Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) tiếp cận danh nhân nguyễn mộng tuân trong giờ ngoại khóa văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.32 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… 2
1. 1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………….. 2
1. 2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………... 2
1. 3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài…………………………………...2
1. 4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………. 3
1. 5. Những điểm mới của SKKN…………………………………………………... 4
NỘI DUNG
TIẾP CẬN DANH NHÂN NGUYỄN MỘNG TUÂN
TRONG GIỜ NGOẠI KHĨA VĂN HỌC
1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………………….4
2. Thực trạng vấn đề…………………………………………………………………5
2.1. Thời Lê sơ……………………………………………………………………….5
2.2. Tình hình chung của văn học thời Lê sơ……………………………………….. 6
2. 3. Vị trí Nguyễn Mộng Tuân trong văn học thời Lê sơ…………………………... 10
2. 3. 1. Cuộc đời, con người và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Mộng Tuân…………….10
2. 4. Vị trí Nguyễn Mộng Tuân trong văn học thời Lê sơ…………………………... 15
2. 4. 1. Nguyễn Mộng Tuân - một gương mặt sáng giá của văn học thời Lê sơ……. 15
2. 4. 2. Một tác giả hàng đầu về thể loại phú………………………………………...16
2. 4. 3. Một nhà thơ có vị trí đáng kể trong văn học thời Lê sơ …...…………...........17
3. Kết quả thu được…………………………………………………..........................18
KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ …..……………………… …………………… …........19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bên cạnh Nguyễn Trãi, một tác giả lớn đã được nhiều nhà nghiên cứu và sưu


tầm, dày cơng khai thác và cơng bố, thì tác giả cùng thời với ông như Nguyễn Mộng
Tuân cũng cần được quan tâm nghiên cứu. Nguyễn Mộng Tuân là kẻ sĩ tham gia trong
hàng ngũ nghĩa quân Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm
lược. Cũng như các bạn đồng liêu (Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên…),
Nguyễn Mộng Tuân đã đem hết trí lực phục vụ triều Lê cịn non trẻ. Ơng khơng chỉ là
nhà chính trị có tầm nhìn xa trơng rộng, mà còn là nhà văn xuất sắc.
Tác phẩm của Nguyễn Mộng Tuân được ghi chép tản mạn ở nhiều tư liệu khác
nhau, thậm chí bị thất truyền, như Cúc Pha tập. Nguyễn Mộng Tuân từ trước đến nay ít
được các nhà nghiên cứu quan tâm giới thiệu, có chăng chỉ là những dòng sơ lược về tiểu
sử và các tài liệu mang tính chất khảo cứu.
Bản thân đang cơng tác và giảng dạy tại ngôi trường mang tên Nguyễn Mộng
Tuân (Trường THPT Nguyễn Mộng Tn)- Vì lí do đó, tơi mạnh dạn chia sẻ những
kinh nghiệm qua đề tài” Tiếp cận danh nhân Nguyễn Mộng Tuân trong giờ ngoại
khóa” nhằm giúp đồng nghiệp và học sinh tiếp cận Nguyễn Mộng Tuân một cách tốt
hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Tên tuổi Nguyễn Mộng Tuân từ lâu đã được nhắc đến nhiều trong các tư liệu
lịch sử và văn chương trung đại. Nhưng để tìm hiểu một cách hệ thống về cuộc đời, sự
nghiệp và tác phẩm của ông đến nay chưa được giới khoa học quan tâm đúng mức, có
chăng cũng chỉ là sơ lược về tiểu sử.
Nguyễn Mộng Tuân là tác giả có đóng góp đáng kể cho văn học Việt Nam
Trung đại và có vị trí tương đối quan trọng trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIV,
đầu thế kỉ XV. Tuy nhiên, tên Nguyễn Mộng Tuân còn xa lạ với rất nhiều người.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Một số đóng góp của Nguyễn Mộng Tuân cho văn
học thời Lê sơ.

2



3.2. Giới hạn của SKKN: Khái quát sáng tác của Nguyễn Mộng Tn cịn để
lại, tìm hiểu, xác định những đóng góp của ơng.
4. Phương pháp nghiên cứu
SKKN vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có các
phương pháp chính: Phương pháp thống kê - phân loại, phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp so sánh - đối chứng, phương pháp hệ thống.
5. Những điểm mới của SKKN
Đề tài là cơng trình tìm hiểu, xác định một số đóng góp của Nguyễn Mộng Tuân cho
văn học thời Lê sơ với một cái nhìn hệ thống và tương đối toàn diện., dùng làm tư liệu tham
khảo cho việc tiếp cận Nguyễn Mộng Tuân.

3


NỘI DUNG
TIẾP CẬN DANH NHÂN NGUYỄN MỘNG TUÂN TRONG GIỜ NGOẠI KHĨA
1. Cơ sở lí luận
Tìm hiểu, sưu tầm, giới thiệu và thai thác các giá trị văn hóa quá khứ, trong đó
có văn học ln ln là việc làm hết sức cần thiết. Chúng ta đi đến hiện đại không thể
không xuất phát từ truyền thống và tiếp thu giá trị của truyền thống. Nhiều tác giả, tác
phẩm văn học trung đại đã được giới thiệu, nghiên cứu công phu đấy là những thành
tựu đáng mừng. Nhưng cịn có biết bao nhiêu hiện tượng văn hóa, văn học khác mà
chúng cần được biết đến. Nguyễn Mộng Tuân dường như còn xa lạ với nhiều người.
Bên cạnh Nguyễn Trãi, một tác giả lớn đã được nhiều nhà nghiên cứu và sưu
tầm, dày cơng khai thác và cơng bố, thì tác giả cùng thời với ông như Nguyễn Mộng
Tuân cũng cần được quan tâm nghiên cứu. Nguyễn Mộng Tuân là kẻ sĩ tham gia trong
hàng ngũ nghĩa quân Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm
lược. Cũng như các bạn đồng liêu (Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên…),
Nguyễn Mộng Tuân đã đem hết trí lực phục vụ triều Lê cịn non trẻ. Ơng khơng chỉ là
nhà chính trị có tầm nhìn xa trơng rộng, mà còn là nhà văn xuất sắc

2. Thực trạng vấn đề.
Tên tuổi Nguyễn Mộng Tuân từ lâu đã được nhắc đến nhiều trong các tư liệu
lịch sử và văn chương trung đại. Nhưng để tìm hiểu một cách hệ thống về cuộc đời, sự
nghiệp và tác phẩm của ông đến nay chưa được giới khoa học quan tâm đúng mức, có
chăng cũng chỉ là sơ lược về tiểu sử.
Có thể tìm thấy Nguyễn Mộng Tuân trong một số tài liệu:
Trong Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tác giả
Bùi Văn Nguyên có giới thiệu sơ lược về tiểu sử hành trạng của Nguyễn Mộng Tuân.
Tập 4 tác giả truyền dịch 8 bài thơ và 4 bài phú.
Trong cơng trình Tên tự, tên hiệu của các tác giả Hán Nôm Việt Nam, Trịnh
Khắc Mạnh, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, Trịnh Khắc Mạnh cũng cho biết sơ
lược về tiểu sử của tác giả Nguyễn Mộng Tuân và có nhắc tới Cúc Pha Tập, nhưng rất
tiếc tập thơ đã bị thất truyền.

4


Trong Việt Nam sử lược, Nxb Đà Nẵng 2003, Trần Trọng Kim có nhắc đến đóng góp
của Nguyễn Mộng Tuân trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Trong Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà
Nội 1984, Bùi Văn Nguyên nhắc đến công lao của Nguyễn Mộng Tuân trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn và một số nét tương đồng trong thơ văn của Nguyễn Trãi và
Nguyễn Mộng Tuân.
Nguyễn Mộng Tuân được giới thiệu trong Từ điển văn học.
Rất đáng chú ý là đã có một số luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ ít nhiều có đề
cấp đến Nguyễn Mộng Tuân. Tuy nhiên khi nhắc đến Nguyễn Mộng Tuân, hầu như
các thế hệ học trò, kể cả một số giáo viên và nhân dân địa phương còn mơ hồ về nhân
vật lịch sử này. Vì thế, với những vấn đề gợi mở sau sẽ phần nào giúp cho các thế hệ
học trò và những người quan tâm có cái nhìn tồn diện hơn về danh nhân xứ Thanh.
2.1. Lịch sử Thời Lê sơ (1428 – 1527)

Giai đoạn này là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau
khi lên ngơi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua
nhiều năm chiến tranh. Có thể nói, đây là một cuộc cải cách tồn diện, từ chính trị đến
kinh tế - tài chính, văn hố giáo dục, xã hội. Thơng qua các cải cách kinh tế - xã hội,
chính trị, Hồ Quý Ly dự định xoá bỏ đặc quyền và thế lực của tầng lớp quý tộc Trần,
xây dựng một nhà nước quan liêu không đẳng cấp, quyền lực tập trung, để trực tiếp
giải quyết những khó khăn trong nước và chống lại các thế lực xâm lược từ bên ngoài.
Tuy nhiên, cuộc cải cách có chỗ quá mạnh so với thời đó (chính sách hạn điền), có
chỗ chưa thật triệt để (gia nơ, nơ tì khơng được giải phóng). Chính sách tiền tệ nhằm
thu lại và hạn chế việc sử dụng đồng trong chi dùng hằng ngày, tập trung nguyên vật
liệu phục vụ quốc phòng - một nhu cầu bức thiết. Nhưng lưu hành tiền giấy là một vấn
đề hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta đương thời, không đáp ứng đúng thực tiễn phát
triển còn hạn chế của kinh tế hàng hoá cuối thế kỉ XIV. Cải cách văn hoá, giáo dục có
ý nghĩa tiến bộ đầy đủ hơn.
Thế nhưng, ngày 18/11/1406, núp dưới danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” nhà Minh
mang 40 vạn quân sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ trước sau chủ trương kiên quyết
khởi nghĩa và rất tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, cuộc kháng
5


chiến do nhà Hồ lãnh đạo đã bị thất bại nhanh chóng.. Với tư tưởng yêu nước, mỗi khi
nước ta phản kháng hay vùng lên khởi nghĩa thì lập tức chúng dùng vũ lực đàn áp
khốc liệt với nhiều thủ đoạn man rợ. Trước tình hình đó, với truyền thống “yêu nước
thương nòi” nhân dân đã vùng lên tiến hành nhiều phong trào đấu tranh vũ trang rộng
rãi. Đến với Lam Sơn động chủ khơng chỉ có những người giỏi võ như Trần Nguyên
Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Chích… mà cịn có những nhà nho tri thức như Nguyễn
Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân... Thời ấy ba ông được ví như tùng - trúc - mai
trong bức tranh “đơng thiên tam hữu”. Bởi họ có những điểm chung như thi đỗ cùng
khoa, làm quan một triều, cùng chung chí hướng, lí tưởng muốn góp sức mình cùng
chủ tướng Lê Lợi đuổi kẻ thù chung - giặc Minh. Mặc dù đến với Lam Sơn và Lê Lợi

là phải “nếm mật nằm gai” nhưng họ vẫn vui vẻ cam lòng. Trong tâm khảm của mỗi
người dân đất Việt luôn in dấu ấn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mãi gắn liền với tên tuổi
bất tử của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những người anh hùng trên đất Lam Sơn.
Trong lịch sử dân tộc ta, có thể nói thời Lê sơ là một thời kì xán lạn. Sau 5 thập kỉ độc
lập và văn hiến nhờ những tướng tài, nhà Hồ có tội để mất nước vào tay nhà Minh.
Nhưng rồi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ (1418) đưa tới những chiến thắng vang
dội khiến quan quân Minh phải rút về Tàu, nền độc lập dân tộc được khôi phục, một
triều đại mới được thành lập. Ánh sáng của tự chủ tự do đươc trở về với đất Việt, với
kinh đô cũ Thăng Long được triều Lê sơ cho một tên gọi mới để phân biệt với Lam
Kinh ở Thanh Hố cịn gọi là Tây Đô hay Tây Kinh. Ánh sáng bùng lên khi Lam Sơn
dấy nghĩa rồi toả chiếu trên toàn cõi đất nước, cũng là ánh sáng của 100 năm văn hiến
nhờ sự nghiệp của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lương Thế Vinh, Phan Phu Tiên…,
nhờ những thành tựu văn hoá đẹp đẽ như hội Tao Đàn, bản đồ Hồng Đức, luật Hồng
Đức.
Nhưng phải nói thêm, rất đáng buồn là vào thời Lê sơ, một hình phạt thuộc loại man
rợ nhất mà con người có thể nghĩ ra, gọi là “tru di tam tộc” từ bên Tàu “nhập” vào
nước ta như vết nhơ khó rửa. Một số vua Lê sơ hẹp lượng vơ nghì, bạc nghĩa, đã sát
hại người cơng thần khai quốc, tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát...

6


Nguyễn Mộng Tuân dù làm quan nhiều đời vua nhưng cuối cùng cũng khơng tránh
khỏi đại hoạ đó.
2.2. Tình hình chung của văn học thời Lê sơ
Về thời kỳ lúc đó, nền đơ hộ của nhà Minh khơng những kìm hãm sự phát triển
tự nhiên của xã hội mà còn đe doạ nghiêm trọng vận mệnh cả dân tộc và mọi phẩm
giá của con người Việt Nam. Đất nước đứng trước một thử thách hiểm nghèo “giặc
Minh ngang ngược muốn đòi đất phong, giả nhân diệt nước, giết hại làm càn, nhân
dân Việt Nam gan óc dày đất, con thơ cháu bé mắc phải thảm hoạ giáo mác ngang

thây, làng mạc bỏ hoang, xã tắc thành gò, hoặc để thỏ chui, hoặc cho hươu ở, làm bãi
cho chim đỗ, làm rừng cho báo nấp” nhà viết sử Ngô Sỹ Liên đã nhận xét như vậy.
Núp dưới danh nghĩa “Phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh phát động 40 vạn quân sang xâm
lược nước ta. Với bộ máy chính sách đàn áp vô cùng dã man, tàn khốc đã khiến đời
sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực, lầm tha. Truyền thống yêu nước đã được phát
huy mạnh mẽ. Không chỉ có những người giỏ võ như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn
Xảo…mà cịn có cả những nhà Nho trí thức như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tn, Lí
Tử Tấn.
Tình hình xã hội và sự phát triển của giai đoạn đã góp phần quan trọng tạo nên sự
phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc cho văn học thời Lê sơ. Đáng tiếc là hiện nay số
thơ văn đương thời còn lại rất ít.
Văn học thế kỉ XV đã xuất phát từ truyền thống văn hiến ấy. Trong số hơn 80
tác gia mà chúng ta được biết thì nổi bật lên trên hết là Nguyễn Trãi. Các tác gia có
tên tuổi khác là Lý Tử Tấn với Chuyết Am thi tập, Pháp Vân Cổ tự kí và nhiều bài
phú, Vũ Mộng Nguyên với Vi Khê thi tập, Lý Tử Cấu với Hạ Trai thi tập, Nguyễn
Trực với Hu Liêu tập... Ngoài ra Phan Phu Tiên, Trần Thuấn Du, Thân Nhân Trung,
Lương Thế Vinh cũng để lại nhiều thơ văn. Văn học thời kì này phản ánh sự trưởng
thành của tinh thần dân tộc và vai trị hàng đầu của trí thức dân tộc. Nguyễn Trãi,
Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Cấu... đã sử dụng văn học như một vũ khí chiến đấu cho
tư tưởng nhân nghĩa, cho chính sách huệ dân. Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung, Đỗ
Nhuận, Bùi Xương Trạch cũng sử dụng văn học như một công cụ xây dựng chế độ, đề
7


cao vương quyền. Cuối thế kỉ XV, Lê Thánh Tông đã tập hợp các văn thần lập ra Hội
Tao đàn mà nhà vua tự xưng là Chánh nguyên súy. Việc sáng tác tiến hành dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của nhà vua thể hiện quan điểm chính thống của Nhà nước. Và chưa
bao giờ văn học cung đình lại thịnh hơn dưới triều Lê Thánh Tơng.
Xét tình hình văn học thế kỉ XV, phải thấy ý thức bảo vệ các di sản văn học dân
tộc thể hiện việc làm đáng quý của các nhà tri thức dân tộc từ Nguyễn Trãi đến Vũ

Cán. Nguyễn Trãi có sưu tập văn thơ chữ Hán và chữ Nôm đời Trần, đời Hồ. Phan
Phu Tiên và Chu Xa tập hợp thơ đời Trần và đầu đời Lê trong Việt âm thi tập. Dương
Đức Nhan tập hợp thơ cuối đời Trần, đời Hồ và đầu đời Lê trong Cổ kim thi gia tinh
tuyển. Hoàng Đức Lương tập hợp thơ đời Trần và đầu đời Lê trong Trích diễm thi tập,
Hồng Tụy Phu biên soạn Quần hiền phú tập: các sách này tập hợp chiếu, biểu, phú
các đời trước và đầu đời Lê. Việc ghi chép và biên soạn những truyện kí như Lam Sơn
thực lục của Nguyễn Trãi, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã góp
phần nâng cao ý thức về cốt cách dân tộc ta và khả năng của nhân dân ta. Âm điệu chủ
đạo của thời đại đã vang lên của những người đã tham gia phong trào Lam Sơn và đã
góp phần chiến thắng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Cấu, v.v... Âm
điệu ấy cũng vang lên trong tác phẩm của những người đã kế tiếp nhau trong suốt thế
kỉ XV góp phần xây dựng đất nước như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử
Cấu, Phan Phu Tiên, Trình Thuấn Du, Lương Thế Vinh, Bùi Xương Trạch, v.v…
Có thể chia văn học thế kỉ XV làm hai thời kì. Văn học nửa đầu thế kỉ nói chung đầy
khí thế lạc quan. Đây là văn học của thời kì chiến đấu đuổi giặc cứu nước. Âm điệu
anh hùng đã vang dội trong nhiều tác phẩm mà tiêu biểu nhất là những tác phẩm của
Nguyễn Trãi. Nửa thứ hai của thế kỉ là thời kì mà nhà Lê củng cố chế độ phong kiến
trên cơ sở xây dựng lại đất nước. Văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nơm nói chung
chịu sự chỉ huy chặt chẽ của nhà nước, đứng đầu là Lê Thánh Tông, và được sử dụng
về mục đích trên. Tính chất gọi là chính thống của văn học đã hạn chế nội dung và gị
bó hình thức văn học. Tuy nhiên, văn học nửa thứ hai của thế kỉ, gắn với sự nghiệp
xây dựng đất nước giàu mạnh, vẫn có những tác phẩm khơng ít giá trị.

8


Các thể loại văn học chính trong thời kì này gồm thư, phú, chiếu, văn bia, truyện kí.
Lực lượng sáng tác thời Lê sơ khá hùng hậu và thành tựu sáng tác cũng rất lớn, để lại
dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn học thời phong kiến Việt Nam. Nội dung văn học
thời kì này khá phong phú, phản ánh đa dạng đời sống chính trị, xã hội. Văn học chữ

Hán tiếp tục chiếm ưu thế, có hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng đặc biệt là của Nguyễn
Trãi. Văn học thời Lê sơ có nội dung yêu nước sâu sắc, thể hiện niềm tự hào dân tộc
khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc. Tuy nhiên ở văn học thời Lê sơ
có một bộ phận thơ văn mang đậm tính chất cung đình, chỉ tập trung ca ngợi nhà vua.
Phần lớn loại tác phẩm này được viết với lời lẽ trau chuốt, ý tứ cầu kì và tình cảm
mang tính chất giả tạo.
Nguyễn Trãi được xem là tác gia quan trọng hàng đầu của văn học thời Lê sơ với
nhiều tác phẩm nổi tiếng như Bình Ngơ đại cáo, Qn trung từ mệnh tập, Ức Trai thi
tập, Quốc âm thi tập… Mộng Tuân cũng là một ngôi sao sáng đương thời với nhiều
tác phẩm thơ và phú có giá trị. Tác phẩm tiêu biểu của ơng có Hạ thừa chỉ Ức Trai
tân cư, Chí Linh sơn phú…
Vào nửa sau thế kỉ XIV, cùng với sự suy thoái của nhà Trần, xuất hiện những
nhà thơ Trần Nguyên Đán, Chu An, Nguyễn Phi Khanh…với những bài thấm đượm
tình thương u nhân dân, thơng cảm với cuộc sống khổ cực của nhân dân. Thời Lý Trần cũng để lại nhiều văn bia dài, nhiều bài phú lưu lốt, đẹp đẽ như Đơng Hồ bút,
Trảm xà kiếm, Ngọc tỉnh liên, Thiên Hưng trấn. Với ý thức dân tộc sâu sắc, nhân dân
Đại Việt đã xây dựng được một nền văn học phong phú.
2.3. Vị trí Nguyễn Mộng Tuân trong văn học thời Lê sơ
2.3.1. Cuộc đời, con người và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Mộng Tuân
2.3.1.1. Cuộc đời, con người
Theo Đăng khoa lục thì Vũ Mộng Nguyên là tên gọi khác của Nguyễn Mộng
Tuân sau khi ông thi đỗ. Trong Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, phần phụ chép đời
Hồ Quý Ly ghi rõ: "Vũ Mộng Nguyên người làng Viên Khê, năm 21 tuổi sau khi thi
đỗ liền đổi tên thành Nguyễn Mộng Tuân. Ông làm quan bản triều (triều Lê) đến chức

9


Thượng khinh xa úy, Tả Nạp ngôn, Trung thư lệnh, hiệu Cúc Pha, đương thời hiệu là
Minh Phủ."
Có tài liệu cho rằng: "Nguyễn Mộng Tuân là một tên khác của Vũ Mộng Ngun. Ơng

người làng Viên Khê, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa, đậu Thái học sinh niên hiệu
Thánh Nguyên Canh Thìn (1400) cùng Nguyễn Trãi. Ơng có tên hiệu là Cúc Pha, làm
quan dưới triều Lê".
Một số tài liệu khác chép Nguyễn Mộng Tuân và Vũ Mộng Nguyên là 2 người
khác nhau. Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn chép Nguyễn Mộng Tuân tự là Văn
Nhược, hiệu là Cúc Pha, người làng Đơng Sơn xứ Thanh Hố. Hồng Việt thi tuyển
của Bùi Huy Bích ghi Nguyễn Mộng Tuân, tự là Văn Nhược, người làng Phủ Lí,
huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh
Thanh Hóa) và ghi Vũ Mộng Nguyên tên tự là Vi Khê, hiệu là Lạn Kha, người Đông
Sơn, huyện Tiên Du, đậu thái học sinh khoa Thánh Nguyên nguyên niên. Thế nhưng
tìm hiểu kĩ về thơ văn của hai ông có thấy thơ của hai ông xướng hoạ với nhau
(Tặng tế tửu Vũ cơng chí sỹ). Có thể tài liệu Đăng khoa lục đã chép tiểu sử của hai
ông có sự nhầm lẫn. Bởi có những điểm tương đồng ở hai ơng đó là cùng sống một
thời đại, cùng thi đỗ Thái học sinh một khoa Thánh Nguyên thứ nhất, và q qn của
họ đều có hai chữ Đơng Sơn. Thật ra Nguyễn Mộng Tn người Đơng Sơn- Thanh
Hố, cịn Vũ Mộng Ngun người làng Đơng Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh
(Nhà thờ của Vũ Mộng Nguyên hiện nay vẫn còn ở Tiên Du, Bắc Ninh).
Theo gia phả dịng họ, ơng sinh năm 1380, đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn,
niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất (1400) vừa mới lên ngơi, cơng việc triều đình cịn
rất phức tạp nhưng việc đầu tiên Hồ Quý Ly làm là cho mở khoa thi Thái học sinh, lấy
đỗ 26 người. Khoa thi này rất nổi tiếng và được các bậc danh nho đương thời dự thi
khá đông, biểu hiện sự chấp nhận triều đại nhà Hồ của tầng lớp tri thức. Nguyễn Trãi,
Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân… và các vị thái học sinh khác là những nhà đại nho
trụ cột cho triều đình đương đại và các triều đại sau.
Như vậy theo nhiều nguồn tài liệu khác nhau, ta có thể khẳng định Nguyễn Mộng
Tuân và Vũ Mộng Nguyên là hai tác giả khác nhau. Nguyễn Mộng Tuân, tự Văn
10


Nhược, hiệu Cúc Pha, không rõ năm sinh năm mất, q ở xóm Chằm, làng Viên Khê,

xã Đơng Anh, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ơng đỗ Thái học sinh kỳ thi năm
Canh Thìn (1400), tháng 8 mùa thu, đời nhà Hồ, với đầu đề bài thi là “Linh Kim Tàng
Phú” hỏi về chuyện Hán Cao tổ (Lưu Bang bên Trung Quốc) có cái kho chứa gươm.
Khi khởi nghĩa Lam Sơn, ơng tìm đến Lê Lợi và được Lê Lợi tin dùng. Sau đại thắng
quân Minh ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngơi Hồng đế. Nguyễn Mộng Tuân
được phong tước Á Hầu giữ chức Khu Mật Đại Sử. Đến thời Lê Thái Tông (14341442), ông giữ chức Trung thư lệnh và Đô úy. Sang đời Lê Nhân Tông (1442-1459),
ông giữ chức Tả nạp ngôn, Thượng Khinh Xa Đô Úy, Tri quân dân Bắc đạo, Nguyễn
Mộng Tuân cùng với Lê Thụ đi đánh Chiêm Thành, thắng lợi trở về được ban tước
Vinh Lộc đại phu.
Nguyễn Mộng Tuân tham gia giám khảo các kỳ thi Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất
(1442), Nguyễn Mộng Tuân từng tiếp các đoàn sứ bộ của các nước, đặc biệt ơng cịn
được mời vào dạy vua học ở tòa Kinh Diên, và từng giữ chức Tế Tửu (hiệu trưởng)
Quốc Tử Giám, được vua trọng ban cho lễ ưu đãi tuổi già. Nguyễn Mộng Tuân vừa là
danh nho, vừa là một võ tướng, vừa là nhà chính trị có tầm nhìn xa, trơng rộng. Đây là
một trong những trường hợp ít thấy đối với một khai quốc công thần đời Lê. Nguyễn
Mộng Tuân là người cương trực, khẳng khái vì lợi ích của nhân dân và quốc gia đại
sự. Nhưng cuối đời Nguyễn Mộng Tuân vẫn không tránh được hậu họa. Cuối đời
Nguyễn Mộng Tuân bị hậu hoạ do sự kiện thanh trừng của nhà Lê “thỏ chết, cung
treo” nên dòng họ Nguyễn Mộng Tuân đã chạy từ làng Viên Khê, xã Đông Anh,
huyện Đông Sơn đền Phủ Lí, nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh
Hoá. Hiện nay nhà thờ Nguyễn Mộng Tuân ở nơi đây.
Là nhà nho xuất thân bằng con đường cử nghiệp, ơng cịn là người giàu lịng u
nước. Đỗ cao và được trọng dụng dưới vương triều Hồ chưa được bao lâu thì giặc
Minh đã đem quân xâm lược. Dưới ách cai trị tàn bạo hà khắc của giặc Minh, với tấm
lịng đầy nghĩa khí ơng khơng thể ngồi yên nhìn nỗi thống khổ của người dân. Sau khi
được tin Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh cứu nước, ơng tìm đến vùng
đất Lam Sơn xin tham gia khởi nghĩa và là một trong những người có mặt từ thuở ban
11



đầu của nghĩa quân Lam Sơn được Lê Lợi tin dùng. Ơng là người tích cực ủng hộ chủ
trương và quan điểm tâm công của Nguyễn Trãi và minh chủ Lê Lợi. Suốt mười năm
kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Mộng Tuân là một văn thần luôn được trọng
dụng, nhiều năm nằm trong bộ tham mưu của Lê Lợi.
Năm Canh Tuất (1430), Năm thứ ba sau hồ bình, Lê Lợi rất lo lắng về việc bảo vệ
khôi phục đất nước sau 20 năm bị chiến tranh tàn phá. Tháng 6 năm 1430 nhà vua sai
Nguyễn Trãi soạn chiếu tuyên cho trăm quan không được làm lễ nghi khánh hạ.
Tháng 10 soạn chiếu cấm các quan Đại thần, tổng quân cũng như các quan ở viện,
sảnh, cục tham ô lười biếng, kết bè đảng làm hại dân chúng. Chiếu lệnh được ban ra,
nhiều đại thần, tướng lĩnh bàn tán cho rằng nhà vua quá tin Nguyễn Trãi mà nghi ngờ
họ chây lười và không trong sạch. Thế là bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình
Hồnh Bá… nhân đó gây bè cánh nịnh hót xúc xiểm đặt điều với nhà vua vu oan cho
Nguyễn Trãi cấu kết với thái uý Phạm Văn Xảo có âm mưu làm phản. Vua tin theo lời
bọn ấy, bởi thế mà Nguyễn Trãi bị hạ ngục tống giam. Nghe tin Nguyễn Trãi bị hạ
ngục nhiều người bàng hoàng, riêng giới nhân sĩ rất xúc động. Lúc này Nguyễn Mộng
Tuân cùng Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Quang Minh… tâu với vua xin đến
thăm Nguyễn Trãi nhưng bị chối từ, chỉ có Nguyễn Mộng Tuân là người duy nhất
được gặp Nguyễn Trãi. Hai người bạn đã nhiều năm đồng cam cộng khổ, vào sinh ra
tử rất mừng khi gặp nhau. Nguyễn Trãi đọc cho Nguyễn Mộng Tuân nghe bài thơ
“Ngục trung tác” mà ông mới sáng tác, bày tỏ tâm sự, oán than thân phận thời thế cay
nghiệt. Ít lâu sau Nguyễn Mộng Tuân đến bàn với Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng
nên tâu lên nhà vua, xin tha cho Nguyễn Trãi bởi quả tình oan ức. Hơn nữa tha cho
Nguyễn Trãi cũng là làm yên lòng giới văn sĩ vừa hăm hở ra giúp tân triều theo
“Chiếu cầu hiền tài” mới ban bố chưa được bao lâu. Lê Lợi nghe lời tâu cho là phải
nên truyền tha cho Nguyễn Trãi. Khi Lê Thái Tổ băng hà thì Thái tử Ngun Long lên
nối ngơi. Đời Lê Thái Tông, Nguyễn Mộng Tuân vẫn được trọng dụng, ông được giao
giữ chức Trung thư lệnh và đô uý, đời Lê Nhân Tơng giữ chức Tả nạp ngơn, thượng
chính xa Đơ . Mậu Thìn (Thái Hồ) năm thứ 6 (1448) vua sai tư khấu Lê Khắc
Phục, Tả hữu nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Văn Phú, Hữu ti thị lang Đào
12



Công Soạn Trung thừa Hà Lật cùng bọn Tây đạo Tham tri, Đồng tri Nguyễn Thúc
Huệ, Nguyễn Lan, Bùi Cầm Hồ, Trình dục, Thẩm hình viện phó sứ Trịnh Mân. Nội
mật viện thảm ti Lê Văn đi hội khám biên giới miền đông. Từ đời vua Lê Thái Tổ đến
Lê Nhân Tông, Nguyễn Mộng Tuân cùng Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Trịnh Khắc Phục
làm giám khảo nhiều khoa thi thời Lê.
Nguyễn Mộng Tuân không chỉ là một nhà quân sự ông còn là nhà văn, nhà thơ
nổi tiếng trên văn đàn đầu thế kỉ XV. Đặc biệt thơ văn ông trong thời Lê sơ rất rực rỡ
phản ánh khí thế anh hùng, quật khởi của nghĩa quân và chủ tướng Lê Lợi trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh. Những áng văn thơ của ông mang âm hưởng hào hùng
sôi sục của thời đại, chứa đựng sự lạc quan, tin tưởng vào sự vững bền của triều đại
mới. Phải là người thực sự chịu đựng khó khăn, gian khổ của cuộc chiến đấu, hoà nhịp
cùng cuộc sống hào hùng của nghĩa qn thì mới có cái khí văn (mà rõ nét nhất là ở
thể phú) mang đượm hồn thiêng sông núi như vậy.
Mùa thu tháng 7/1449 sứ Chiêm Thành là bọn Bô Sa Phá Tham Tốt cùng đi với
Nguyễn Hữu Quang sang nước ta. Vua sai tư khấu Lê Khắc Phục, Nạp ngôn Nguyễn
Mộng Tuân vặn hỏi sứ Chiêm Thành về tội giết vua. Sứ Chiêm Thành không trả lời
được chỉ lạy tạ mà thôi.
Trải qua ba đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Nguyễn Mộng Tuân vừa là
một võ tướng, một văn thần nổi danh làm tới chức Trung thư lệnh và Đô uý dưới triều
Lê Thái Tông. Sau những vụ sát hại các công thần dưới triều Lê Thái Tông, ở triều
Nhân Tông lúc nhà vua lên ngôi khi cịn nhỏ tuổi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh bng
rèm nhiếp chính thì thói nịnh hót, bè đảng trong triều lại càng loạn hơn. Số phận của
Nguyễn Mộng Tuân cũng khơng thốt khỏi vịng đại hoạ. Bài Trung hưng kí năm
Quang Thuận viết: “Nhân Tông mới hai tuổi đã sớm nối ngôi. Thái hậu Nguyễn Thị là
gà mái gáy sớm. Đô đốc Lê Khuyến như thỏ khôn giữ miệng. Vua đàn bà mắt quáng
buông rèm ngồi chốn thâm khê, bọn họ ngoại lịng tham khốc lác hồnh hành khắp
cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai, việc văn giáo lặng lẽ như
băng hàn, người hiền tài phải bó cánh. Bậc hương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì


13


kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tn thì đẩy vào vịng tai hoạ. Oan
uổng khơng thể kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát”
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Mộng Tuân cũng như bao văn thần, võ tướng
khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể có lúc bị phủ nhận, vùi dập, nhưng qua trường kì
lịch sử những đóng góp to lớn của ơng trong cuộc kháng chiến chông giặc Minh và
xây dựng đất nước thì vẫn chẳng lu mờ. Hậu thế đã từng bước minh oan ghi nhận
những đóng góp của ơng trong lịch sử: Hiện nay đền thờ chính ơng đã được con cháu
đời sau đưa về Thiệu Trung, Thiệu Hoá, Thanh Hố, đồng thời để tưởng nhớ cơng lao
của ơng, UBND tỉnh Thanh Hoá, Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hố, UBND huyện
Đơng Sơn quyết định đặt tên một trường THPT bán công là trường THPT Nguyễn
Mộng Tuân. Tên của Nguyễn Mộng Tuân cũng đã được đặt cho một số đường phố ở
thành phố Thanh Hoá và thành phố Đà Nẵng. Và năm 2018, Huyện Đơng Sơn đã có
con đường mang tên Nguyễn Mộng Tuân.
2.3.1.2. Sự nghiệp thơ văn
Nguyễn Mộng Tuân để lại Cúc Pha tập - là tập thơ chữ Hán do ông sáng tác
trong nhiều năm, phần lớn theo thể thất ngôn cận thể, nhưng tiếc rằng tập thơ đã bị
thất truyền. Những bài thơ trong Cúc Pha tập phần lớn được chép lại trong Toàn Việt
thi lục, và thơ chữ Hán của Nguyễn Mộng Tuân còn được truyền trong một số sách
như: Tinh tuyển chư gia luật thi, Tinh tuyển chư gia thi tập, Hoàng Việt thi tuyển,
Hồng Việt tùng vịnh
Lê Q Đơn nhận xét: thơ văn của Nguyễn Mộng Tn bình dị, khơng có chất
buồn Sở từ, được nhiều người ham chuộng. Trong dung lượng hạn hẹp của thể thơ,
ông đã khéo tài vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thật để tăng tính hiệu quả cho từng bài
mà không phá vỡ khuôm khổ chật hẹp của thơ Đường. Nguyễn Mộng Tuân cũng là
người sử dụng khá nhiều điển cố, điển tích nhưng khi ta đọc vẫn cảm nhận được từng
lời thơ thật hàm súc mà dễ hiểu, ý thơ trong sáng mà sâu lắng. Trong thơ chữ Hán,

Nguyễn Mộng Tuân đã thể hiện sở trường “thi trung hữu hoạ, ý tại ngôn ngoại” mà
không phải bất cứ nhà thơ nào cũng thể hiện được như thế. Quả là thơ của Cúc Pha
“như cô gái chơi xuân có vẻ đẹp mềm mại”
14


Nguyễn Mộng Tuân cũng là kiện tướng về làm phú chữ Hán, hiện có 41 bài chép
trong Quần hiền phú tập, đó là con số ít thấy ở các tác giả Hán Nơm. Trong đó có
nhiều bài thể hiện chan chứa tình cảm u thương đất nước, khơng khí chiến thắng
vang dội một thời với nhiều bài hay như: Lam Sơn giai khí phú, Xn đài phú…
Về văn, ơng soạn Thái uý từ đường chi bi - bia viết về Thái uý Trịnh Khả (hiện nay
tấm bia đặt ở từ đường Trịnh Khả thuộc xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hố, tình trạng bia khá mờ), và có một bài trong sách Thanh Trì, Quang Liệt Chu thị
di thư. Nguyễn Mộng Tuân là con người đa tài, văn võ kiêm toàn, đã giỏi thơ phú lại
am tường quân sự.
2. 4. Vị trí Nguyễn Mộng Tuân trong văn học thời Lê sơ
2.4.1. Nguyễn Mộng Tuân - một gương mặt sáng giá của văn học thời Lê sơ
Tình hình xã hội và sự phát triển của thời kỳ Lê sơ đã góp phần quan trọng tạo
nên sự phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc. Có nhiều tên tuổi của các tác giả đã đi
cùng năm tháng như: Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên. Văn học thời kỳ
này phản ánh sự trưởng thành của tinh thần dân tộc và vai trị hàng đầu của trí thức
dân tộc. Nguyễn Mộng Tuân đã sử dụng văn học như một vũ khí chiến đấu cho tư
tưởng nhân nghĩa, thể hiện tấm lịng mình trước thiên nhiên, đất nước.
Âm điệu chủ đạo của thời đại đã vang lên của những người đã từng tham gia và
đã góp phần chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trong đó có Nguyễn Mộng
Tuân. Với 143 bài thơ cận thể nhưng khi đọc lên ta khơng hề thấy gị bó, khn phép
như thơ Đường luật. Đọc những bài thơ cảm tác trước thiên nhiên (Hỗ gía du Thanh
Hư động, Phong Châu tức sự, Lan, Mai hoa, Hồng mai, Ba tiêu) ta mới thấy được một
tâm hồn thật tinh tế và nhạy cảm trước thiên nhiên tạo vật. Không những thế, thơ
Nguyễn Mộng Tuân mang nội dung yêu nước sâu sắc với niềm tự hào dân tộc, khí

phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc. Với cương vị trọng trách được Lê
Lợi tiên dùng trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh, Nguyễn Mộng Tuân đã đem
hết sức mình với triều đại. Là người trực tiếp sống trong khơng khí sơi động của cuộc
chiến, gắn bó mật thiết và chứng kiến những hành động anh hùng, những chiến công
oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn. Sự dồi dào của vốn hiểu biết cuộc sống và con
15


người thời kháng chiến đã thôi thúc ông viết lên những trang thơ mang khơng khí thời
đại, góp phần tạo nên sự phong phú của nền văn học thời Lê sơ nói riêng và văn học
trung đại Việt nam nói chung.
2. 4. 2. Một tác giả hàng đầu về thể loại phú
Thời Lê sơ là thời kỳ hưng thịnh nhất của phú chữ Hán. Trong số nhiều tác giả để
lại những tác phẩm có giá trị như: Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu Nguyễn Mộng Tuân
là kiện tướng của thể loại này (41 bài/108 bài trong Quần hiền phú tập). Phải kể đến
những tác phẩm phú như: Lam sơn phú, Kỳ nghĩa phú, Chí linh sơn phú, Tẩy binh
phú…Tựu trung đều mang đề tài ngợi ca nhà vua, ngợi ca địa linh nhân kiệt, tự hào
với những võ công mong mỏi chủ trương đức trị đất nước trong hồ bình. Với đề tài
ngợi ca địa danh lịch sử Lam Sơn (Cùng Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Lê Thánh Tơng)
thì bài Lam Sơn phú của Nguyễn Mộng Tuân mang nét đặc sắc và độc đáo riêng.
Dưới ngòi bút hiện thực già dặn và điêu luyện, những bài phú của Nguyễn Mộng
Tuân đã dựng được bức tranh có ý nghĩa xã hội rộng lớn, tái hiện hình ảnh anh hùng
dân tộc trong cuộc chiến tranh chống giặc Minh cứu nước. Hơn ai hết, Nguyễn Mộng
Tuân là người tham gia và ủng hộ tích cực cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi nên
người đọc càng rõ hơn những cảm xúc hào hùng, những chiến công vang dội của dân
tộc. Phải là người thực sự chịu đựng những khó khăn, gian khổ của cuộ chiến đấu, hoà
nhịp cùng cuộc sống hào hùng của dân tộc, của nghĩa qn thì cái khí văn mới mang
đượm hồn thiêng sông núi như vậy.
2. 4. 3. Một nhà thơ có vị trí đáng kể trong văn học thời Lê sơ
Tình hình xã hội và sự phát triển của giai đoạn, đã góp phần tạo nên sự phong

phú và đậm đà bản sắc cho văn học thời Lê sơ. Trong số những tác gia mà chúng ta
được biết nổi bật lên trên hết là Nguyễn Trãi. Các tác gia có tên tuổi khác như: Lý Tử
Tấn với Chuyết Am thi tập, Vũ Mộng Nguyên với Vi Khê thi tập…Nguyễn Mộng
Tn cũng có những vị trí đáng kể trong văn học thời Lê sơ. Cúc Pha tập với 143 bài
thơ chữ Hán rất có giá trị, nhưng tiếc rằng tập thơ đã bị thất truyền, hiện nay chỉ còn

16


ghi chép tản mạn ở những tư liệu khác nhau Hoàng Việt thi tuyển, Toàn Việt thi lục,
Tinh tuyển chư gia luật thi.
Nguyễn Mộng Tuân không chỉ là một nhà qn sự, ơng cịn là nhà văn, nhà thơ
nổi tiếng trên văn đàn đầu thế kỷ XV. Nội dung thơ phản ánh khí thế anh hùng, quật
khởi của nghĩa quân và chủ tướng Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh,
mang âm hưởng hào hùng của thời đại. Đồng thời chứa đựng sự lạc quan, tin tưởng
vào sự bền bỉ của triều đại mới. Trong dung lượng hạn hẹp của thể thơ, ông đã khéo
tài vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để tăng tính hiệu quả cho từng bài mà không
phá vỡ khuôn khổ chật hẹp của thơ Đường. Thơ Nguyễn Mộng Tuân có khá nhiều
điển cố, điển tích nhưng khi đọc vẫn cảm nhận được từng lời thơ thật hàm xúc, dễ
hiểu, sâu lắng trong lòng độc giả.
3. Kết quả đạt được
Trong q trình giảng dạy, tơi đã áp dụng đưa kiến thức vào buổi ngoại khóa văn
học đối với HS toàn trường. Từ năm học 2014- 2015 đến năm học 2017-2018, Kết quả
phần lớn các em đều có sự hiểu biết đáng kể về danh nhân Nguyễn Mộng Tn, từ đó
ln tự hào và có hứng thú học tập hơn.
Kết quả cụ thể bài kiểm tra
( Câu hỏi kiểm tra 15 phút: Hiểu biết của anh/chị về danh nhân Nguyễn Mộng Tuân
và những đóng góp của ông?)
Lớp
Mức độ

Giỏi
Khá
TB
Yếu

10A6 (sĩ số 40)

11A6 (sĩ số 39)

10A5 (sĩ số 40)

17
13
6
4

16
15
7
1

15
15
7
3

17


KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ

1. Kết luận.
Ở Nguyễn Mộng Tuân, cuộc đời và tư tưởng có những gắn bó song trùng. Suốt
thời đại phong kiến của lịch sử nước ta, Nguyễn Mộng Tuân có sáng tác văn chương
tải đạo yêu nước thầm lặng, có sức hấp dẫn lớn khơng chỉ bằng những tác phẩm phú
mà bằng cả thơ. Nguyễn Mộng Tuân đã để lại số lượng tác phẩm phú rất đồ sộ (41
bài). Nguyễn Mộng Tn có tình bạn rất cao đẹp với Nguyễn Trãi, coi Nguyễn Trãi
như người bạn tri kỉ, vì vậy trong những sáng tác của mình, Nguyễn Mộng Tuân cũng
đã có sự đồng cảm, tâm đắc thực sự. Tuy nhiên, Nguyễn Mộng Tuân còn xa lạ với
mỗi chúng ta, đặc biệt các thế hệ học trị. Vì vậy, tìm hiểu, giới thiệu thơ văn Nguyễn
Mộng Tuân trong các giờ ngoại khóa văn học là sự cần thiết.
Nguyễn Mộng Tuân còn là nhà thơ xuất sắc, được nhiều người ham chuộng.
Một bậc lão thần như Nguyễn Mộng Tuân đã sống trong thời loạn, tấm lòng yêu nước
thương dân xuyên suốt trong những tác phẩm thơ của ông. Hơn nữa, tâm hồn Cúc Pha
luôn rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên, quê hương, đất nước.
2. Kiến nghị.
Với những đóng góp của Nguyễn Mộng Tuân về thơ, phú cho văn học trung đại
Việt Nam, nên chăng cần phải có những tuyển tập thơ, những đánh giá xứng đáng về
Nguyễn Mộng Tuân. Hi vọng với đề tài này, nhân dân địa phương, các thầy cơ và các
thế hệ học trị sẽ có các nhìn tổng thể tự hào về những đóng góp của Nguyễn Mộng
Tuân trong văn học trung đại Việt Nam và ngôi trường THPT đã mang tên Nguyễn
Mộng Tuân.
Tuy nhiên, với trình độ người viết có hạn chắc chắn những phần trình bày trên
cịn nhiều thiếu sót. Nhưng với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng học tập của
bộ môn Văn, khơi dậy trong các thế hệ học trò về sự hiểu biết và niềm tự hào về danh
nhân nơi q hương mình, tơi xin được trao đổi và rất mong được các thầy cơ có kinh
nghiệm lâu năm trong nghề tận tình chỉ bảo góp ý.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

18



XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG NHÀ TRUỜNG

Thanh Hóa, ngày 9 tháng 5 năm 2018
CAM KẾT KHÔNG COPPY
Người viết

Lê Thị Hợp

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lại Nguyên Ân (chủ biên, 1995), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến
hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2.

Phan Kế Bính (1930), Việt Hán văn khảo, Trung Bắc tân văn, Hà Nội

3.

B.L.Riptin (1974), “Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của
phương Đơng theo phương pháp loại hình”, Tạp chí văn học, (2).

4.

Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá - 2006, Danh nhân Thanh Hoá,

Nxb Thanh Hoá.

5.

Nguyễn Đổng Chi (1942), Văn học cổ văn học sử, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội.

6.

Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1981), Văn học Việt Nam trên những chặng đường
chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7.

Phong Châu - Nguyễn Văn Phú, Phú Việt Nam chọn lọc, Nxb Văn học.

8.

Phong Châu - Nguyễn Văn Phú (giới thiệu, sưu tầm, chú thích), Phú Việt Nam cổ
và kim, Nxb Văn hố - Thơng tin.

9.

Trường Chinh (1972), Mấy vấn đề văn hoá - văn nghệ, Nxb Văn hoá, Hà Nội

10. Nguyễn Thọ Dực (1974), Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch), tập IX, tủ
sách cổ văn của Uỷ ban dịch thuật, Bộ văn hoá - Giáo Dục, Thanh niên Sài Gịn.
11. Phan Thị Đào (1999), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, Nxb Thuận Hóa Huế.
12. Phan Thị Đào (1999), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, Nxb Thuận Hoá Huế.
13. Trần Văn Giáp (1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
14. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lí luận văn học Trung Quốc, Nxb

Văn học, Hà Nội.
15. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới.

20



×