Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích hoạt động công nhận lẫn nhau (MRA) trong thương mại dịch vụ của ASEAN và đánh giá vai trò của MRA đối với hoạt động tự do hóa thương mại dịch vụ trong ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.11 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay trong cơ cấu kinh tế thế giới nói chung cũng như cơ cấu kinh tế của
ASEAN nói riêng, ngành dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu và là yếu tố
đống góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Nhận thức được vai trò của
thương mại dịch vụ đối với sự phát triển kinh tế, các quốc gia thành viên ASEAN
đã tiến hành các hoạt động nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại dịch vụ như việc
hạn chế, xóa bỏ các rào cản thương mại dịch vụ và hoạt động công nhận lẫn nhau.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, em xin chọn đề tài: “Phân tích hoạt động
cơng nhận lẫn nhau (MRA) trong thương mại dịch vụ của ASEAN và đánh giá
vai trò của MRA đối với hoạt động tự do hóa thương mại dịch vụ trong
ASEAN” để nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn về hoạt động công nhận lẫn nhau trong
thương mại dịch vụ của ASEAN.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung
Thỏa ước công nhận lẫn nhau (MRA) trong ngành dịch vụ, một ngành khá
phát triển gần đây trong ASEAN, cho phép chứng chỉ của các nhà cung cấp dịch vụ
được cấp bởi các cơ quan chức năng tương ứng tại quốc gia của mình sẽ được thừa
nhận bởi các nước thành viên khác trong khu vực. Việc này sẽ tạo động lực cho các
nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN hoạt động theo đúng những
nguyên tắc và quy định tương ứng trong nước.
Thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRA) tạo điều kiện cho thương mại dịch
vụ thông qua việc thừa nhận lẫn nhau về sự cho phép, cấp phép, hoặc chứng nhận
trình độ của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp có được ở một nước bởi một
quốc gia khác tham gia MRA. MRA thúc đẩy sự lưu thơng của các chun gia
nước ngồi bằng cách giảm các thủ tục phức tạp trong việc xin giấy phép để cung
cấp dịch vụ ở nước khác.
Nhằm đảm bảo sự tự do của thương mại dịch vụ trong khu vực, các nhà lãnh
đạo ASEAN đã tiến hành ký kết Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) vào
ngày 15/12/1995. AFAS đã trở thành cơ sở pháp lý nền tảng cho việc thực hiện tự
do hóa thương mại dịch vụ của ASEAN trong đó có quy định về cơng nhận lẫn
nhau giữa các quốc gia thành viên ASEAN.


Điều 5 Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ quy định: “Mỗi quốc gia thành
viên có thể cơng nhận trình độ giáo dục hoặc kinh nghiệm nhận được, các yêu cầu
đã được thỏa mãn, hoặc các giấy chứng nhận hoặc giấy phép đã được cấp tại một
quốc gia thành viên khác, để sử dụng cho mục đích cấp giấy phép hoặc giấy chứng
1


nhận nhà cung cấp dịch vụ… trên cơ sở một hiến định hoặc thỏa thuận với quốc
gia thành viên có liên quan hoặc có thể đơn phương cơng nhận”.
II. Hoạt động công nhận lẫn nhau (MRA) trong thương mại dịch vụ của
ASEAN
1. Cơ sở pháp lý của cơ chế thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong thương
mại dịch vụ của ASEAN
Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ (Hiệp định AFAS) là tiền đề pháp lý
cho sự phát triển của các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong khu vực ASEAN. Từ
cơ sở đó, các thành viên ASEAN tiến hành đàm phán và xây dựng các MRA trong
từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể.
Các thoả thuận công nhận lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN về tiêu
chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp… là một cơng cụ quan trọng góp phần giúp
tự do lưu chuyển các dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. MRA cho phép chứng
chỉ của các nhà cung cấp dịch vụ được cấp bởi cơ quan chức năng tương ứng tại
quốc gia của mình được thừa nhận bởi các thành viên khác trong khu vực. Cho đến
nay, các nước ASEAN đã ký thoả thuận công nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn,
kỹ năng các ngành dịch vụ kỹ thuật, y khoa, kiến trúc, kế toán và du lịch, cụ thể
như sau: (1) thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ kỹ thuật,
Kuala Lumpur, Malaysia, 09/12/2005; (2) thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn
nhau đối với dịch vụ điều dưỡng, Cebu, Philippines, 08/12/2006; (3) thỏa thuận
khung ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với Dịch vụ Kiểm định, Singapore,
19/11/2007; (4) thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ Kiến
trúc, Singapore, 19/11/2007; (5) thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với

dịch vụ nha khoa, Cha-am, Thái Lan, 26/02/2009; (6) thỏa thuận ASEAN về Công
nhận lẫn nhau đối với dịch vụ y khoa, Cha-am, Thái Lan, 26/02/2009; (7) thỏa
thuận khung ASEAN về Công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ kế tốn, Cha-am,Thái
Lan, 26/02/2009; (8) thỏa thuận ASEAN về cơng nhận lẫn nhau đối với nghề du
lịch, Bangkok, Thái Lan, 09/11/2012.
2. Đặc trưng của cơ chế thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong trong
thương mại dịch vụ của ASEAN
– Có cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ
nhà và nước của thể nhân cung cấp dịch vụ, được giám sát và bảo đảm bởi một cơ
quan khu vực.
Một trong những nhân tố quyết định thành cơng trong việc triển khai các
MRA chính là việc thành lập (hoặc chỉ định) các cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm
2


tại các nước ký kết và chịu sự giám sát bởi một cơ quan khu vực. Ví dụ đối với
MRA về dịch vụ kiến trúc, 3 cơ quan đóng vai trò quan trọng là Cơ quan Quản lý
nghề nghiệp (Professional Regulatory Authority), Ủy ban giám sát (Monitoring
Committee) và Hội đồng Kiến trúc sư ASEAN (ASEAN Architect Council). Các
cơ quan này có chức năng nhiệm vụ được quy định cụ thể tại Điều 4 MRA nêu
trên, có thể tóm tắt như sau: Cơ quan Quản lý nghề nghiệp phụ trách xem xét các
hồ sơ và cho phép các ứng viên đã được công nhận là kiến trúc sư ASEAN (bởi
AAC) được hành nghề tại nước mình với tư cách độc lập hoặc hợp tác với các kiến
trúc sư trong nước, Ủy ban giám sát phụ trách phát triển, tiến hành và duy trì Hệ
thống đăng ký quốc gia kiến trúc sư ASEAN của nước xuất xứ, Hội đồng Kiến trúc
sư ASEAN có thẩm quyền trao hoặc tước bỏ chức danh kiến trúc sư ASEAN của
một ứng viên cụ thể có nguyện vọng làm việc ở nước ngoài, thực hiện các biện
pháp cần thiết để thúc đẩy việc các thành viên ASEAN cho phép Kiến trúc sư
ASEAN hành nghề tại nước mình…
– Thống nhất các tiêu chuẩn về trình độ chun mơn nghề nghiệp cụ thể.

Mục tiêu của việc ký kết các MRA là nhằm thiết lập cơ chế để cơng nhận
trình độ, bằng cấp, chứng chỉ… của người lao động từ các nước ký kết. Một trong
những nguyên nhân gây khó khăn cho việc dịch chuyển lao động chính là sự khác
biệt lớn giữa các quốc gia liên quan đến hệ thống giáo dục, đào tạo, rèn luyện kỹ
năng, thực hành nghề nghiệp… Do đó, việc quy định các tiêu chuẩn thống nhất
trong một liên kết kinh tế khu vực hướng đến một thị trường chung là cực kỳ cần
thiết. Cụ thể, trong khu vực ASEAN, các MRA về dịch vụ kiến trúc, kỹ thuật cũng
như du lịch đã có bước tiến rất lớn khi quy định các điều kiện của một Kiến trúc sư
ASEAN (ASEAN Architect), một kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ASEAN
Chartered Professional Engineer) hay một Bếp trưởng ASEAN…
– Có cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên có liên quan.
Đa số các MRA đều có ít nhất một điều khoản quy định về cơ chế giải quyết
tranh chấp giữa các thành viên. Ví dụ, Điều 7 MRA về dịch vụ kỹ thuật, Điều 7
MRA về dịch vụ kiến trúc, Điều 6 MRA về Dịch vụ điều dưỡng… Trong khu vực
ASEAN, nhìn chung, các cơ chế này đều dẫn chiếu đến và nhắc lại tầm quan trọng
của Nghị định thư 2004 về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN,
tức là cơ chế giải quyết tranh chấp “khép kín”, giữa các quốc gia thành viên
ASEAN. Một trường hợp ngoại lệ và đặc biệt nhất là MRA về dịch vụ điều dưỡng
quy định khá cụ thể về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa thể nhân và Cơ quan
Quản lý điều dưỡng của nước tiếp nhận. Theo đó, một y tá (điều dưỡng) nước
3


ngồi có thể bắt đầu thủ tục giải quyết tranh chấp bằng cách gửi khiếu nại trực tiếp
lên cơ quan phụ trách MRA của quốc gia mà họ đang hành nghề (theo thỏa thuận
này gọi tắt là NRA – Nursing Regulatory Authority). Nếu người này khơng đồng ý
với giải thích và cách giải quyết của NRA đó, họ có thể liên lạc với NRA của quốc
gia xuất xứ để hai cơ quan tiến hành tham vấn giải quyết tranh chấp. Nếu tham vấn
không thành, bất kỳ NRA nào của hai bên tranh chấp có thể gửi đơn đến Ủy ban
Phối hợp ASEAN về điều dưỡng để tìm kiếm giải pháp thỏa thuận. Quy trình giải

quyết tranh chấp theo Thỏa thuận MRA về dịch vụ điều dưỡng kết thúc bằng một
thủ tục giải quyết tranh chấp theo Cơ chế của ASEAN – theo Nghị định thư 2004
về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp giữa quốc gia xuất xứ (Country of
Origin) và quốc gia nơi người cung cấp dịch vụ hành nghề.
3. Hạn chế của cơ chế Thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong thương mại
dịch vụ của ASEAN
Bên cạnh những thành tựu, cơ chế MRA trong ASEAN vẫn không phải là
giải pháp hoàn hảo cho vấn đề di chuyển thể nhân cung cấp dịch vụ. Trên thực tế,
cơ chế này vẫn tồn tại những hạn chế:
– Phạm vi hạn chế của MRA về dịch vụ trong AEC
Hiện nay các MRA này chỉ cơng nhận trình độ, kỹ năng và tạo thuận lợi cho
việc dịch chuyển các lao động lành nghề (skilled labour) trong một số ngành nghề
(8 ngành nghề đã nêu trên) chứ không dành cho tất cả các đối tượng trong độ tuổi
lao động, bao gồm các lao động phổ thông. Theo một số nghiên cứu, hiện nay 87%
người di cư trong nội khối ASEAN là lao động phổ thơng, sự dịch chuyển lao động
lành nghề cịn rất hạn chế. Trên thực tế, nhu cầu lao động phổ thông tại các nước
phát triển trong ASEAN (ASEAN-6) rất cao, chủ yếu trong các lĩnh vực như giúp
việc nhà ở Malaysia và Singapore (với nguồn cung từ Philippines và Indonesia),
lao động nông nghiệp ở Malaysia (từ Indonesia), xây dựng ở Malaysia và
Singapore (từ các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (các nước CLMV)
và chế biến thực phẩm ở Thái Lan (từ các nước CLMV ). Trước thực trạng đó, sự
hợp tác giữa các nước xuất khẩu và tiếp nhận lao động nêu trên về các vấn đề như
tạo điều kiện lao động hợp pháp, bảo vệ người lao động, chống buôn người… là
cực kỳ quan trọng. Rõ ràng trong trường hợp này, các MRA khơng có vai trị gì
đáng kể.
– Các rào cản “bên trong” cơ chế MRA về dịch vụ trong ASEAN
Mặc dù việc triển khai các cơ chế MRA trong một số lĩnh vực dịch vụ như
kiến trúc và kỹ thuật đã có những bước tiến đáng kể bằng việc ban hành một hệ
4



thống (network) đăng ký nghề nghiệp khu vực ASEAN. Tuy nhiên, một rào cản rất
lớn tồn tại trong các MRA chính là quy định ứng cử viên phải đáp ứng các điều
kiện theo pháp luật của nước sở tại để có thể đăng ký hoặc được cấp giấy phép lao
động. Điển hình, theo cơ chế MRA về dịch vụ kiến trúc, một kiến trúc sư ASEAN
(một ứng viên đã nộp đơn và được Hội đồng Kiến trúc sư ASEAN công nhận)
muốn thực sự làm việc hợp pháp ở nước ngoài phải hoàn thành thủ tục đăng ký
hành nghề tại nước tiếp nhận với tư cách “Kiến trúc sư nước ngoài đã đăng ký”
(RFA). Do đó, chính việc đăng ký này mới là thủ tục đóng vai trị quan trọng nhất.
– Mức độ hạn chế của tự do dịch chuyển thể nhân trong AEC
Mặc dù được kỳ vọng nhiều nhưng rõ ràng chính sách của AEC cho đến nay
khơng đảm bảo tự do dịch chuyển hoàn toàn đối với các lao động lành nghề mà chỉ
hướng đến tạo thuận lợi cho quy trình này. Hiệp định MNP mặc dù đã được các
quốc gia ASEAN ký kết nhưng mức độ cam kết trong các Biểu của từng quốc gia
là khác nhau và nhìn chung là khơng sâu. Trong khi đó, trong khn khổ EU, các
cơng dân châu Âu, ở bất cứ trình độ nào, đã có thể tự do di chuyển, cư trú và tìm
kiếm việc làm tại bất cứ quốc gia thành viên nào. Có nhiều nguyên nhân lý giải cho
sự thận trọng của AEC nói riêng và ASEAN nói chung, trong đó sự khác biệt quá
lớn liên quan đến nền tảng văn hóa, chính trị, tơn giáo, trình độ phát triển, năng
suất lao động… giữa các thành viên trong khu vực dẫn đến thực trạng xã hội khó
chấp nhận các lao động người nước ngồi, nhất là lao động có trình độ cao. Ngồi
ra, một trong những ngun tắc cơ bản trong tổ chức hoạt động của ASEAN là
không can thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên. Trên thực tế, ASEAN
không hướng đến mức độ liên kết cao như EU, do đó các MRA trong ASEAN chưa
thể tiến xa đến mức thống nhất các tiêu chuẩn, thủ tục và thay thế hoàn toàn các
quy định pháp luật trong nước tiếp nhận lao động.
– Các rào cản bên ngoài khác
Để thực sự các thỏa thuận MRA được thực thi trên thực tế, chính những đối
tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của nó (các lao động có trình độ cao) là chủ thể
đóng vai trị quyết định. Với tư cách là những người trực tiếp sử dụng cơ chế này,

họ cần có được đầy đủ thơng tin để đưa ra quyết định của mình. Hiện nay, việc tiếp
cận thơng tin về các MRA tại các quốc gia thành viên ASEAN cịn chưa được đảm
bảo. Cần lưu ý việc thơng tin về MRA không nên chỉ hạn chế ở đối tượng là các
hiệp hội ngành nghề có liên quan mà còn phải phổ biến cho những đối tượng tiềm
năng như học sinh, sinh viên tại các trường đại học trong Cộng đồng để họ sớm có
định hướng nghề nghiệp sau này và có ý thức về những giá trị chung. Những nội
5


dung cần tư vấn khơng chỉ gói gọn ở cơ chế MRA, những điều kiện cần phải đáp
ứng, các cơ quan có thẩm quyền… mà cần phải thơng tin đầy đủ, thậm chí tư vấn
về những vấn đề như pháp luật về lao động, các chính sách an sinh xã hội, điều
kiện ngoại ngữ và những thông tin về văn hóa, tập quán, phong tục… của các quốc
gia tiếp nhận dịch vụ. Đó thực sự là biện pháp tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy
việc sử dụng cơ chế MRA cho các thể nhân trong AEC.
III. Vai trò của MRA đối với hoạt động tự do hóa thương mại dịch vụ
trong ASEAN
Một yếu tố quan trọng của tự do hóa các dịch vụ chuyên nghiệp là khả năng
một thể nhân đủ tiêu chuẩn từ một quốc gia này đến hành nghề tại một quốc gia
khác. Khả năng hành nghề ở các nước khác nhau có thể đạt được bằng một số biện
pháp, bao gồm sự công nhận song phương chứng chỉ và kinh nghiệm, sự hài hịa
hóa chứng chỉ và thừa nhận chung bằng cấp, chứng chỉ và kinh nghiệm. Về lý luận,
những thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau là các điều ước quốc tế. Theo đó, các nước,
các cơ quan tiêu chuẩn hoặc các tổ chức nghề nghiệp thừa nhận sự tương đồng về
tiêu chuẩn kỹ thuật của một nước khác, các biện pháp kiểm dịch động thực vật
hoặc, trong trường hợp của thể nhân, chứng chỉ học thuật hoặc nghề nghiệp của họ
như Hiệp định Thừa nhận chung về dịch vụ kỹ thuật, kiến trúc hoặc kế tốn của
ASEAN. Vì thế, các MRA là những cơng cụ thúc đẩy tự do hóa thương mại được
đàm phán và ký kết – thường là trong việc hỗ trợ những cam kết tiếp cận thị trường
– làm giảm thiểu chi phí và thời gian cần thiết để có được sự chứng nhận đối với

trình độ chun mơn. Trong bối cảnh xu hướng hiện nay khi các rào cản đối với
mở cửa thị trường đã có sự thay đổi từ các biện pháp biên giới (như thuế quan và
hạn ngạch) cho đến các chính sách nội địa, sự thừa nhận lẫn nhau ngày càng được
xem là một công cụ hiệu quả hỗ trợ cho tự do hóa thương mại khi mà sự hài hịa
hoặc tương đồng pháp luật khơng đạt được.
Vai trò của các MRA là đưa ra một biện pháp nhằm giảm chi phí thâm nhập
vào trong thị trường dịch vụ nước ngoài bằng cách giúp các nhà cung cấp dịch vụ
thoát khỏi gánh nặng của việc sát hạch lại ở thị trường mục tiêu (thông qua việc
đáp ứng được các yêu cầu đào tạo bổ sung) cũng như là tạo thuận lợi cho các biện
pháp mà trong đó họ có thể đưa ra các bằng chứng xác nhận rằng họ đã hoàn thành
các điều kiện và cấp phép về trình độ chun mơn trong thị trường của nước mục
tiêu. MRA do đó là một cách để cắt giảm chi phí giao dịch và đưa ra một biện pháp
gián tiếp cần thiết để vận hành các cam kết mở cửa thị trường, vốn thường xuyên
được lập ra trong bối cảnh của đề xuất về một sự hội nhập kinh tế sâu rộng hơn
6


hoặc hướng tới sự tự do hóa thương mại mạnh mẽ hơn.
Hoạt động cơng nhận lẫn nhau có vai trị rất to lớn đối với thương mại dịch
vụ của ASEAN. Các thỏa thuận cơng nhận lẫn nhau được kí kết nhằm công nhận
chứng chỉ của các nhà cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp đến từ các quốc gia thành
viên ASEAN. Nó tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ chun mơn nước
ngồi tiếp cận và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tại thị trường của một quốc
gia khác. Qua đó khơng chỉ tạo điều kiện để các quốc gia có thể tiếp nhận, sử dụng
dịch vụ tốt hơn từ nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác nhau, đa dạng hóa ngành dịch
vụ trong nước mà cịn nâng cao tính cạnh tranh, thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển.
Công nhận lẫn nhau cùng với việc hạn chế và xóa bỏ các rào cản thương mại
dịch vụ là phương thức để thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ trong ASEAN.
Thông qua hoạt động công nhận lẫn nhau sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại dịch vụ
giữa các quốc gia thành viên ASEAN, tiến tới thành lập khu vực dịch vụ ASEAN.

KẾT LUẬN
Trong thương mại dịch vụ thì hoạt động cơng nhận lẫn nhau có vai trò, ý
nghĩa hết sức to lớn. Nhận thức được vai trị ấy, các quốc gia thành viên ASEAN
đã khơng ngừng xúc tiến các phiên đàm phán trong nhiều lĩnh vực để đi đến kí kết
các thỏa thuận cơng nhận lẫn nhau trong các lĩnh vực dịch vụ khác nhau. Trong
thời gian tới, để hoạt động công nhận lẫn nhau thực sự phát huy vai trị của mình
trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại dịch vụ thì cần phải tiếp tục phát huy
những ưu điểm cũng như khắc phục những hạn chế trong cơ chế công nhận lẫn
nhau giữa các quốc gia thành viên ASEAN.

7


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) ngày 15/12/1995)
/> /> /> />Guidelines for Mutual Recognition Agreements on Arrangements in the Accountancy Sector. Số
hiệu văn bản: S/L/38 28 May 1997
Hiến chương ASEAN 2007 [trans: The ASEAN Charter 2007]
Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC Blueprint) 2007 [trans: ASEAN
Economic Community Blueprint 2007]
Yoshifumi Fukunaga, “Assessing the Progress of ASEAN MRAs on Professional Services”,
Economic Research Institute for ASEAN and East Asia, no. 3. 2015
Flavia Jurje, Sandra Lavenex, “ASEAN Economic Community: what model for labour mobility?”,
Working paper no 2015/02, NCCR Trade Regulation.
Panthip Pruksacholavit, “Advancing the right to Freedom Movement in the AEC Framework –
What the AEC can learn from the EU”, The Indonesian Journal of International and Comparative Law, no.
4, 2014
Guntur Sugiyarto and Dovelyn Rannveig Agunias, A “Freer” Flow of Skilled Labour within ASEAN:
Aspirations, Opportunities and Challenges in 2015 and Beyond, no. 12, 2014
/>

8



×