Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) tiếp cận tác phẩm thơ chữ hán trong chương trình ngữ văn 10 THPT theo hướng đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.43 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Công việc chuẩn bị cho tiết đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán:
Hướng dẫn hs đọc – hiểu phần Tiểu dẫn, nắm vững những kiến thức
Đọc – hiểu bài thơ chữ Hán phải đối chiếu phần phiên âm với bản

Trang
2
2
2


3
3
4
4
5
6
6
8
8

2.3.4
2.3.5
2.3.6

dịch nghĩa và bản dịch thơ.
Nắm được những tri thức văn hóa, tri thức về thể loại
Đọc – hiểu ý nghĩa của ngơn từ, của hình tượng trong bài thơ
Đọc – hiểu để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, tư

11
12
14

tưởng, tình cảm của tác giả
2.3.7
So sánh, liên hệ, tích hợp các kiến thức
15
2.3.8
Đọc sáng tạo tác phẩm thơ chữ Hán
16

2.3.9
Tổ chức thảo luận – lĩnh hội tác phẩm thơ chữ Hán
17
2.3.10 Sơ đồ hóa, củng cố kiến thức, luyện tập
18
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
19
3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
3.1
Kết luận
19
3.2
Kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng đánh giá xếp loại cấp sở
GD&ĐT từ loại C trở lên

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tìm tịi, đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm thường xuyên và rất
cần thiết đối với mỗi người giáo viên, nó khơng chỉ có ý nghĩa thiết thực trong
việc nâng cao chất lượng giảng dạy cho học sinh trong mỗi giờ lên lớp mà cịn
tạo thói quen say mê nghiên cứu khoa học cho mỗi thầy cô nhằm đáp ứng được
yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới.

1



Hiện nay trong chương trình phổ thơng, các tác phẩm văn học bằng thơ
chữ Hán được trích giảng chiếm một vị trí quan trọng. Do đó, việc tìm tịi,
nghiên cứu để tìm ra những phương pháp tìm hiểu, tiếp cận văn bản có một ý
nghĩa vơ cùng quan trọng, giúp học sinh có một phương pháp học tập, nghiên
cứu chủ động, sáng tạo đúng theo quan điểm đổi mới trong giáo dục của Đảng
và nhà nước ta hiện nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin mạnh dạn đề xuất một vài giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học tác phẩm thơ chữ Hán trong nhà
trường phổ thông qua một số tác phẩm cụ thể trong chương trình đúng theo tinh
thần đổi mới trong hoạt động dạy và học văn hiện nay, mong rằng sẽ đem lại
những hiệu quả thiết thực.
Với vốn kinh nghiệm ít ỏi và thời gian có hạn, khó tránh khỏi những
khiếm khuyết trong q trình thực hiện. Mong rằng các đồng chí, đồng nghiệp
sẽ có nhiều ý kiến đóng góp để sáng kiến kinh nghiệm này được hồn thiện hơn.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Quá trình dạy học văn vốn phong phú và phức tạp. Mỗi tác phẩm là một sinh
mệnh riêng, một sáng tạo độc đáo, là con đẻ tinh thần của nghệ sĩ, là tiếng nói
nghệ thuật về thế giới tinh thần hoặc về hiện thực cuộc sống. Giờ học tiếp cận
tác phẩm thơ chữ Hán trong chương trình Ngữ Văn 10 theo hướng đổi mới xét
về bản chất chính là quá trình khơi gợi, phát huy tiềm năng sáng tạo cho giáo
viên và học sinh thốt khỏi những cơng thức gị bó đi ngược q trình vận động
đổi mới. Đổi mới dạy và học phải được tổ chức hợp lí trong một kết cấu chặt
chẽ, uyển chuyển linh hoạt theo lơgíc của quá trình tiếp nhận, phải được xây
dựng từ hệ thống tình huống học tập đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với
tầm đón nhận của học sinh. Thông qua việc tiếp cận tác phẩm, chủ thể học sinh
sẽ tự bộc lộ quá trình nhận thức, tình cảm, quan điểm, vốn sống, năng lực, bản
lĩnh. Thầy có điều kiện để dẫn dắt học sinh từng bước chiếm lĩnh tác phẩm một
cách hứng thú và hoàn thiện nhân cách.

Tổ chức giờ học tiếp cận tác phẩm thơ chữ Hán theo hướng đổi mới sẽ
bảo đảm khơng khí dân chủ cởi mở trong mơi trường sư phạm, tạo khơng khí
2


văn chương, có ý nghĩa tích cực tạo hiệu quả cao cho giờ dạy. Song khơng nhìn
nhận kiểu giờ học này biệt lập với các giờ học khác. Vấn đề đặt ra là phải biết
phối hợp đồng bộ giữa sáng tạo năng động của chủ thể học sinh với yêu cầu
định hướng sư phạm của giáo viên.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu và xây dựng phương pháp tìm hiểu, tiếp cận các tác phẩm thơ
chữ Hán trong chủ đề Tiếp cận tác phẩm thơ chữ Hán trong chương trình
Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo hướng đổi mới.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Vận dụng kiến thức tiếp thu từ các chuyên đề do Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT
triển khai để xây dựng phương pháp dạy học tích cực.
- Kết hợp nghiên cứu hệ thống câu hỏi trong môn Ngữ văn qua Sách tham khảo.
- Từ đó xây dựng phương pháp nghiên cứu trong chủ đề Tiếp cận tác phẩm thơ
chữ Hán trong chương trình Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo hướng
đổi mới theo một số bước sau:
Bước 1: Xác định nội dung chủ đề.
- Xác định những nội dung quan trọng trong chủ đề.
- Đối chiếu mục tiêu, chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình và nội
dung SGK môn Ngữ văn THPT với mục tiêu và nội dung dạy học và kiểm tra,
đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh .
Bước 2: Xác định mục tiêu và hình thức của đề kiểm tra.
- Mục tiêu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là theo định hướng đánh giá
năng lực học sinh.
- Với điều kiện thực hiện ở trường phổ thơng hiện nay thì phương pháp
kiểm tra, đánh giá chủ yếu là kiểm tra viết và hình thức kiểm tra, đánh giá kết

hợp giữa các câu hỏi trắc nghiệm với các câu hỏi tự luận.
Bước 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi trong nội dung chủ đề.
Sau khi xác định được nội dung, mục tiêu bài học giáo viên nghiên cứu
rồi xây dựng hệ thống câu hỏi. Nội dung câu hỏi phải bám sát với nội dung của
3


bài học, đảm bảo tính giáo dục cao, trang bị kĩ năng sống cho học sinh và giúp
các em có thể trả lời nhanh, chính xác. Thơng qua đó có thể phân hoá được đối
tượng học sinh một cách tốt nhất.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Phương pháp có vai trị rất quan trọng trong đời sống, trong nghiên cứu khoa
học. Nó tồn tại trong lí luận và trong thực tiễn cuộc sống, nó là cơng cụ, vừa là
động lực sáng tạo ra cái mới.
Dạy và học cũng là một khoa học, nó địi hỏi có phương pháp riêng phù
hợp với quá trình giảng dạy, và học sinh do giáo viên hướng dẫn nhờ đó mà lĩnh
hội được kiến thức, kĩ năng nhằm từng bước tự hoàn thiện về nhân cách.
Phương pháp dạy học văn nghiên cứu bản chất của quá trình dạy học văn,
chỉ ra phương pháp (cách thức) tiếp nhận văn học có hiệu quả nhất nhằm phát
huy được vai trị chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
So với các môn khoa học khác trong nhà trường, môn văn là môn học vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Văn chương vốn có khả năng đi
sâu vào tâm hồn người đọc. Nó lắng đọng kết tinh trong tâm hồn, giúp hiểu con
người, hiểu cuộc sống và khát vọng vươn tới cái Chân- Thiện- Mĩ. Do vậy, đổi
mới phương pháp dạy học môn văn không chỉ là đổi mới cách đánh giá, xem xét
mối quan hệ giữa giáo viên, học sinh với tác phẩm văn chương, mà quan trọng
là đổi mới phương pháp, biện pháp dạy học của giáo viên.
Thực tế giảng dạy các tác phẩm văn chương ở các nhà trường cho chúng

ta thấy học sinh chưa thực sự hứng thú học các giờ Ngữ văn, đơi khi giáo viên
cịn thấy lúng túng khi dạy một tác phẩm có sức lơi cuốn. Điều đó địi hỏi chúng
ta phải đổi mới phương pháp dạy các tác phẩm văn chương.
Thực tế nữa cho thấy, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Bộ GD
& ĐT triển khai nhiều năm nay cùng với việc thay sách giáo khoa để tiện cho
việc tích hợp kiến thức của giáo viên và học sinh. Nhưng là một giáo viên dạy
nhiều năm, chúng tôi thấy rất rõ kết quả của việc áp dụng phương pháp mới vào
dạy học chưa thực sự có kết quả.
4


Xuất phát từ những yêu cầu của quan điểm dạy học văn hiện đại trên,
cũng như những đặc trưng của bộ môn, tôi cho rằng muốn nâng cao chất lượng
giờ dạy học tác phẩm văn học thì cần phải tổ chức được những giờ dạy tác phẩm
theo tinh thần đổi mới, chỉ có như vậy mới có thể giải quyết được những giờ dạy
học văn nhàm chán đã nêu, kích thích óc sáng tạo của học sinh để học sinh thực
sự đóng vai trị trung tâm trong giờ học tác phẩm văn chương.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN
Qua thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông, một vấn đề đặt ra đối với
cả thầy và trị là việc tiếp cận, tìm hiểu các tác phẩm thơ chữ Hán cịn gặp phải
nhiều khó khăn.
- Về phía thầy:
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học văn không ngừng
được cải tiến, tuy nhiên vẫn còn chịu ảnh hưởng của phương pháp dạy truyền
thống mang tính chất thuyết giảng. Các tác phẩm thơ chữ Hán trong chương
trình Ngữ văn 10 khá đa dạng, giáo viên cịn gặp khó khăn về tư liệu, vốn hiểu
biết sâu rộng về thơ văn chữ Hán.
- Về phía học sinh:
Nhìn một cách khách quan, hiện nay học sinh có tâm lí chung là ngại học bộ
mơn Văn. Tâm lí thụ động, trông chờ vào sự truyền thụ kiến thức của thầy vẫn

cịn phổ biến, dẫn tới tình trạng học vẹt, thầy đọc trò chép, làm cho tác phẩm
văn học trở nên khô cứng, chưa thực sự thâm nhập vào học sinh. Vốn hiểu biết
về văn hóa Hán, văn học Hán của học sinh còn hạn chế, học sinh chủ yếu tiếp
cận tác phẩm ở dạng bản dịch, chưa có hứng thú học thơ chữ Hán do thơ chữ
Hán không dễ hiểu, ngại học thuộc lòng bản phiên âm và bản dịch thơ.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy trách nhiệm của mình là
phải làm gì để đáp ứng được yêu cầu đổi mới đó trong từng tiết học. Nhận thức
rõ những vấn đề cụ thể của riêng sách giáo khoa nhằm đảm bảo tốt kết quả
giảng dạy, tôi đã nhận thức được hệ thống văn bản và ý đồ nâng cao chất lượng
văn bản của sách giáo khoa Ngữ văn THPT qua việc đọc và hiểu văn bản.Từ
thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội
5


dung phương pháp tiếp cận, tìm hiểu các tác phẩm thơ chữ Hán được chọn giảng
trong nhà trường phổ thông, nhằm giúp người thầy tìm ra được những phương
pháp giảng dạy tích cực, khoa học theo hướng đổi mới. Đối với học trò khi đã
nắm được phương pháp học tập, hiểu văn bản kĩ hơn sâu hơn sẽ tạo được niềm
hứng thú say mê trong học tập, khơi dậy tính tích cực chủ động sáng tạo, dần
dần làm thay đổi phương pháp học cũ “thầy đọc- trị chép” mang tính thụ động,
kém hiệu quả.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1. Công việc chuẩn bị cho tiết đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán
Công việc của người giáo viên
- Để nâng cao chất lượng dạy và học thơ chữ Hán, người giáo viên phải đầu tư
nhiều thời gian và công sức. Người giáo viên phải đọc kỹ phần Tiểu dẫn và phần
Văn bản. Những kiến thức truyền đạt cho học sinh phải thật chính xác, khoa học
từ những nét chính về cuộc đời tác giả, những tác phẩm tiêu biểu, hoàn cảnh
sáng tác, nội dung và nghệ thuật của văn bản … Đặc biệt là phải tìm hiểu ý
nghĩa của từ, các điển cố, điển tích.

- Thiết kế bài học một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn giảng dạy trong nhà
trường, phù hợp với đối tượng học sinh. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài,
câu hỏi rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu văn bản chữ Hán, câu hỏi và bài tập hướng
dẫn học sinh tự học ở nhà. Phát hiện, bồi dưỡng học sinh khá, giỏi, phát huy
năng lực đọc – hiểu văn bản thơ chữ Hán. Chuẩn bị hoạt động thảo luận theo tổ
nhóm của học sinh. Hệ thống câu hỏi đặt ra để học sinh thảo luận phải hướng
vào trọng tâm bài học, vào mục tiêu bài học đặt ra. Bài học phải đảm bảo chuẩn
kiến thức, kỹ năng, không lan man, dàn trải.
- Người giáo viên nắm vững trọng tâm kiến thức, kỹ năng của bài học, chuẩn bị
nhuần nhuyễn các khâu lên lớp, sẽ làm chủ được kiến thức, chủ động về thời
gian, không lúng túng khi gặp tình huống học sinh đặt ra câu hỏi đề nghị giáo
viên lý giải hoặc nâng cao vấn đề.
- Người giáo viên có thể tự làm đồ dùng dạy học, tìm thêm tư liệu nhằm nâng
cao hiệu quả giờ dạy, hoặc phân công học sinh chuẩn bị sơ đồ, mơ hình, dụng cụ
6


học tập. Chẳng hạn : bức tranh đồng quê Việt Nam, bức tranh chiến đấu chống
quân Nguyên – Mông, truyện về nàng Tiểu Thanh …
- Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, soạn bài mới, hướng dẫn học sinh
đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán ở nhà.
Công việc của học sinh:
- Học sinh phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, khơng lơ là,
thụ động. Học sinh phải soạn bài ở nhà, đọc kỹ văn bản, nắm được những nét
chính về cuộc đời, sự nghiệp văn học, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm …
- Học sinh chuẩn bị đồ dùng học tập theo hướng dẫn của giáo viên: bảng phụ,
tranh ảnh, hình vẽ … Chuẩn bị việc thảo luận theo tổ nhóm, tranh luận …theo
yêu cầu của từng bài học và định hướng của người thầy.
- Học sinh chuẩn bị bài học bám sát sách giáo khoa, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ
năng qua câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài của giáo viên.

- Những chỗ chưa hiểu sâu, học sinh có thể chuẩn bị câu hỏi, nhờ thầy cô giáo
giải đáp trên lớp.
- Học sinh chuẩn bị tâm thế học tập hào hứng, phấn khởi, tránh bị dồn ép căng
thẳng, mệt mỏi dẫn đến không đạt hiệu quả trong học tập.
- Học sinh có thể đọc thêm một số bài thơ chữ Hán khơng có trong chương trình
lớp 10 nhằm mở rộng, nâng cao tri thức. Chẳng hạn các bài thơ Tỏ lịng của
Khơng Lộ thiền sư, Phị giá về kinh của Trần Quang Khải…
- Liên hệ với các bài thơ chữ Hán đã học để tích hợp kiến thức về thể loại, chẳng
hạn : Cửa biển Bạch Đằng của Nguyễn Trãi, Sơng núi nước Nam của Lí Thường
Kiệt…
- Ghi chép những ý kiến nhận định, đánh giá hay về tác giả, tác phẩm để làm tư
liệu học tập.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu phần Tiểu dẫn, nắm vững kiến thức
Về tác giả, tác phẩm:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc – hiểu phần Tiểu dẫn. Học sinh đọc phải rõ
ràng, chính xác những thơng tin về cuộc đời nhà thơ, những tác phẩm tiêu biểu,
hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Giáo viên và những học sinh khác chú ý lắng nghe,
7


đối chiếu với sách giáo khoa. Nhận xét cách đọc, phát hiện, sửa chữa những chỗ
đọc sai dẫn đến những thơng tin thiếu chính xác. Sau đó, giáo viên u cầu học
sinh tóm tắt những nội dung chính của phần Tiểu dẫn về tác giả, tác phẩm. Giáo
viên có thể cung cấp cho học sinh những tư liệu về tác giả, tác phẩm: tranh chân
dung, tranh phong cảnh, những lời nhận định về tác giả, lời bình hay về tác
phẩm … Mục đích giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về các tác giả, những đóng
góp về nội dung, nghệ thuật, hồn cảnh ra đời của bài thơ. Ví dụ: sách Đại Việt
sử ký toàn thư viết về Phạm Ngũ Lão: “Ngũ Lão thích đọc sách, người phóng
khống, có chí làm việc lớn, thích ngâm thơ, về việc võ hình như ít bận tâm.
Nhưng đội qn của ơng đều một lòng thân yêu như cha với con, đánh đâu được

đấy”. Về hoàn cảnh ra đời của bài thơ Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị
chúng) của thiền sư Mãn Giác, sách Thiền uyển tập anh chép : “Ngày 30 tháng
11, thiền sư Mãn Giác cáo bệnh, có kệ dạy rằng : Xuân qua, trăm hoa rụng …
Từ đó sư ngồi kiết già mà mất, thọ bốn mươi lăm tuổi”. Nắm vững những tri
thức trong phần Tiểu dẫn giúp cho học sinh có cơ sở hiểu sâu sắc hơn nội dung
bài thơ chữ Hán.
2.3.3. Đọc - hiểu bài thơ chữ Hán, đối chiếu phần phiên âm với bản dịch
nghĩa và bản dịch thơ
Nắm vững phần chú thích, hiểu được nghĩa của từ, điển cố, điển tích. Các bài
thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam được dạy và học trong trường phổ
thông đều được phiên âm theo cách đọc Hán Việt, tiếp theo là bản dịch nghĩa và
bản dịch thơ. Trong quá trình đọc – hiểu bài thơ, phải bám sát bản phiên âm và
bản dịch nghĩa, bản dịch thơ, phát hiện những chỗ bản dịch thơ chưa sát với nội
dung trong phần phiên âm hoặc bỏ sót từ trong phần phiên âm. Phải bám sát kết
cấu và cảm xúc chủ đạo của bài thơ để có cách đọc cho phù hợp, đạt hiệu quả.
Ví dụ : bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, câu thơ thứ nhất trong ngun tác
“Hồnh sóc giang sơn kháp kỷ thu” (Cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sơng đã
mấy thu), bản dịch thơ của Bùi Văn Nguyên là “Múa giáo non sông trải mấy
thu” làm mất đi vẻ đẹp hiên ngang, vững chãi, lẫm liệt của con người mang hào
khí Đơng A. Trong câu thơ thứ hai “Tam qn tì hổ khí thơn ngưu” (Ba qn
8


như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trơi trâu), bản dịch thơ là “Ba qn khí
mạnh nuốt trơi trâu”, bản dịch thơ đã bỏ mất từ tì hổ (hổ báo). Nhiều học sinh
có ý thức học tập tốt, tham khảo thêm nhiều tư liệu, đã đặt câu hỏi cho giáo
viên : Tại sao khí thơn ngưu bản dịch trong sách giáo khoa là “khí mạnh nuốt
trơi trâu” mà khơng phải là “khí thế át sao Ngưu”? Chúng ta cần phải giải thích
cho học sinh “khí thơn ngưu” có hai cách dịch : khí thế nuốt trâu và khí thế át
sao Ngưu. Theo các nhà nghiên cứu, ở đây nên hiểu khí thơn ngưu là khí thế

nuốt trơi trâu. Đỗ Phủ có câu thơ : “Tiểu nhi ngũ tuế, khí thơn ngưu” (Đứa trẻ
năm tuổi đã có khí thế mạnh mẽ có thể nuốt trơi trâu). Nhà thơ Việt Nam
Nguyễn Trung Ngạn cũng có câu thơ : “Mậu linh dĩ hữu thơn ngưu chí” (Thuở
thiếu niên đã có chí nuốt trơi trâu). Người giáo viên cịn phải hướng dẫn học
sinh sử dụng sách giáo khoa, tìm hiểu nghĩa của từ Hán Việt trong bản dịch thơ,
liên hệ với thực tiễn lịch sử. Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa
của từ Hán Việt, điển tích. Ví dụ : “Ý nghĩa của “nợ cơng danh” là gì? Vũ Hầu
“là nhân vật nào? Tại sao tác giả lại nói đến nhân vật này?” Giáo viên có thể giải
thích một số khái niệm như : giang sơn, khí, nam nhi …thường xuất hiện trong
thơ trung đại. Trong quá trình đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán của văn học trung
đại Việt Nam, cần đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ. Nguyên tác bài thơ
biểu hiện những tâm tư, tình cảm ý chí, tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Đọc –
hiểu một bài thơ chữ Hán, giáo viên và học sinh phải xuất phát từ nguyên tác.
Có nhiều bản dịch thơ dùng từ hay, hình ảnh đẹp, nhịp điệu uyển chuyển, nhưng
chưa thể hiện đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Khi
bám sát nguyên tác, chúng ta sẽ tránh được sự suy diễn tùy tiện, thiếu căn cứ. So
sánh, đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ giúp chúng ta hiểu sâu sắc giá trị tư
tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm, giúp cho học sinh phát triển khả năng tư
duy độc lập và sáng tạo. Ví dụ: trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn
Du, hai câu thơ đầu gợi lên sự “biến thiên dâu bể” của cuộc đời và nỗi ngậm
ngùi, luyến tiếc trước cái đẹp bị tiêu tan nghiệt ngã:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
9


(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
(Câu thơ trong bản dịch chưa thể hiện đầy đủ nội dung trong nguyên tác. Từ hoa
uyển (vườn hoa), đây là vườn hoa bên Tây Hồ, dịch là cảnh đẹp chưa cụ thể về

địa điểm. Từ tẫn nghĩa là hết, triệt để, dịch là hóa sẽ khơng hay bằng nguyên
tác. Hình tượng thơ đặt trong sự đối lập vườn hoa – gò hoang gợi nghịch cảnh
éo le. Từ tẫn trong “hoa uyển tẫn thành khư” gợi sự đổi thay khốc liệt: Vườn
hoa Tây Hồ đẹp là thế mà nay đã thành gị hoang, khơng lưu lại dấu vết nào.
Câu thơ trong nguyên tác là nỗi niềm xót thương, day dứt của tác giả. Từ độc
trong câu thơ thứ hai có nghĩa là “một mình” khác với chữ độc trong nhan đề bài
thơ, nghĩa là “đọc”, điếu nghĩa là viếng , chữ độc và chữ nhất (một) trong câu
thơ chữ Hán là để nói một lịng đau tìm gặp một hồn đau. Một mình nhà thơ
viếng người đã khuất qua một tập sách mỏng đọc trước song cửa. Nhất chỉ thư
(một tập sách) dịch thành mảnh giấy tàn thì tình cảm q lộ, mất đi vẻ kín đáo,
thâm trầm. Câu thơ trong nguyên tác gợi lên ý nghĩa: người chết cô đơn mà
người viếng cũng cô đơn. Câu thơ là cách Nguyễn Du vượt thời gian và sinh tử
để tri âm với Tiểu Thanh. Khi dạy hai câu thơ này, giáo viên lưu ý học sinh đối
chiếu bản dịch nghĩa, dịch thơ với nguyên tác. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu
nội dung của hai câu thơ đầu, giải thích và phân tích ý nghĩa của các từ hoa
uyển, tẫn, độc, điếu, nhất chỉ thư … Học sinh suy nghĩ, phát biểu cách hiểu, cách
cảm nhận của bản thân. Dịch một bài thơ chữ Hán sang tiếng Việt vừa đảm bảo
ý nghĩa, vừa hay là một việc rất khó khăn. Vì người dịch phải có vốn từ ngữ
phong phú, giỏi chữ Hán, có khả năng cảm thụ tác phẩm, phát hiện ra cái hay,
cái đẹp của bài thơ … Trong quá trình dạy và học thơ chữ Hán, giáo viên phải
thường xuyên đối chiếu nguyên tác và bản dịch thơ để lý giải sâu sắc, thuyết
phục hơn giá trị của tác phẩm. Đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán cần bám sát kết
cấu và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Chẳng hạn bài Vận nước của Pháp Thuận
cần đọc chậm, rõ, thể hiện tính chất chính luận của bài thơ. Bài Cáo bệnh, bảo
mọi người của thiền sư Mãn Giác, bốn câu đầu thể hiện quy luật sinh tử của tự
nhiên, cần đọc chậm, giọng trầm thể hiện tính chất triết lý. Hai câu cuối thể hiện
10


niềm lạc quan của tác giả, cần đọc sôi nổi, hứng khởi hơn. Đọc đúng, đọc diễn

cảm một bài thơ chữ Hán là một việc khơng dễ dàng. Bởi vì mỗi học sinh có
một giọng đọc khác nhau, có sự cảm thụ khác nhau về bài thơ. Việc rèn luyện
năng lực đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán cho học sinh là rất cần thiết, giúp cho
các em chiếm lĩnh các giá trị của tác phẩm.
2.3.4. Nắm được những tri thức văn hóa, tri thức về thể loại
Đọc - hiểu tác phẩm thơ chữ Hán là đi sâu tìm hiểu văn bản với cấu trúc, hình
tượng, ngơn ngữ của văn bản. Nhưng nếu giáo viên cung cấp cho học sinh
những tri thức về văn hóa, về thể loại của văn bản thì việc đọc - hiểu tác phẩm
sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn Tiểu Thanh là một người phụ nữ tài sắc có
số phận bi thảm thuộc đề tài người phụ nữ tài hoa bạc mệnh trong thơ Nguyễn
Du. Nhưng đề tài này lại nằm trong một phạm vi quan tâm rộng hơn, đó là vấn
đề thân phận của những người tài năng nói chung. Nguyễn Du đã viết về Khuất
Nguyên, Đỗ Phủ, Giả Nghị, những nhân vật có tài mà bất hạnh trong lịch sử.
Nguyễn Du viết về Đỗ Phủ, một nhà thơ nổi tiếng thời Đường: Nhất cùng chí
thử khởi cơng thi (Một đời ơng cùng khổ như thế há phải vì tài thơ). Như vậy,
Nguyễn đã đề cập đến một vấn đề rất mới, nhưng cũng rất quan trọng của chủ
nghĩa nhân đạo trong văn học. Ơng địi hỏi xã hội phải biết trân trọng tài năng,
trân trọng những người làm ra các giá trị tinh thần. Đó là điều cần nắm vững qua
bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký. Chương trình mơn Ngữ văn ở bậc THPT hiện nay
được xây dựng và thực hiện đổi mới phương pháp theo tinh thần tích hợp. Trong
đó trọng tâm của yêu cầu dạy học phần văn học là học sinh phải biết cách đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. Yêu cầu này xác định những nội hàm cụ
thể để học sinh thực hiện một chuỗi thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, hướng
tới hiệu quả thực hành vận dụng và nối kết kiến thức với phần Tiếng Việt, Làm
văn. Vì vậy, khi đọc - hiểu một văn bản văn học, trong đó có đọc - hiểu tác
phẩm thơ chữ Hán thời kỳ trung đại, giáo viên cần cung cấp cho học sinh những
tri thức về thể loại. Ví dụ, bài thơ Tỏ lịng của Phạm Ngũ Lão là bài thơ Đường
luật tứ tuyệt. Hai câu thơ đầu dành cho cảnh và sự , hai câu sau dành cho suy tư,
cảm xúc (tình). Bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du là bài thơ thất ngôn
11



bát cú Đường luật, nên cũng được tổ chức theo cơng thức chung là cảnh và sự
gợi lên nên tình. Hai câu thơ đầu tả cảnh và kể sự, sáu câu sau dành cho suy tư,
cảm xúc. Phần tri thức về văn hóa và tri thức về thể loại cần được vận dụng linh
hoạt, tùy theo nội dung bài học, thời gian được phân phối và đối tượng học sinh
mà cung cấp kiến thức cần thiết. Ví dụ ở các bài đọc thêm: bài Vận nước của
Pháp Thuận, thuộc thể thơ ngữ ngôn tuyệt cú Đường luật, bài Cáo bệnh, bảo
mọi người của thiền sư Mãn Giác thuộc thể kệ, một thể văn Phật giáo, được viết
bằng văn vần, có giá trị văn chương như một bài thơ. Bài Hứng trở về của
Nguyễn Trung Ngạn là bài thơ thất ngôn tuyệt cú Đường luật. Cả ba bài thơ này
được dạy trong 1 tiết, giáo viên chỉ cung cấp những tri thức về văn hóa, về thể
loại ngắn gọn, chọn lọc, tránh sa đà, lan man.
2.3.5. Đọc - hiểu ý nghĩa của ngơn từ, của hình tượng trong bài thơ
Khi đọc - hiểu một tác phẩm thơ chữ Hán, phải đọc - hiểu ý nghĩa của ngơn từ vì
yếu tố đầu tiên mà chúng ta tiếp xúc với bài thơ là ngơn từ. Cần tạo ấn tượng
tồn vẹn về văn bản bằng cách đọc văn bản từ đầu đến cuối, hiểu được từ khó,
từ lạ, ý nghĩa của các hình tượng. Ví dụ: trong bài thơ Vận nước, Pháp Thuận
mượn hình tượng thiên nhiên để nói về vận nước. Nghệ thuật so sánh “Vận nước
như dây mây leo quấn quýt”, vừa nói lên sự bền chặt, vừa nói lên sự lâu dài, sự
phát triển thịnh vượng. Để khám phá được ý này, giáo viên cần đặt câu hỏi:
“Tác giả dùng hình ảnh so sánh “Vận nước như dây mây leo quấn qt” nhằm
diễn tả điều gì?” Giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu được khái niệm vô
vi. Nghĩa đen của từ này là “khơng làm gì”. Khái niệm vơ vi được nhiều trường
phái triết học, tôn giáo sử dụng. Trong Đạo đức kinh của Lão Tử, vô vi là một
thuật ngữ chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không làm điều trái tự nhiên.
Trong bài thơ Vận nước, từ này còn được hiểu theo nghĩa của Nho giáo. Một
đường lối chính trị cho đấng quân vương: để xây dựng được nền hịa bình vững
chắc, cần “vơ vi”, khơng làm gì trái với tự nhiên, dùng phương sách “đức trị”,
lấy đức mà giáo hóa dân. Được như vậy thì đất nước thái bình, thịnh trị, nhân
dân ấm no, hạnh phúc, khơng cịn nạn đao binh. Đây cũng là một truyền thống

dân tộc. Để phát hiện được ý này, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh
“Hãy giải thích vì sao tác giả lại khẳng định: “Vơ vi trên điện các – Chốn chốn
dứt đao binh”? “Hai câu thơ cuối phản ánh truyền thống tốt đẹp gì của dân tộc
Việt Nam?”. Hoặc gợi ý cho học sinh so sánh tư tưởng tiến bộ trong bài thơ với
tư tưởng thân dân trong thơ văn Nguyễn Trãi sau này. Khi đọc – hiểu một bài
thơ chữ Hán của văn học trung đại, người giáo viên cần hướng dẫn học sinh cảm
nhận hình tượng văn học từ các hình ảnh, chi tiết, hiểu và cảm nhận một cách
tổng thể về nội dung, ý nghĩa của hình tượng. Ví dụ, hai câu cuối trong bài Cáo
bệnh, bảo mọi người của thiền sư Mãn Giác nói lên một hiện tượng tưởng như
ngược quy luật:
12


Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai)
Giữa cảnh xuân tàn, một cành mai xuất hiện, như bất chấp quy luật bao đời : hoa
mai thường nở vào cuối đông và đầu xuân, đến cuối xn khơng cịn hoa mai
nữa. Có thể xem hình tượng hoa mai ở đây biểu trưng cho sức sống mãnh liệt
của vạn vật và con người, vượt lên trên sự sống chết, thịnh suy, bất chấp sự thay
đổi của thời gian và thời tiết. Có thể gọi cành mai ở đây có giá trị tượng trưng
cho sự bất biến của tinh thần, ý chí, tư tưởng. Cành mai là một biểu tượng đẹp
cho tinh thần của con người, con người có ý chí kiên cường, vượt lên sự nghiệt
ngã của quy luật tự nhiên. Trong văn học trung đại, hoa mai là hình ảnh ước lệ
trong bộ tranh tứ bình. Để tìm hiểu ý nghĩa hình tượng cành mai, giáo viên đặt
câu hỏi: “Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng cành mai trong câu thơ cuối?”.
Tìm hiểu ý nghĩa hình tượng trong một bài thơ chữ Hán cịn là tìm hiểu tài năng
sử dụng ngữ từ, hình ảnh, sự sắp xếp kết cấu gợi cảm của nhà thơ, sự thống nhất
giữa những mặt đối lập trong hình tượng. Các nhà thơ thời trung đại thường tạo

ra cách tiếp cận thế giới từ các quan hệ đối lập. Ví dụ hai câu thơ mở đầu bài
Cáo bệnh, bảo mọi người của thiền sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa nở)
Về nghệ thuật sử dụng và sắp xếp từ ngữ, mỗi từ ngữ đều chứa đựng khả năng
biểu hiệu ý tứ sâu sắc. Bách hoa lạc (trăm hoa rụng), bách hoa khai (trăm hoa
nở), chỉ một từ hoa nhưng là biểu trưng cho vạn vật, biểu trưng cho mùa xuân
đến, mùa xuân đi. Nghệ thuật điệp, đối được phát huy cao độ để tạo nên tính
hàm súc cho hai câu thơ. Cách sắp xếp các hình ảnh đối nhau càng làm tăng sự
đối lập giữa sự mất đi và sinh ra của vạn vật, diễn tả quy luật tuần hoàn của tự
nhiên.
2.3.6. Đọc - hiểu để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, tư tưởng,
tình cảm của tác giả
13


Nhiệm vụ then chốt trước hết của giáo viên văn học đối với học sinh là
giúp các em “biết đọc” tác phẩm, biết tái hiện hình tượng, nội dung chứa đựng
trong tác phẩm, để trên cơ sở đó giúp các em biết phân tích cái hay, cái đẹp của
nó. Đây là một hoạt động có vai trị quan trọng trong việc giảng dạy thơ chữ
Hán. Hoạt động này giúp học sinh qua việc tự mình tiếp xúc với thế giới sáng
tạo của tác phẩm mà tiếp thu những tinh hoa văn học của dân tộc và nhân loại,
tiếp theo những cái hay, cái đẹp của tác phẩm vì nội dung và nghệ thuật. Từ đó,
rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu một bài thơ chữ Hán. Người giáo viên phải đặt câu
hỏi, hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ chữ Hán. Ví
dụ, sau khi học bài thơ Vận nước của Pháp Thuận, giáo viên đặt câu hỏi : “Hãy
đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật của bài thơ?”. Giáo viên định hướng,
gợi ý học sinh trả lời: Bài thơ biểu hiện lịng u nước, khát vọng sống hịa bình

và sự quan tâm đến việc nước của tác giả. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn
tuyệt cú Đường luật, ngôn ngữ hàm súc, hình ảnh sinh động và gợi cảm. Bằng
tâm huyết và tấm lịng ln trải rộng tình đời, nhà thơ đã góp cho văn học dân
tộc một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao và giá trị triết lý sâu sắc. Học
sinh phải đọc - hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả vì đó là linh hồn của tác phẩm
văn học, được thể hiện qua ngơn ngữ, qua hình tượng nghệ thuật. Ví dụ, sau khi
hiểu được vẻ đẹp của ngơn từ và hình ảnh nghệ thuật trong bài Hứng trở về của
Nguyễn Trung Ngạn: cây dâu già lá rụng, nong tằm vừa chín, lúa sớm trổ bông
thoang thoảng hương thơm, cua đang lúc béo … giàu sức gợi cảm làm nên
những hương vị riêng của thơn q, học sinh cảm nhận được lịng u nước và
niềm tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả. Tình yêu ấy thể hiện bằng nỗi nhớ quê
hương và sự gắn bó tha thiết với cuộc sống bình dị ở quê nhà. Nỗi nhớ quê
hương da diết thôi thúc tác giả quay về dù đang sống sung sướng giữa chốn
phồn hoa.
2.3.7. So sánh, liên hệ, tích hợp các kiến thức
Hoạt động tích hợp giúp cho học sinh hiểu được tính hệ thống của văn bản, liên
hệ với những kiến thức đã học ở phần này hoặc sẽ học ở phần kia. Mặt khác,
trong quá trình đọc - hiểu tác phẩm thơ chữ Hán, giáo viên cần so sánh, liên hệ
14


với các tác phẩm thơ có cùng đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật để mở rộng,
nâng cao kiến thức cho học sinh. Từ đó, rèn luyện cho học sinh cách tư duy
lơgic, chính xác, khoa học, giúp học sinh tái hiện kiến thức cũ, tiếp cận với kiến
thức mới. Chẳng hạn, khi đọc - hiểu bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, giáo
viên so sánh với các bài thơ : Tỏ lịng của Khơng Lộ thiền sư, Nỗi lòng của
Đặng Dung. Khi đọc - hiểu hai câu thơ đầu trong bài Đọc Tiểu Thanh ký của
Nguyễn Du, giáo viên cho học sinh tích hợp với tác phẩm Truyện Kiều của
Nguyễn Du mà học sinh đã được học ở THCS. Giáo viên gợi ý cho học sinh tích
hợp kiến thức : Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh có phần giống Thúy Kiều đến

với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên “Sè sè nấm đất bên đường” gợi lên ở Thúy
Kiều bao mối thương tâm. Cái gị hoang nơi chơn Tiểu Thanh gợi lên ở Nguyễn
Du bao điều thổn thức “Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang”. Khi tìm hiểu ý nghĩa
nỗi “thẹn” trong bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), giáo viên so sánh, liên hệ với
nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến trong bài thơ Vịnh mùa thu “Nghĩ ra lại thẹn với
ơng Đào”. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi
thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng thời Hán
để trừ giặc, cứu nước. Nguyễn Khuyến bày tỏ nỗ thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm,
một danh sĩ cao khiết thời Tấn (Trung Quốc). Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân
cách, khơi gợi, giáo dục cho học sinh những bài học sâu sắc về đạo đức, lí tưởng
sống.
2.3.8. Đọc sáng tạo tác phẩm thơ chữ Hán
Đọc - hiểu văn bản văn học nói chung và đọc - hiểu tác phẩm thơ chữ Hán nói
riêng là một việc sáng tạo vì ngồi những yếu tố đã có như ngơn từ, hình tượng
nghệ thuật, người đọc suy nghĩ, liên tưởng để khái quát thành những điều cao
hơn, sâu sắc hơn. Người đọc hiểu được lớp nghĩa tinh tế là tài năng và phong
cách nhà văn, những nét đẹp tiềm ẩn trong văn bản. Đọc sáng tạo là liên hệ
những gì đang đọc với những gì đã đọc, liên hệ mở rộng tầm hiểu biết của bản
thân. Macxim Gorki đã nói đến việc làm cho người đọc “có khả năng xây dựng
hình tượng”, “có khả năng tưởng tượng bổ sung vào bức tranh, những hình
tượng, những bóng dáng, những tích cực mà nhà văn đưa ra, bằng cách rút từ cái
15


vốn kinh nghiệm của bản thân, từ cái kho dự trữ ấn tượng và kiến thức của
người đọc”. Nguyễn Duy Bình bổ sung thêm : “Tài năng sáng tạo của tác giả và
tính năng đọc “cùng sáng tạo” của người học đã biến tác phẩm văn học thành
một sinh mệnh đặc biệt, có sức sống bền vững, với một nội dung phong phú,
phát triển vô hạn, vô cùng, trong một vẻ đẹp luôn luôn tươi mới”. Từ chỗ cảm
nhận được văn bản, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên hệ mở rộng để phát

hiện thêm những ý nghĩa sâu xa, hiểu được tính đa nghĩa, giàu sức gợi cảm của
tác phẩm, cá tính sáng tạo của tác giả. Ví dụ, khi đọc - hiểu hai câu thơ “Son
phấn có thần chơn vẫn hận - Văn chương khơng mệnh đốt còn vương” trong bài
thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du, giáo viên hướng dẫn học sinh liên hệ,
mở rộng để hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó. Son phấn là nói đến nhan sắc, văn
chương là nói đến tài năng. Với hai câu thơ, tác giả đã đặt ra câu hỏi : phải
chăng “son phấn có thần” nên Tiểu Thanh chết đi rồi vẫn để cho người đời sau
thương cảm? Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, giá trị bất diệt của cái
đẹp. Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng tài năng, ngưỡng mộ cái đẹp. Cái đẹp có
sức sống bất diệt, vì thế mà “ba trăm năm lẻ” sau dù cho “Tây Hồ cảnh đẹp hóa
gị hoang” nhưng Tiểu Thanh vẫn sống, vẫn khơng bị lãng quên. Cuộc đời của
nàng vẫn còn làm xúc động sâu xa tấm lịng con người “Son phấn có thần chơn
vẫn hận” đã khẳng định một tấm lịng nhân đạo hiếm có giữa xã hội trung đại xã hội khơng cơng nhận tài hoa, trí tuệ của người phụ nữ. Nguyễn Du đã ca ngợi
nhan sắc Thúy Kiều, ca ngợi nhan sắc Đạm Tiên và nhà thơ đã khẳng định
“những đấng tài hoa - Sống là thể phách, thác là tinh anh”. Các từ ngữ son phấn
có thần và thác là tinh anh đã khẳng định tâm hồn, tư tưởng Nguyễn Du vượt
lên trên thời đại. Với con mắt sắc sảo, tinh thần trân trọng, yêu thương, Nguyễn
Du còn phát hiện ở người phụ nữ một vẻ đẹp khác - vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ ẩn
giấu bên trong nhan sắc khuynh thành. Đọc - hiểu bài thơ Cáo bệnh, bảo mọi
người của thiền sư Mãn Giác, học sinh cảm nhận được trong thời Lý, khi Phật
giáo đang thịnh hành, dù xuất gia tu hành nhưng các thiền sư vẫn không quay
lưng lại với cuộc đời, vẫn đầy bản lĩnh, ý chí và tham gia tích cực vào cơng cuộc
dựng xây và bảo vệ đất nước.
16


2.3.9. Tổ chức thảo luận - lĩnh hội tác phẩm thơ chữ Hán
Việc cho học sinh thảo luận để lĩnh hội tác phẩm thơ chữ Hán của văn học trung
đại Việt Nam, tôi đã tiến hành trong nhiều năm trong các tiết đọc văn và đọc
thêm. Việc thảo luận giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức, vừa thấy hiểu bài hơn

và có thể hiểu thêm một số bài thơ chữ Hán khơng được giới thiệu trong chương
trình THPT. Chính vì thế, học sinh càng có hứng thú hơn khi học thơ chữ Hán
của văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Trong quá trình tổ chức dạy và thảo
luận, tơi có một số ghi nhận sau :
- Khơng phải tiết học nào cũng tiến hành thảo luận. Trong một tiết học không
nên tổ chức thảo luận nhiều lần.
- Không đưa ra những vấn đề quá dễ, quá đơn giản để thảo luận. Vấn đề thảo
luận phải bám sát văn bản thơ chữ Hán.
- Trong khi thảo luận, giáo viên phải theo dõi để hỗ trợ học sinh kịp thời cũng
như nhắc nhở các em lơ là, thúc đẩy sự hứng thú học thơ chữ Hán của họcsinh.
- Thảo luận để cảm nhận được cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ thuật của bài
thơ chữ Hán, tư tưởng, tình cảm của tác giả ẩn chứa sau những từ ngữ, hình ảnh
thơ. Có những vấn đề thảo luận tại lớp, cũng có vấn đề giao cho các nhóm chuẩn
bị ở nhà, lên lớp trình bày kết quả. Có rất nhiều hình thức nêu câu hỏi thảo luận
theo tổ nhóm có thể thảo luận về cuộc đời nhà thơ, về vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ.
Câu hỏi thảo luận phải hướng vào trọng tâm của bài học, phát huy được khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, phải hướng đến làm sáng tỏ cái
“thần” của câu chữ, của hình ảnh, cảm nhận được chiều sâu tâm hồn, tư tưởng
của nhà thơ. Ví dụ, khi đọc - hiểu hai câu thơ cuối của bài thơ Tỏ lòng (Phạm
Ngũ Lão), giáo viên nêu câu hỏi thảo luận “Nội dung của hai câu thơ sau nói lên
tâm sự gì? Vì sao tác giả lại nói đến “nợ cơng danh” và “Vũ hầu”? Có ý kiến
cho rằng, Phạm Ngũ Lão khơng nên tự thẹn khi so mình với Gia Cát Lượng. Ý
kiến anh (chị) như thế nào?” Khi học bài Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du,
giáo viên đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh thảo luận: “Đặt trong thi pháp văn học
trung đại, việc Nguyễn Du hai lần tự xưng “ngã” (tơi) và “Tố Như” (tên chữ) đã
hé mở điều gì?
17


2.3.10. Sơ đồ hóa, củng cố kiến thức, luyện tập

Sơ đồ hóa là thao tác mã hóa kiến thức cơ bản của bài học, giúp học sinh ghi
nhớ kiến thức một cách lôgic, biết nhận diện, lý giải mối quan hệ nội tại của vấn
đề, vận dụng các kỹ năng phân tích đối chiếu, tổng hợp kiến thức để giải quyết
các vấn đề thực tiễn. Ví dụ : dạy bài Hứng trở về của Nguyễn Trung Ngạn, giáo
viên nêu câu hỏi: “Lập sơ đồ những biểu hiện tình yêu quê hương của tác giả”,
từ đó nêu chủ đề của bài thơ?”
Ta có sơ đồ sau :
Ví dụ : Sau khi học xong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, giáo viên hướng
dẫn học sinh lập sơ đồ qua câu hỏi “ Lập sơ đồ những biểu hiện vẻ đẹp của hào
khí Đơng A qua bài thơ?”
Sau khi tiến hành đọc - hiểu bài thơ chữ Hán, giáo viên hướng dẫn học sinh
tổng kết lại bài học, củng cố lại kiến thức. Giáo viên gọi học sinh nêu ý nghĩa
văn bản, sau đó giáo viên chốt lại ý. Hoạt động đọc - hiểu phải coi trọng tính
ứng dụng vào thực tiễn, liên hệ với thực tiễn. Ở phần Hướng dẫn tự học, giáo
viên nêu các câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Đổi mới cách
kiểm tra đánh giá, khuyến khích học sinh tự học sáng tạo, tìm đọc các bài thơ
chữ Hán nằm ngồi chương trình phổ thơng để nâng cao tri thức về văn học dân
tộc và văn học nhân loại đồng thời gợi hứng thú cho học sinh trong quá trình
học tập.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Với bài dạy này, tôi đã tạo tâm thế cho học sinh hoàn toàn chủ động bởi
có rất nhiều câu hỏi bỏ nhỏ, nhiều tình huống học tập. Từ đó hiểu rõ hơn chủ đề
tư tưởng tác phẩm.
* Kết quả cụ thể
Cụ thể, việc áp dụng thiết kế mơ hình bài học, ở năm học trước và áp dụng
thường xuyên vào các giờ học khác đã đạt kết quả cao, cụ thể như sau:
Kết quả
10A2
Trước khi áp dụng (HS hứng thú
28/36

học tập, hiểu sâu sắc tác phẩm)

10A5

10A6

33/41

30/40
18


Sau khi áp dụng (HS hứng thú

31/36
33/41
35/40
học tập, hiểu sâu sắc tác phẩm)
Như vậy, việc tổ chức giờ học tác phẩm thơ chữ Hán ở lớp 10 theo hướng
đổi mới là một kiểu dạy học phù hợp tư duy của lớp trẻ hiện nay, phù hợp với xu
thế chung của thời đại.
Mặc dù đối tượng học sinh còn non kém về mặt nhận thức nhưng khi áp
dụng phương pháp này vào dạy văn chúng tôi cũng đã thu nhận được những kết
quả cụ thể qua các tiết dạy thực nghiệm rất đáng phấn khởi và khả quan.
Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là những ứng dụng ban đầu. Bởi vậy, tơi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng của các thầy, cô giáo và các
bạn đồng nghiệp để từ đó góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học văn
trong nhà trường hiện nay.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
Trên đây là những đề xuất cịn mang tính chủ quan. Tuy nhiên khi áp
dụng vào các giờ dạy học trong các năm học gần đây, tơi thấy có hiệu quả rõ rệt.
Học sinh hứng thú thực sự trong giờ học, có những tiết học vơ cùng sôi nổi, hào
hứng. Bản thân tôi cũng thấy bất ngờ khi có những phát hiện mới mẻ từ học
sinh. Thậm chí có những tiết dạy tơi đưa ra câu hỏi nêu cảm nhận về ý nghĩa tư
tưởng của tác phẩm để các em làm bài tập luyện tập để minh chứng quá trình tổ
chức dạy học như đã nêu ở trên và đã đạt được rất nhiều khả quan trong việc
tiếp nhận tác phẩm của học sinh.
3.2. Kiến nghị
Thực hiện q trình đổi mới là cơng việc phức tạp, địi hỏi nhiều cơng sức
tâm huyết của mỗi giáo viên chúng ta. Trong q trình thực hiện, đổi mới địi
hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều cấp độ. Chính vì vậy tơi xin nêu một
vài kiến nghị đề nghị tới các cấp như sau:
- Sở giáo dục nên tiếp tục tổ chức các đợt học tập chuyên đề và tập trung nhiều
hơn đến vấn đề đổi mới thiết kế giáo án và đổi mới phương pháp dạy học và tạo

19


điều kiện để các cụm tổ chức trao đổi kinh nghiệm giảng dạy thử về chuyên đề
này.
- Ban chuyên môn nhà trường vẫn tiếp tục tăng cường kiểm tra dự giờ để động
viên thúc đẩy giáo viên đổi mới trong soạn bài, chuẩn bị tốt cho bài giảng, nâng
cao chất lượng giáo dục.
- Tổ nhóm chun mơn và mỗi người thầy cần quan tâm đúng mức tới công việc
thiết kế giáo án và áp dụng đổi mới theo tinh thần chỉ đạo, không chủ quan ỷ vào
kinh nghiệm, khả năng dạy vốn có.
Trên đây là một vài kinh nghiệm và ý kiến nhỏ của tơi, khơng tránh khỏi
những sai sót, mong được sự góp ý nhận xét.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Thanh Hố, ngày 20 tháng 05 năm 2019

ĐƠN VỊ

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.

PHẠM THANH SƠN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa Ngữ văn 10 - tập I - Nhà xuất bản Giáo dục - năm
2006.
[2] Sách giáo viên Ngữ văn 10 - tập I - Nhà xuất bản Giáo dục - năm
2006.
[3] Sách hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2010.

20


[4] Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông - Đặng Đức Siêu - Nhà
xuất bản Giáo dục - năm 2002.
[5] Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 - Nguyễn Văn Đường - Nhà xuất bản
Giáo dục - năm 2006.

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ
ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNG GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD & ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Phạm Thanh Sơn
Chức vụ và đơn vị công tác: GV Ngữ văn – Trường THPT Hồng Lệ Kha,
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
TT Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá Kết quả Năm học đánh
xếp
Tỉnh)

loại

(Sở, đánh giá giá, xếp loại
xếp loại
21


1

Xây dựng hệ thống câu hỏi Sở GD & ĐT

(A,B,C)
C

2012 - 2013

C

2017 - 2018

tích cực trong giờ đọc

vawnqua đoạn trích: “Vĩnh
biệt Cửu trùng đài”- Nguyễn
2

Huy Tưởng.
Phát huy năng lực của học Sở GD & ĐT
sinh trong giờ học ngữ văn
theo hướng gợi mở-đối thoại

22


23



×