân học sinh:
Hiện nay vẫn còn một bộ phận học sinh ham chơi, đua đòi, chạy theo
những thói hư, tật xấu, điển hình thời gian gần đây dư luận xã hội lên án mạnh
7


mẽ những hành vi bạo lực trong học sinh, những hình ảnh và vụ việc vi phạm
pháp luật của một số học sinh đã thật sự gây tiếng chuông cảnh báo về sự xuống
cấp đạo đức của giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh, gây chấn động đến các các
ngành chức năng có liên quan phải quan tâm nhiều hơn nữa đến đạo đức, lối
sống của học sinh hiện nay.
Giáo dục Cơng dân là một mơn học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
giáo dục nhân cách học sinh. Giáo dục Cơng dân khơng chỉ có chức năng giáo

dục thế giới quan, phương pháp luận khoa học; giáo dục đường lối chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn cung cấp một hệ thống tri thức cơ bản
về giá trị đạo đức của dân tộc và nhân loại; giúp cho học sinh phát triển toàn
diện về trí tuệ, thể chất [5].
Bộ mơn Giáo dục cơng dân ở trường THPT Nguyễn Quán Nho do tôi và
thầy Trịnh Hữu Phúc giảng dạy. Hai chúng tơi ln tích cực dự giờ, trao đổi
chuyên môn sau các giờ lên lớp để kịp thời nắm bắt tâm tư, tình cảm và mức độ
nhận thức, vận dụng bài học của các em học sinh. Từ đó chúng tơi ln trau dồi
kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy để quá trình dạy học đạt kết quả tốt
nhất.
2.2.2. Thực trạng học tập và thực hiện kỹ năng sống của học sinh trường
THPT Nguyễn Quán Nho.
Trong hệ thống kiến thức Giáo dục Công dân Trung học phổ thơng thì
những nội dung về đạo đức là những nội dung tạo được hứng thú học tập nhất
cho học sinh. Nếu các nội dung về Triết học, Pháp luật, Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Kinh tế chính trị… có nhiều khái niệm, ngun lý, quy luật, lý thuyết…
mang tính hàn lâm, khái quát, trừu tượng nên rất khó để học sinh tiếp thu thì các
nội dung về đạo đức lại rất gần gũi, quen thuộc với học sinh. Các em vừa thích
thú, háo hức khi khám phá về bản thân, về các mối quan hệ xung quanh. Cũng
có lúc các em xấu hổ, ngượng ngịu vì nhận ra những suy nghĩ, hành động mà
mình cho là đúng thì đạo đức xã hội lại cho rằng chưa đúng, cần phải sữa chữa,
khắc phục [5].
Trường THPT Nguyễn Quán Nho đóng trên địa bàn xã Thiệu Quang,
xung quanh đều là các xã thuần nông cho nên học sinh ở đây đa số là con em
của gia đình nơng dân và lao động tự do. Ngày nay, việc trồng lúa và các cây
lương thực khác không đem lại lợi nhuận cao nên phụ huynh thường đi kiếm
việc làm ở các cơng ty hoặc ở các thành phố lớn. Vì mải mê kiếm tiền trang trải
cuộc sống, nhiều phụ huynh không có đủ thời gian để quan tâm đến con em
mình. Thậm chí, có phụ huynh đi làm ăn xa cả năm chỉ về có vài ngày tết; một
số phụ huynh làm công ty gần nhà nhưng hầu như ngày nào cũng tăng ca đến

đêm mới về, sáng ra lại đi làm từ rất sớm. Điều đó đã khiến cho việc giáo dục kỹ
năng sống cho các em từ phía gia đình hầu như khơng đạt được hiệu quả như
mong đợi.
8


Trường THPT Nguyễn Quán Nho đóng trên địa bàn xã Thiệu Quang.
Từ thực trạng giáo dục kỹ năng sống như trên, Ban giám hiệu trường
THPT Nguyễn Quán Nho và tập thể giáo viên nhà trường đã không ngừng suy
nghĩ, trăn trở để tìm ra các phương pháp giáo dục và thực hiện tốt việc giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh của mình.
Khảo sát thực trạng khi chưa tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy

STT

Lớp

Sĩ số

Vận dụng kỹ năng
sống vào thực tiễn

Không vận dụng
được kỹ năng sống
vào thực tiễn

Số lượng

Tỉ lệ (%)


Số lượng

Tỉ lệ (%)

1

12C1

38

18

47

20

53

2

12C2

35

15

43

20


57

3

12C3

45

20

44

25

56

4

12C4

46

20

43

26

57


5

11B5

41

16

39

25

61

9


6

11B6

41

15

37

26

63


7

10A1

43

13

30

30

70

8

10A2

39

14

36

25

64

9


10A4

42

12

29

30

71

10

10A5

40

10

25

30

75

11

10A6


38

12

32

26

68

12

10A7

39

12

31

27

69

2.3. Một số kỹ năng sống đã vận dụng để giáo dục cho học sinh trường
THPT Nguyễn Quán Nho.
2.3.1. Giáo dục kỹ năng học và tự học.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta, Đảng và Nhà nước
rất chú trọng đến yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài

nhằm chuẩn bị một thế hệ cơng dân có trí tuệ và tài năng, tạo nên sức mạnh của
dân tộc để đi vào thời đại khoa học – công nghệ, thông tin – điện tử, hội nhập và
tồn cầu hóa. Vì thế cho nên, học tập là việc vô cùng quan trọng và cần thiết đối
với mỗi con người, mỗi gia đình và đối với toàn xã hội. Ngày nay, hơn bao giờ
hết, học tập càng có ý nghĩa lớn lao khi thế giới đã và đang đổi thay nhanh
chóng. Có học tập thì chúng ta mới mở rộng tầm nhìn, mở mang kiến thức, mới
có tri thức để làm chủ cuộc đời mình và là cơng dân có ích của đất nước đang đi
vào kỷ ngun văn minh, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa [6].
Để đạt được hiệu quả cao trong học tập, các em học sinh cần phải rèn
luyện kỹ năng học và tự học, cần phải lên kế hoạch, đề ra mục tiêu cụ thể và
phương pháp để thực hiện mục tiêu ấy. Thông qua giảng dạy bài 16 “Tự hồn
thiện bản thân” – GDCD 10 – tơi đã tích hợp giáo dục cho các em kỹ năng học
và tự học theo các bước như sau:
- Xác định mục tiêu:
Để việc học đạt hiệu quả và kết quả cao nhất các em học sinh cần phải xác
định được mục tiêu rõ ràng. Việc xác định trước mục tiêu trong học tập sẽ giúp
các em có nhận thức đúng đắn về bản thân mình, có động lực để hồn thành mục
tiêu đã đề ra. Từ đó, các em xác định được cụ thể khối lượng kiến thức mà mình
cần tiếp thu trong thời gian nhất định. Ví dụ như, các em sẽ học cái gì, vào thời
gian nào, phương pháp ra sao…? Bên cạnh đó, các em cũng cần phải ln ln
kiểm tra q trình thực hiện mục tiêu mà mình đã đặt ra, cái gì đã đạt được, cái
gì chưa đạt được để có những phương pháp thực hiện thích hợp và có căn cứ xác
định những mục tiêu tiếp theo.
10


- Xác định phương pháp thực hiện:
Một trong các phương pháp học và tự học có hiệu quả là kỹ năng đọc và
ghi chép. Không phải là ghi chép bất cứ thứ gì mình đọc được mà phải biết chọn
lọc các nội dung, kiến thức cốt lõi, cần thiết phải ghi nhớ. Bên cạnh đó các em

cũng có thể lên mạng tìm kiếm các thơng tin mình cần hoặc cập nhật tin tức thời
sự hằng ngày về các vấn đề mà mình quan tâm. Trong quá trình thực hiện các
em cần đánh giá phương pháp mà mình đang thực hiện đã phù hợp hay chưa để
từ đó bổ sung, hồn thiện kỹ năng học và tự học của mình.

Hoạt động thảo luận nhóm của học sinh lớp 10A7
trường THPT Nguyễn Quán Nho.
- Rèn luyện tính tự giác và tính kỷ luật: Quá trình học tập chỉ đạt kết
quả cao khi các em tự giác thực hiện nhiệm vụ của mình. Đừng để bố mẹ, thầy
cô phải nhắc nhở, yêu cầu hoặc khi bị nhắc nhở, phê bình rồi mới thực hiện.
Cũng không nên vừa học vừa làm việc riêng, bởi vì như thế sẽ khơng tập trung
tồn bộ tâm trí vào việc học được. Điều đó vừa làm cho việc học khơng mang lại
hiệu quả cao mà cịn làm cho các em khơng có ý thức kỷ luật trong việc học và
trong cuộc sống.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống.
Con người ai cũng sống và làm việc trong những cộng đồng nhất định. Vì
thế cho nên mỗi người cần rèn luyện cho mình kỹ năng thích ứng và hịa nhập
với cộng đồng. Thơng qua giảng dạy bài 13 “Công dân với cộng đồng” –
GDCD 10 – tơi đã tích hợp giáo dục cho học sinh kỹ năng thích ứng và hịa
nhập với cuộc sống. Khơng phải ai cũng dễ dàng thích nghi với mơi trường mới,
cuộc sống mới. Thậm chí có những người dù đã học tập, công tác khá lâu trong
cộng đồng vẫn khó hịa nhập được với những người xung quanh. Vì vậy, ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường, các em học sinh cần rèn luyện cho mình kỹ
năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, trước hết là để thích ứng, hịa nhập
11


với lớp học, trường học, sau đó là dễ dàng thích ứng, hịa nhập với mơi trường
sống sau này. Các em cần rèn luyện kỹ năng thích ứng và hịa nhập với cuộc
sống theo các bước sau đây:

- Xây dựng kỹ năng lắng nghe tích cực:
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng thích ứng và hịa
nhập với cuộc sống. Người biết lắng nghe tích cực là người biết lắng nghe ý
kiến của người khác, biết cho ý kiến phản hồi cùng với sự kết hợp những dấu
hiệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ…) để cho người nói và
mọi người xung quanh biết được mình thực sự chú ý đến vấn đề mà người nói
đang trình bày. Trong cuộc sống cộng đồng, để có thể thích ứng và hịa nhập thì
mỗi con người trước hết cần xây dựng cho mình kỹ năng lắng nghe tích cực. Từ
đó có thể giao tiếp với cộng đồng một cách có hiệu quả nhất.
- Xây dựng kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định:
“Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình
huống, những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn đưa ra quyết
định hành động” [1]. Giáo dục của Việt Nam ta còn ảnh hưởng nhiều của
phương pháp giáo dục truyền thống, người học thường thụ động, chờ đợi sự
giúp đỡ của người khác nên dẫn đến trong cuộc sống thường hay thiếu tự tin,
thiếu quyết đốn khi các trường hợp khó khăn xảy ra. Vì thế, để đạt hiệu quả cao
trong học tập, các em học sinh cần vận dụng kỹ năng giải quyết vấn đề và ra
quyết định trong các hoạt động học tập của mình.

12


Một buổi lao động bảo vệ môi trường, cảnh quan trường học của học sinh lớp
10A5 trường THPT Nguyễn Quán Nho thể hiện kỹ năng thích ứng và hịa nhập
với cuộc sống.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng xác định giá trị của bản thân.
Mỗi người đều có những điểm mạnh, đểm yếu riêng. Vì thế trong cuộc
sống con người cần tự nhận thức đúng về bản thân. Từ đó xác định được giá trị
của mình để lựa chọn mơi trường sống, cách xử sự trong giao tiếp cho phù hợp
giúp phát huy được các giá trị tốt đẹp của bản thân mình.

Giá trị của bản thân hay giá trị của con người là những điều quan trọng,
có ý nghĩa định hướng cho mọi hoạt động, suy nghĩ trong cuộc sống của họ. Các
giá trị cơ bản của bản thân như: lương tâm, danh dự, nhân phẩm, hạnh phúc, tình
yêu… là những nội dung các bài học của phần “Công dân với đạo đức” trong
bộ môn Giáo dục công dân lớp 10. Thơng qua giảng dạy kiến thức các bài đó,
tơi đã lồng ghép giáo dục kỹ năng sống xác định giá trị bản thân cho các em học
sinh. Dưới đây là một số phương pháp rèn luyện mà tôi đã hướng dẫn cho các
em:

13


Giáo dục kỹ năng “xác định giá trị của bản thân” cho học sinh lớp 10A7 –
Trường THPT Nguyễn Quán Nho.
- Tự nhận thức về bản thân:
Tự nhận thức về bản thân là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người.
Có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa
chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân; mới giao tiếp, ứng xử phù
hợp với người khác. Đánh giá quá cao hoặc quá thấp về bản thân đều có thể dẫn
con người đến những sai lầm, thất bại trong cuộc sống. Tự nhận thức đúng về
bản thân không phải là điều dễ dàng, mà cần phải qua rèn luyện [7].
Giá trị của bản thân là do chính mình xác định chứ khơng phải do người
khác đánh giá. Vì thế các em cần tự tin, mạnh dạn tự nhận thức đúng về bản
thân mình, từ đó xác định được niềm tin, suy nghĩ của bản thân để biến thành
thái độ trong cuộc sống.

Màn “Chào hỏi” của Chi đoàn 12C4 trong Hội thi “Khi tôi 18” của trường
THPT Nguyễn Quán Nho thể hiện kỹ năng tự nhận thức về bản thân.
14



- Xây dựng ý thức thành thật với chính bản thân mình:
Để có thể xác định được giá trị của bản thân thì ý thức thành thật với
chính bản thân mình là một u cầu vơ cùng quan trọng. Nếu khơng thành thật
với bản thân mình thì khơng bao giờ các em có thể xác định được giá trị của bản
thân. Ở lứa tuổi THPT các em đang thích tìm tịi, khám phá thế giới xung quanh,
vậy thì hãy bắt đầu trước hết ở việc khám phá bản thân mình một cách thành
thật. Có những điểm các em hài lịng, có những điểm các em chưa hài lịng
nhưng đừng vội mặc cảm, tự ti. Điều quan trọng là các em học tập, rèn luyện
như thế nào để khắc phục những điều mình chưa hài lịng ở bản thân.
- Tự hồn thiện bản thân:
Mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng, chẳng có ai hồn
thiện, hồn mĩ. Mặt khác, xã hội không ngừng phát triển, luôn đề ra những yêu
cầu mới, cao hơn đối với mỗi thành viên. Vì vậy, ai cũng cần tự hồn thiện bản
thân mình để phát triển và đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Người khơng
biết tự hồn thiện bản thân sẽ dần trở nên lạc hậu và tự đào thải mình [7].
Ngồi việc xác định giá trị của bản thân các em cũng cần xây dựng giá trị
của chính bản thân mình. Cần phải khơng ngừng rèn luyện để các giá trị đó ln
tồn tại và phát triển ở các môi trường khác nhau, các giai đoạn phát triển khác
nhau của bản thân.
Dưới đây tơi xin trình bày một giáo án minh họa cho việc tích hợp giáo
dục kỹ năng sống xác định giá trị của bản thân thông qua việc tự nhận thức về
bản thân và tự hoàn thiện bản thân của học sinh trong bài 16 “Tự hoàn thiện bản
thân” – GDCD 10.

BÀI 16: TỰ HOÀN THIỆN BẢN THÂN
I- Mục tiêu bài học: Học sinh cần đạt được:
* Về kiến thức:
- Hiểu thế nào là tự hoàn thiện bản thân;
- Hiểu sự cần thiết phải tự hoàn thiện bản thân theo các giá trị đạo đức xã hội.

* Về kỹ năng:
- Biết tự nhận thức bản thân trên cơ sở đối chiếu với các yêu cầu đạo đức xã hội;
- Biết đặt mục tiêu phấn đấu, rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân theo các giá trị
đạo đức xã hội và có quyết tâm vượt khó khăn để thực hiện mục tiêu đã đề ra.
* Về thái độ:
- Coi trọng việc tu dưỡng và tự hoàn thiện bản thân
- Tự trọng, tự tin vào khả năng phát triển của bản thân; đồng thời biết tôn trọng,
thừa nhận và học hỏi những điểm tốt của người khác.
II- Các năng lực hướng tới phát triển ở học sinh.
15


- Năng lực tự học, năng lực xác định giá trị của bản thân, năng lực đặt mục tiêu
hoàn thiện bản thân, năng lực lập kế hoạch hoàn thiện bản thân, năng lực từ chối
trong tình huống có nguy cơ ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh của bản
thân...
III -Phương pháp và kĩ thuật dạy học dạy học tích cực sử dụng trong bài.
- Thảo luận nhóm, thảo luận lớp.
- Xử lý tình huống.
- Đọc hợp tác.
IV- Phương tiện dạy học.
- SGK, SGV, tài liệu Câu hỏi và BT GDCD 10; phiếu học tập.
- Tranh ảnh, thông tin liên quan đến nội dung bài học.
- Máy chiếu.
V- Tổ chức dạy học
Hoạt động của giáo viên và học sinh
1. Khởi động
*Mục tiêu:
+Kích thích học sinh tự tìm hiểu về tự hoàn thiện
bản thân.

+Rèn luyện năng lực học và tự học, năng lực tự
hoàn thiện bản thân
* Cách tiến hành:
- GV cho hs xem hình ảnh sau:

Nội dung bài học

GV: Đây là 1 tấm gương tiêu biểu của tỉnh ta về
tự hồn thiện bản thân. Đó là Lê Hữu Hiếu là học
sinh khuyết tật có hồn cảnh gia đình rất nghèo
16


đạt 30/30 điểm trong kì thi tốt nghiệp THPT Quốc
gia 2017, thủ khoa trường ĐH Y thành phố HCM.
GV đặt câu hỏi: Để đạt được kết quả đó, bạn học
sinh trên đã phải rèn luyện như thế nào?
Lớp thảo luận, trả lời và bổ sung:
GV: Con người ai cũng muốn sống có ích cho bản
thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, để làm được
như vậy, mỗi người cần phải tự hồn thiện bản
thân.
Muốn tự hồn thiện bản thân thì phải tự nhận
thức đúng về bản thân.
Vậy thế nào là tự nhận thức về bản thân? Tự
hoàn thiện bản thân? Tự hồn thiện bản thân như
thế nào? Bài học hơm nay sẽ làm rõ những vấn đề
trên.
2. Hoạt động hình thành kiến thức.
* Hoạt động 1: Thảo luận tìm hiểu tự nhận

thức về bản thân.
* Mục tiêu:
+ Hiểu được thế nào là tự nhận thức về bản thân
+ Rèn luyện năng lực tự nhận thức, năng lực xác
định giá trị của bản thân.
* Cách tiến hành:
+ GV yêu cầu học sinh xem lại các phiếu tự nhận
thức về bản thân mà các em đã điền ở nhà.
+ Cho học sinh chia sẻ kết quả tự nhận thức về
mình với các bạn theo bàn.
Câu hỏi:
1. Những điểm nào em thấy hài lịng và chưa hài
lịng về bản thân?
2. Em thấy mình có những điểm nào giống, những
điểm nào khác với các bạn trong nhóm?
3. Để phát triển tốt hơn mỗi người cần phải làm
gì?
4. Thế nào là tự nhận thức về bản thân? Tự nhận
thức về bản thân có ý nghĩa gì?
+ Học sinh trình bày quan điểm cá nhân.
+ Cả lớp trao đổi.
-GV Kết luận:

1. Tự nhận thức về bản
thân.
- Tự nhận thức về bản
thân là biết nhìn nhận,
đánh giá về khả năng,
hành vi, việc làm, những
điểm mạnh, điểm yếu...

của bản thân.
- Tự nhận thức về bản
thân giúp người ta hiểu
đúng về mình, từ đó có
các quyết định, hành
* Hoạt động 2: Đọc hợp tác SGK và tìm hiểu về động, cách xử sự phù hợp
trong các mối quan hệ.
tự hồn thiện bản thân.
đạt được mục đích trong
* Mục tiêu:
+ Học sinh hiểu được thế nào là tự hoàn thiện bản cuộc sống.
2. Tự hoàn thiện bản
thân?
17


+ Rèn luyện năng lực từ chối tình huống có nguy
cơ ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của bản
thân, năng lực tự hoàn thiện bản thân.
* Cách tiến hành:
- GV yêu cầu HS nghiên cứu SGK, liên hệ thực
tiễn, nêu câu hỏi đàm thoại.
1.Thế nào là tự hoàn thiện bản thân? Cho ví dụ?
+ 2 đến 3 học sinh phát biểu.
+ Lớp bổ sung.
- GV nhận xét và kết luận:
* Hoạt động 3: Vấn đáp tìm hiểu vì sao phải tự
hoàn thiện bản thân?
* Mục tiêu:
+ HS hiểu sự cần thiết phải hoàn thiện bản thân.

+Rèn luyện kỹ năng đặt mục tiêu hoàn thiện bản
thân, kỹ năng xác định giá trị của bản thân.
* Cách tiến hành:
+ gọi 2 đến 3 học sinh trả lời
+ Lớp nhận xét.
- GV nhận xét và kết luận.

thân.
a) Thế nào là tự hoàn
thiện bản thân.
- Tự hoàn thiện bản thân
là vượt lên mọi khó khăn,
trở ngại, khơng ngừng
lao động, học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, phát
huy ưu điểm, khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm,
học hỏi những điểm hay,
điểm tốt của người khác
để bản thân ngày một tốt
hơn, tiến bộ hơn.
b) Vì sao phải hồn
thiện bản thân.
- Xã hội ngày một phát
triển, do vậy mỗi cá nhân
phải tự hoàn thiện để đáp
ứng yêu cầu của xã hội.
- Tự hoàn thiện bản thân
là một phẩm chất quan
trọng của thanh thiếu

niên, giúp cho cá nhân,
* Hoạt động 4: Động não tìm hiểu làm thế nào gia đình và cộng đồng xã
để tự hoàn thiện bản thân? Học sinh phải làm hội ngày càng tiến bộ
gì để tự hồn thiện bản thân?
hơn.
* Mục tiêu:
+ Học sinh hiểu: khơng ai là hoàn hảo cả, tự hoàn 3. Tự hoàn thiện bản
thiện bản thân giúp cá nhân, gia đình, xã hội phát thân như thế nào?
triển tốt hơn.
- Mỗi người đều có
+ Rèn luyện năng lực nhận thức, năng lực lập kế quyền phấn đấu, tu
hoạch hoàn thiện bản thân.
dưỡng, rèn luyện để tự
* Cách tiến hành:
hoàn thiện bản thân theo
+ GV nêu câu hỏi động não: Theo em làm thế nào các yêu cầu đạo đức xã
để tự hoàn thiện bản thân? Học sinh phải làm gì hội.
để tự hồn thiện bản thân?
- Có quyền được nhận sự
+ 2 đến 3 học sinh trả lời.
hỗ trợ, giúp đỡ của gia
+ Lớp nhận xét và bổ sung.
đình, bản bè, xã hội…để
- GV kết luận:
thực hiện mục tiêu tự
hoàn thiện bản thân.
* HS cần:
- Tự nhận thức đúng về
bản thân những điểm tốt,
điểm cưa tốt so với chuẩn

18


mực đạo đức xã hội.
- Có kế hoạch phấn đấu
và rèn luyện cụ thể theo
từng mốc thời gian.
- Xác định rõ biện pháp
cần thực hiện.
- Xác định rõ những điểm
3.Hoạt động luyện tập.
thuận lợi, những điểm
*Mục tiêu:
khó khăn có thể xảy ra.
- Giúp học sinh củng cố những gì đã biết về tự - Biết tìm sự giúp đỡ ở
nhận thức bản thân, tự hoàn thiện bản thân và tự những người tin cậy.
hoàn thiện bản thân như thế nào?
- Rèn luyện các năng lực tự nhận thức, tư duy phê
phán, tự chịu trách nhiệm, đánh giá và điều chỉnh
hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp
luật.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân
bài tập 1 và 4 SGK trang 114, 115.
- Học sinh làm bài tập.
- Gọi 2 đến 4 học sinh trả lời.
- Lớp bổ sung.
* Giáo viên chính xác hóa đáp án:
Bài tập 1:
-Tự hồn thiện bản thân là vượt lên mọi khó khăn,

trở ngại, khơng ngừng lao động, học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, phát huy ưu điểm, khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm, học hỏi những điểm hay,
điểm tốt của người khác để bản thân ngày một tốt
hơn, tiến bộ hơn.
- Phải tự hoàn thiện bản thân vì: mỗi người đều có
điểm mạnh và hạn chế riêng, khơng có ai hồn
thiện cả. Mặt khác, xã hội khơng ngừng phát triển,
luôn đề ra những yêu cầu mới, cao hơn. Vì vậy ai
cũng cần hồn thiện để phát triển, đáp ứng được
những đòi hỏi của xã hội.
Bài tập 3:
Sản phẩm của học sinh.
4. Hoạt động vận dụng.
* Mục tiêu:
- Tạo cơ hội cho HS vận dụng kiến thức và kỹ năng đã học để vận dụng vào
thực tế cuộc sống.
- Rèn luyện các năng lực tự nhận thức, tư duy phê phán, tự chịu trách nhiệm,
đánh giá và điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
19


* Cách tiến hành:
1. Giáo viên nêu yêu cầu:
a. Tự liên hệ:
- Hằng ngày thực hiện và kiểm tra những tiêu chí đã làm được và chưa làm được
theo kế hoạch đã lập ra.
- Hãy nêu cách khắc phục những hành vi, việc làm chưa tốt.
b. Nhận diện xung quanh: Hãy nêu nhận xét của em về việc thực hiện bản kế
hoạch phấn đấu, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân của các bạn trong lớp em

và một số người khác mà em biết.
c. Giáo viên định hướng học sinh:
- Học sinh tôn trọng và thực hiện đúng bản kế hoạch của mình.
- Học sinh làm tiếp các bài tập trong SGK trang 114,115.
- Học sinh chủ động thực hiện các yêu cầu trên.
5. Hoạt động mở rộng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm những tấm gương hoặc câu chuyện có
nội dung về rèn luyện kỹ năng sống, về tự rèn luyện bản thân và xác định giá trị
của bản thân.
Sau khi thực hiện giảng dạy bài học cụ thể theo hướng nghiên cứu như
trên, bản thân tôi đã nhận thấy những bước chuyển biến tích cực trong cơng tác
chun mơn của mình, mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp trong nhóm chun
mơn, cùng nhau tiếp tục xây dựng những bài giảng cụ thể đạt hiệu quả hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Về trường THPT Nguyễn Quán Nho nhận công tác giảng dạy bộ môn
Giáo dục công dân từ năm 2007, nhận được sự tín nhiệm của nhà trường năm
nào tôi cũng được phân công chủ nhiệm. Trong q trình cơng tác tơi ln mạnh
dạn tích hợp vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các lớp tôi giảng dạy và
học sinh lớp tôi chủ nhiệm. Tôi luôn hướng dẫn các em vận dụng những kiến
thức tiếp thu được ở nhà trường vào trong thực tiễn cuộc sống; tôi luôn gần gũi,
tâm sự, giúp đỡ các em giải quyết những khó khăn, vướng mắc về những vấn đề
trong học tập và trong thực tiễn.

20


Trong q trình cơng tác tơi ln mạnh dạn tích hợp vấn đề giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh các lớp tôi giảng dạy và học sinh lớp tôi chủ nhiệm.
Sau hơn 10 năm công tác, từ lúc mới ra trường cịn manh nha, lúng túng
đi tìm giải pháp, phương pháp phù hợp. Dần dần việc giáo dục kỹ năng sống đã

trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi bài dạy, trong mỗi hoạt động giáo
dục của tôi đối với học sinh. Và tín hiệu rất đáng mừng là trong thời gian qua
tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống đã giảm đáng kể. Có những em khi mới
bước chân vào lớp 10 còn thường xuyên vi phạm nội quy của lớp, của trường
nay đã tiến bộ trở thành học sinh tiên tiến có ý thức phẩm chất đạo đức trong
sáng, lành mạnh.

Dưới đây là những con số chứng minh cho hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
mà tơi đã áp dụng:
Thực trạng sau khi tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy

STT

Lớp

Sĩ số

Vận dụng kỹ năng
sống vào thực tiễn

Không vận dụng
được kỹ năng sống
vào thực tiễn

Số lượng

Tỉ lệ (%)

Số lượng


Tỉ lệ (%)

1

12C1

38

36

95

2

5

2

12C2

35

33

94

2

6


3

12C3

45

44

98

1

2

4

12C4

46

44

96

2

4

5


11B5

41

37

90

2

10

6

11B6

41

39

95

2

5
21


7


10A1

43

40

93

3

7

8

10A2

39

35

90

4

10

9

10A4


42

39

93

3

7

10

10A5

40

35

88

5

12

11

10A6

38


34

89

4

11

12

10A7

39

37

95

2

5

Bảng tổng hợp về hạnh kiểm của học sinh các lớp 10 mà tôi giảng dạy năm
học 2018 – 2019
(Đơn vị %)
Hạnh kiểm học kỳ I
Lớp

Hạnh kiểm học kỳ II


Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Tốt

Kh
á

Trung bình

Yếu

10A1

87

5

6

2

96

3


1

0

10A2

86

4

8

2

95

2

3

0

10A4

88

5

5


2

95

5

0

0

10A5

65

25

8

2

90

7

3

0

10A6


65

25

8

2

92

5

3

0

10A7

65

25

8

2

93

4


3

0

22


Hai em: Đỗ Minh Quân và Lê Thị Thu (học sinh lớp 10A7)
là hai tấm gương tiêu biểu về rèn luyện kỹ năng sống của học sinh
trường THPT Nguyễn Quán Nho.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Trong thời đại ngày nay, con người đứng trước nhiều vấn đề phải giải
quyết, trong các vấn đề đó – dù lớn hay nhỏ thì cũng cần phải có kỹ năng thích
hợp. Trên thực tế, có nhiều em học sinh học rất giỏi nhưng khi bước vào cuộc
sống lại khó có khả năng thích nghi, hòa nhập với cuộc sống cộng đồng. Đặc
biệt là trong thời gian gần đây dư luận xã hội lên án mạnh mẽ về hành vi bạo lực
trong học sinh, người ta không khỏi ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh hờ hững của
những người xung quanh đứng nhìn. Câu chuyện về về giáo dục đạo đức lối
sống cho học sinh cho tới nay không phải là vấn đề mới đưa vào. Tuy nhiên việc
thiếu ý thức và cách hành xử của một bộ phận học sinh nêu trên phải làm cho
những ngành giáo dục phải có cách nhìn nhận mới hơn trong một xã hội đầy
năng động nhưng không kém phần phức tạp như hiện nay. Điều đó sẽ đặt ra
trách nhiệm nặng nề hơn cho những người làm công tác giáo dục mà người thầy
là con thuyền định hướng cho cả một thế hệ trong tương lai.
Đã đến lúc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cần phải được quan tâm
nhiều hơn, thực hiện thường xuyên hơn. Mỗi giáo viên cần phải xây dựng được
mục tiêu xuyên suốt trong q trình giảng dạy, đó là cung cấp kiến thức, rèn

23


luyện kỹ năng, hình thành thái độ để đáp ứng mục tiêu giáo dục là: đào tạo con
người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có nhiều phương pháp tích cực trong giảng dạy, kỹ năng sống cũng là
một phương pháp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập. Tuy
nhiên việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào bộ mơn giáo dục công dân không
phải là để giải quyết tất cả những tồn tại nêu trên, tuy nhiên sự chủ động tích
hợp vào bộ mơn này sẽ phần nào hạn chế tính tiêu cực, cùng với giáo dục tồn
diện trong nhà trường sẽ giúp cho học sinh có những kỹ năng sống vững vàng
khi bước vào đời.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với gia đình và xã hội.
Gia đình cần quan tâm hơn đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Gia đình và xã hội cần phải kết hợp chặt chẽ với nhà trường trong hoạt động
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để đạt được hiệu quả tốt nhất.
3.2.2. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Trên
cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai mục
tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chun
ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ
sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào
tạo.
- Giáo dục kỹ năng sống phải được bố trí thành một môn học riêng hoặc
hoạt động riêng trong hệ thống giáo dục. Bởi vì, tích hợp giáo dục kỹ năng sống

trong các mơn học và hoạt động giáo dục khác ít nhiều vẫn cịn hạn chế khơng
phát huy được hết tác dụng của việc rèn luyện kỹ năng cho các em.
3.2.3. Đối với các trường Trung học phổ thông.
- Đầu tư về cơ sở, trang thiết bị dạy học hiệu quả để giáo viên có thể giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh đạt kết quả tốt nhất.
- Ủng hộ và thực hiện nghiêm túc nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường kết nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh.
Xác nhận của Hiệu trưởng

Thanh Hóa, ngày 01 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
24


viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Lê Thị Phượng

25


×