Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

DE TAI SANG KIEN KINH NGHIEM NANG CAO CHAT LUONGDOC HIEU CHO HOC SINH LOP 4 QUA PHAN MON TAP DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.88 KB, 41 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4. QUA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC ” 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI a. Trong cuộc sống của con người, văn học đã có từ rất lâu và trở thành nhu cầu không thể thiếu. Nó là tấm gương phản ánh cuộc sống của con người ở nhiều phương diện khác nhau. Qua các tác phẩm văn học, con người tìm thấy chính mình, thấy mọi người xung quanh và thấy cả thế giới đang sống trong đó. Văn học là nguồn sức mạnh vô tận, nó lay động trái tim, khối óc và lý trí của con người giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn về tâm hồn và nhân cách. Đến với văn học là con người đến với kho tàng tri thức đồ sộ của nhân loại, chúng ta thấy mình càng nhỏ bé trong biển tri thức mênh mông ấy. b. Mỗi cá nhân chúng ta khi sinh ra không phải là ai cũng có thể hoàn thiện được mình về cả thể chất lẫn tinh thần. Bác Hồ vĩ đại của chúng ta khi nhận định về nhân cách con người có nói: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Chính vì vậy việc hình thành và phát triển tâm hồn cho con người và nhất là trẻ thơ phải được coi trọng ngay từ khi còn bé. c. Văn học có tác dụng rất lớn trong trường học nhưng khả năng đọc hiểu cũng như cảm thụ văn học của học sinh và nhất là học sinh Tiểu học còn nhiều hạn chế. Các em còn bị chi phối bởi tình cảm chủ quan nhưng các em cũng rất dễ rung động trước cái đẹp, có cảm xúc trong sáng, có sức tưởng tượng phong phú và tâm hồn rất nhạy cảm trước những vấn đề ảnh hưởng đến đời sống của trẻ thơ… Chính vì vậy: Nếu chúng ta biết bồi dưỡng và phát triển năng lực đọc và cảm nhận các bài tập đọc (tác phẩm văn học) cho các em một cách đúng đắn, chúng ta sẽ giúp các em cảm nhận được hiệu quả, đầy đủ nhất những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm văn học..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> d. Việc bồi dưỡng và phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm văn học cho học sinh Tiểu học là một việc làm hết sức cần thiết mà mỗi giáo viên chúng ta cần phải lưu tâm. Muốn hiểu được bài học tốt, người học phải đọc tốt và đọc tốt ở đây là đọc hay, đọc diễn cảm. Mà nếu có đọc hiểu tốt thì mới đọc hay và đọc diễn cảm được. Từ khi chương trình cải cách giáo dục thay đổi (chương trình cải cách 2000), môn Tiếng Việt cũng có sự thay đổi về cả nội dung và phương pháp dạy học. Nhận rõ hơn tầm quan trọng giữa việc dạy văn và dạy tiếng nên trong giờ học giáo viên đã biết kết hợp chặt chẽ hai vấn đề trên nhằm phát huy tối đa hiệu quả giờ dạy Tập đọc. Ở Tiểu học, việc tiếp xúc với các tác phẩm văn học chủ yếu được tiến hành trong giờ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập làm văn nhưng chủ yếu là trong giờ Tập đọc. Qua những bài Tập đọc, học sinh không chỉ hiểu nội dung sự việc mà còn nắm được thái độ tình cảm, sự đánh giá sự việc của tác giả và sự cảm nhận của người đọc qua bài đọc đó. Nếu giáo viên không giúp học sinh khám phá ra những cảm xúc, thái độ tình cảm trong tác phẩm đó có nghĩa là giáo viên chúng ta chỉ đem đến cho học sinh một văn bản để đọc như một cái máy nhập dữ liệu mà không cần biết đến cái đẹp đẽ, cái nhân văn chứa đựng trong đó. Chính vì thế việc bồi dưỡng năng lực đọc hiểu văn học cho học sinh là vô cùng quan trọng. Trên thực tế: Việc dạy bồi dưỡng khả năng đọc hiểu văn học cho học sinh chưa thực sự chú trọng. Với các bài tập đọc giáo viên còn nặng về thực hiện các bước lên lớp, quy trình bài dạy và chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu nội dung mà chưa khai thác đến cái hay, cái đẹp cũng như nghệ thuật của văn chương. Học sinh chỉ được tìm hiểu văn bản trên khía cạnh tái hiện thực mà không biết rằng đọc hiểu văn học không phải là hoạt động phản ánh hiện thực thông thường. - Ở hầu hết các lứa tuổi, chúng ta đều ham đọc sách, truyện (hay còn gọi là tác phẩm văn học) và đặc biệt là học sinh Tiểu học. Qua việc đọc đó các em.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> đều thấy được tác dụng và những ảnh hưởng to lớn từ nội dung, nhân vật trong mỗi tác phẩm đối với chính mình. - Ở lớp 4, hầu hết các em đều yêu thích học môn Tập đọc. Các bài tập đọc trong SGK đều là các tác phẩm hay được chắt lọc và đưa vào chương trình vì thế giúp các em hiểu biết về thế giới xung quanh, biết sống, học tập và vui chơi một cách hợp lý. Các em học tập những điều hay, lẽ phải và các vấn đề về đạo đức con người trong các chủ điểm của môn Tiếng Việt. Đọc hiểu văn học là quá trình cảm nhận cái đẹp, cái tinh tế của tác phẩm văn học trong mỗi con người. Một số người trong số chúng ta còn dạy theo lối dập khuân máy móc, chỉ chú trọng vào hoạt động của thầy, giảng giải quá nhiều. Vô hình chung chúng ta đã đọc hiểu hộ học sinh từ lức nào không hay. Học sinh chỉ biết đọc hiểu theo lối chép lại cảm xúc của thầy cô mà không có sự rung động của chính mình. Các em có thể đọc rất hay, nói rất hay nhưng cái hay đó không phải từ trái tim cũng như tấm lòng của các em. Từ đó các em mất dần khả năng đọc hiểu văn học, mất đi sự tự chủ của chính mình. Như vậy các em sẽ viết văn ngày càng yếu đi, lười suy nghĩ, không có khả năng khẳng định mình. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập, nhận thức của trẻ cũng như trong việc hình thành và phát triển nhân cách sau này. Chính vì vậy việc xác định lại vị trí và tìm ra biện pháp nâng cao khả năng đọc hiểu văn học cho học sinh lớp 4 là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Vì các lí do trên tôi đã mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc hiểu cho học sinh Lớp 4 qua phân môn Tập đọc”. 1.2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ. * Mục đích: Giáo viên: Nâng cao nhận thức của bản thân về việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh khả năng đọc hiểu. Tìm ra các biện pháp khắc phục các tồn tại,.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> khó khăn trong quá trình giảng dạy từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh. Học sinh : - Hình thành kĩ năng đọc hiểu văn học cho học sinh. - Phát triển tư duy sáng tạo. - Rèn các phẩm chất cần thiết như: chăm chỉ, yêu con người, có lòng nhân ái, giúp đỡ mọi người,… cho học sinh. - Có phương pháp học tập sáng tạo, làm việc khoa học phù hợp với mục đích học tập của mình. - Yêu con người, thiên nhiên, quê hương, đất nước qua các hình ảnh gần gũi, các câu chuyện, các bài Tập đọc 1.3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về việc dạy đọc hiểu văn học ở phân môn Tập đọc lớp 4. - Nghiên cứu kĩ các bài Tập đọc Lớp 4 chương trình SGK năm 2000. - Đề xuất các biện pháp trong dạy Tập đọc để nâng cao khả năng đọc hiểu cho học sinh lớp 4. - Xác định tính thực thi và hiệu quả của việc dạy đọc hiểu văn học qua các bài Tập đọc. 1.4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊM CỨU - Qua phân môn Tập đọc lớp 4. Trường Tiểu học Lê Quý Đôn – huyện Buôn Đôn - Sử dụng các giờ học ngoại khoá trong suốt năm học. - Kết hợp với Thư viện trường, Tổng phụ trách,… - Thời gian: Năm học 2011 – 2012 1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Sử dụng phương pháp tìm tòi, nghiên cứu, thu thập, phân tích; phương pháp phân tích tổng hợp với các nội dung kiến thức của hoạt động dạy học; phương pháp kiểm tra, rút kinh nghiệm..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Văn học phản ánh cuộc sống của con người trong tác phẩm văn học. Nó phản ánh chân thực cuộc sống và khái quát giá trị cuộc sống. Văn học giúp con người sống có ý thức hơn, hiểu nhau hơn và mạnh mẽ hơn. Sách phản ánh cuộc sống đa dạng và phong phú của con người. Sách hướng dẫn các em đến chân trời mới lạ, giúp các em khám phá được thế giới và tự hoàn thiện chính mình về tâm hồn, trí tuệ và nhân cách. Chính vì vậy mà khi nói về văn học nhà văn M.X Gorki có nói: “Văn học là nhân học”. - Đọc hiểu là một quá trình nhận biết những gì tinh tế nhất bằng những dung động, cảm nhận sâu sắc, tinh tế của bản thân mình. Đọc hiểu là quá trình cảm nhận riêng rất riêng của mỗi con người. Đọc hiểu cần đến sự nhạy cảm tinh tế của tâm hồn để cảm nhận hết tư tưởng, tình cảm mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Qua đó người đọc thấy được cái hay, hiểu được tác phẩm và cảm nhận được vẻ đẹp của nó. - Quá trình đọc hiểu văn học gồm các cấp độ khác nhau sau: + Cấp độ ngôn ngữ và đọc hiểu ngôn từ: Văn bản ngôn từ gồm các phương diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Người đọc cần chú ý đến tả cảnh tả tình của tác giả, sắp xếp các âm thanh khác nhau thành vần, thành điệu, thành tiết tấu... Đọc hiểu phương diện từ vựng của tác phẩm cần chú ý đến nghĩa của từ, cái hay, cái đẹp của từ trong so sánh, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa... Đọc hiểu trên phương diện cấu trúc câu: Cần chú ý đến các kiểu câu, nhấn mạnh ý, các từ ngữ gợi tả hình ảnh, nghĩa chuyển của từ có trong câu... + Cấp độ hình tượng và đọc hiểu hình tượng: Hình tượng là lớp đời sống toả sáng sau ngôn từ. Con người đọc hiểu tác phẩm văn học qua các chi tiết xây dựng trên hình tượng bởi vì hình tượng là sự đan kết của các chi tiết tạo hình, tình tiết và sự kiện. Muốn các chi tiết, tình tiết trở thành hình tượng, người đọc phải có trí tưởng tượng , khả năng liên tưởng.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> để tái tạo trong tâm trí và hình tượng và đặc biệt cần đến vốn sống để giúp khả năng liên tưởng , tưởng tượng có hiệu quả hơn. + Cấp độ ý nghĩa của hình tượng và sự đọc hiểu ý nghĩa của hình tượng (ý nghĩa của tác phẩm) Đọc hiểu chỉ sâu sắc khi đạt đến độ hiểu ý nghĩa hình tượng của tác phẩm. Ý nghĩa của tác phẩm có thể hiện trực tiếp qua ngôn ngữ của tác phẩm đồng thời còn có những ý nghĩa mà người đọc phải nghiên cứu kĩ tác phẩm mới phát hiện ra. + Cấp độ tư tưởng của tác phẩm và sự đọc hiểu ý nghĩa của tư tưởng Tư tưởng của tác phẩm là cấp độ cao hơn ý nghĩa, chính tư tưởng tác phẩm là một nội lực mãnh liệt, là nhu cầu bức bách khiến nhà văn cầm bút. Muốn đọc hiểu được tư tưởng của tác phẩm cần dựa vào những lời nói trực tiếp của nhà văn và nhân vật, có thể dựa vào lôgic của sự miêu tả và cảm hứng của tác giả trong tác phẩm. Đó chính là chân lí, cái thiện hay sự phê phán cái ác cái xấu xa.. 2.2. THỰC TRẠNG DẠY TẬP ĐỌC * Thuận lợi Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu, giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng, trau dồi chuyên môn qua công tác dự giờ, kiểm tra, chuyên đề, tạo mọi điều kiện hỗ trợ giúp giáo viên giảng dạy tốt… Bản thân giáo viên luôn phấn đấu, có lòng yêu nghề mến trẻ, tận tụy với học sinh, tích cực thực hiện mục tiêu nhà trường đề ra. Nắm bắt phương pháp giảng dạy và vận dụng sáng tạo. Nhà trường luôn khuyến khích giáo viên giảng dạy bằng phương tiện công nghệ thông tin để giúp học sinh hứng thú học tập trước phương pháp mới. Có rất nhiều tài liệu, tư liệu phục vụ cho việc soạn giảng như: Sách giáo khoa, tư liệu tham khảo, máy tính, máy chiếu, hình ảnh, thông tin, bài giảng tham khảo…từ mạng Internet. * Khó khăn: Do khả năng đọc hiểu văn học của giáo viên chưa đồng đều, khả năng tiếp thu và vận dụng các phương pháp dạy học mới chưa triệt để nên trong tiết dạy.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Tập đọc đa số giáo viên chỉ chú trọng đến việc đọc, thực hiện theo các bước lên lớp, đúng quy trình mà chưa đi sâu vào phần tìm hiểu nội dung, khai thác ý đồ nghệ thuật của tác giả (mặc dù chỉ là đơn giản). Một số giáo viên lại giảng quá kĩ các từ khó, xem nhẹ phần luyện đọc nên giờ Tập đọc lại trở thành giờ Luyện từ. Trong các giờ Tập đọc giáo viên thường hay gọi những học sinh đọc tốt tham gia đọc bài mà ít chú trọng đến những học sinh trung bình, nhút nhát nên giờ học đôi khi trở thành hình thức. 2.2.1. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN a. Thuận lợi: Trẻ em ngay từ tuổi thơ đã sớm tiếp xúc với văn chương qua tiếng mẹ đẻ. Thực tế những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích hấp dẫn, những bài đồng dao, những câu chuyện thần thoại mà các em được nghe kể đã tạo tiền đề tự nhiên để giúp trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp, cái nhân văn của từng tác phẩm. Đó chính là tiền đề để để giúp trẻ cảm nhận tốt hơn các tác phẩm văn chương sau này. Nhiệm vụ và chức năng của môn Tiếng Việt là dạy tiếng và dạy văn. Quan điểm của chương trình là: Lấy văn làm cơ sở dạy tiếng vừa để làm công cụ tư duy và giao tiếp, vừa để làm công cụ tư duy và giao tiếp phục vụ cho việc học văn. Nhờ đó học sinh học tiếng vững chắc hơn và học văn sẽ đạt hiệu quả hơn. b. Khó Khăn: Một số học sinh chưa thích đọc các tác phẩm văn học. Lí do có thể là do tác phẩm văn học đó chưa hấp dẫn, chưa phù hợp với lứa tuổi hay không có thời gian để đọc. Cũng có thể là các em đó chưa hiểu những điều tác giả viết hoặc có thể những tác phẩm đó viết những điều không có thật mà em nhận thấy là không tưởng… Thực tế về nhu cầu và nhận thức của học sinh Tiểu học khi đọc sách cho thấy có một số vấn đề mà mỗi giáo viên và mọi người cần quan tâm đó là: * Nhu cầu đọc sách, các tác phẩm văn học của học sinh là rất lớn. Đó chính là thế mạnh giúp chúng ta giáo dục thế hệ trẻ nhưng cần có định hướng.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> đúng đắn về nội dung và chất lượng sách. Tránh cho các em đọc những tác phẩm không lành mạnh, không phù hợp với lứa tuổi. * Giúp học sinh thấy được mối quan hệ giữa văn học và các bộ môn khác nhằm phát huy cao nhất những tác dụng của văn học. Gia đình, nhà trường cần tạo điều kiện tốt nhất để trẻ em tiếp cận với văn học. 2.2.2. THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ a.Thành công: - Học sinh lớp 4 rất say mê nghệ thuật và đặc biệt là văn học. Có tới 90 % các em thích đọc truyện trong đó có các tác phẩm văn học. - Các tác phẩm các em thích đều rất phù hợp với lứa tuổi, với đặc điểm tâm, sinh lí: như bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” - trích trong tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài; “Góc sân và khoảng trời” - của nhà thơ Trần Đăng Khoa,…Các câu chuyện trong phân môn Kể chuyện như “Búp bê của ai?”; “Sự tích hồ Ba Bể”… Văn học đã để lại cho các em những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc. Văn học đã có những ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tâm hồn các em. Hầu hết các em đều khẳng định: Văn học giúp các em hiểu biết nhiều điều trong cuộc sống xã hội, giúp các em hiểu biết thêm về mọi sự vật hiện tượng và thế giới quan xung quanh ta. Hầu hết học sinh có hứng thú khi đọc các tác phẩm có trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4, Số ít học sinh không thích đọc là do khả năng đọc của học sinh còn hạn chế. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 đã có nhiều cố gắng trong việc biên soạn đó là phổ cập kiến thức Tiếng Việt qua các phân môn để rèn luyện 4 kĩ năng: nghe, đọc, nói, viết cho học sinh. Phân môn Tập đọc tích hợp việc dạy văn với việc dạy tiếng có nhiều ưu điểm nổi bật : - Đưa văn bản có giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung với nhiều thể loại khác nhau: văn, thơ, truyện, kịch…. Như: “ Truyện cổ nước mình”( thể loại thơTV4/1), “Đôi giày ba ta màu xanh”(văn) TV4/1, “ Ở vương quốc tương lai”.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> ( kịch)- TV4/1, “Một người chính trực” ( Truỵên lịch sử)- TV4/1, “ Thư thăm bạn” -TV4/T1- thể loại văn viết thư … - Sách đề cập đến nhiều mặt phong phú của cuộc sống con người phù hợp với lứa tuổi học sinh, có tác dụng giáo dục nhân cách, đạo đức và thẩm mĩ… cho trẻ. b. Hạn chế: Hiệu quả đọc hiểu bài đọc của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào sự hướng dẫn, gợi mở của người thầy. Các tác phẩm văn học ấy sẽ càng có tác dụng cao hơn nếu người đọc đọc hiểu được các bài đọc tốt nhất. Vì vậy, người giáo viên cần trau dồi khả năng đọc hiểu văn của chính mình để đưa ra những biện pháp hữu hiệu giúp học sinh đọc hiểu tốt nhất tác phẩm văn học. Ngoài ra giáo viên cũng cần chú ý đến những đối tượng học sinh chưa hứng thú với môn học này, bằng cách gợi mở nhẹ nhàng, hướng dẫn các em từng bước từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp để các em không căng thẳng mà dần dần say mê với môn học. Đó là một trong những yếu tố quan trọng giúp các em học tốt môn học này. 2.2.3. NGUYÊN NHÂN, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG Việc áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy của một số giáo viên còn ít, có giáo viên còn ngại dạy thiết kế bài dạy và dạy trên máy chiếu. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu, số máy chiếu ít, máy tính cá nhân còn ít do đó nhiều giáo viên chỉ ứng dụng công nghệ thông tin cho thao giảng, dự giờ còn thường ngày vẫn dạy theo kiểu truyền thống. Điều này chưa thật sự phát huy hết khả năng của việc đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy. Đa phần học sinh tiếp thu chưa đầy đủ những nội dung giáo viên truyền đạt, chưa biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Một số học sinh rất tích cực học tập còn một số em chưa chú ý, còn làm việc riêng, khả năng tiếp thu bài học không đồng đều và nắm nội dung bài chưa sâu. Các câu trả lời của học sinh còn phụ thuộc nhiều vào nội dung câu văn trong bài mà chưa biết cách chọn ý trả lời hoặc chưa biết biến câu của tác giả thành câu nói của mình. Những.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> điều nêu trên làm cho học sinh chưa cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của bài học. * Khảo sát thực tế Vào đầu năm học, tôi đã khảo sát chất lượng đọc của học sinh lớp 4A và lớp 4B kết quả cụ thể như sau: Điểm 1-2 3-4 5-6 7-8 9-10 TS HS. Lớp thực nghiệm( 4A) TS % 3 13 4 2 22. 13.0 60.0 18.0 9.0. Lớp đối chứng (4B) TS % 4 13 5 1 23. 17.0 57.0 22.0 4.0. 2.3. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 2.3.1. MỤC TIÊU CỦA GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP Mục tiêu hàng đầu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng: nghe, đọc, nói, viết để học tập và giao tiếp. Cụ thể đối với lớp 4 ngoài kĩ năng đọc còn có yêu cầu về tìm hiểu nội dung bài đó là: Bước đầu cảm nhận được vẻ đẹp của một số bài văn, bài thơ, đoạn kịch của Việt nam và thế giới. Nhận biết được các câu văn, hình ảnh, chi tiết có giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ, màn kịch đã học”. Đọc thành tiếng để củng cố kĩ năng đọc đúng: giáo viên nghe học sinh đọc sau đó nhận xét, gợi ý và hướng dẫn về cách phát âm, cách ngắt nghỉ, tốc độ đọc giúp học sinh có khả năng đọc tốt hơn. Đọc thành tiếng để luyện học sinh đọc hay (đọc diễn cảm): Giáo viên căn cứ vào nội dung, phong cách văn bản để dẫn dắt, gợi ý học sinh tìm ra cách đọc, tập thể hiện bằng giọng đọc, bước đầu ý thức được cách đọc nhằm diễn tả nội dung một cách tốt nhất. Việc yêu cầu đọc diễn cảm ở mức độ nào và việc hướng dẫn luyện đọc diễn cảm như thế nào để phát huy tính tính tích cực và sáng tạo cuả học sinh là.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> một vấn đề mà tôi rất quan tâm trong giờ Tập đọc. Một trong những biện pháp hiệu quả là để bồi dưỡng đọc hiểu là đọc diễn cảm có sáng tạo. Giúp trẻ nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ và khích thích các em khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương. Muốn dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của người học, giáo viên cần phải tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh nhằm mục đích: - Huy động khả năng của từng học sinh để khám phá, tìm tòi ra nội dung cuả bài Tập đọc. - Tạo điều kiện và có phương tiện để học sinh phát hiện ra các tình huống và có cách giải quyết các tình huống đó theo hướng tích cực. - Phát triển năng lực của mỗi cá nhân, tạo cho các em có niềm tin, hứng thú và sự say mê trong học tập. Mục đích của việc dạy Tập đọc ở Tiểu học là dạy Tiếng Việt kết hợp với dạy văn. Trong chương trình dạy Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, phân môn Tập đọc có vị trí quan trọng hàng đầu. Dạy tốt phân môn này là đáp ứng một trong 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là kĩ năng đọc. Trước tiên Tập đọc là rèn kĩ năng đọc đúng sau đó là đọc nhanh và đọc diễn cảm. Nhờ đó học sinh sẽ có những hiểu biết về văn học, ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu những văn bản học sinh sẽ đọc đúng và diễn cảm. - Với mục đích của phân môn Tập đọc: dạy đọc hiểu, giúp học sinh đọc hiểu tốt văn học và hiểu ngôn ngữ của văn chương. Đọc hiểu được bài văn có tác dụng giáo dục tình cảm, đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát huy tính sáng tạo và khả năng tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá cho học sinh. Chương trình Tập đọc ở Tiểu học và nhất là ở lớp 4, các bài văn đưa vào trong chương trình đều được lựa chọn, có nội dung hay cả về nội dung và nghệ thuật và có tính giáo dục sâu sắc đối với học sinh. Đặc biệt, đối với những bài văn miêu tả có rất nhiều những hình ảnh đẹp, âm thanh sinh động và cả màu sắc.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> tươi sáng giúp học sinh cảm nhận. Trên nền ngôn ngữ ấy , học sinh có thể tưởng tượng ra một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, từ đó giáo dục học sinh yêu đất nước, yêu quê hương và yêu con người. 2.3.2. NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN Biện pháp 1: Nắm vững mức độ, yêu cầu về kĩ năng đọc hiểu lớp 4 a. Hiểu nghĩa các từ ngữ trong bài: Hiểu nghĩa của các từ ngữ trong bài là yêu cầu đầu tiên với người đọc. Sách Tiếng Việt 4 bước đầu hướng dẫn học sinh hiểu cách cảm nhận nghĩa cuả các từ ngữ trong văn cảnh cụ thể của bài. Ví dụ: Câu hỏi: Vì sao chú bé Hiền được gọi là “ông Trạng thả diều”? - Trong bài “Ông Trạng thả diều”- TV4/1. Học sinh cần dựa vào những điều đã được nói đến trong bài để nêu được vì cậu bé Hiền là một cậu bé thông minh, ham học hỏi, có ý chí vượt khó, đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi, cái tuổi mà trẻ em vẫn ham thả diều, đá bóng. Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên nhưng vẫn thích thả diều vì thế mà được gọi là “Ông Trạng thả diều”. Ở những bài Tập đọc thuộc văn bản nghệ thuật, việc hiểu ý nghiã một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật là yêu cầu rất quan trọng. Ở nhiều bài, nhà văn, nhà thơ đã rất tinh tế trong cách sáng tác. Vì vậy giáo viên phải có biện pháp giúp học sinh huy động vốn hiểu biết của mình để phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức đó một cách sáng tạo. Ví dụ: Trong bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, ( TV4/1) nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng. Hình ảnh “mặt trời” được diễn tả trong hai câu cuối của đoạn thơ với hai ý nghĩa khác nhau..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Trong câu “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi”, hình ảnh “mặt trời” gợi cho ta nghĩ đến nguồn ánh sáng và những tia nắng ấm áp giúp cho cây bắp lớn lên. hạt bắp thêm chắc mẩy. Vì vậy, có thể nói là “mặt trời của bắp” - Trong câu “Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”, hình ảnh “mặt trời” gợi cho ta liên tưởng đến em bé (người con) đang nằm trên lưng mẹ. Em bé được mẹ che chở bằng tình yêu thương. Em bé là niềm hi vọng lớn lao và đẹp đẽ của người mẹ. Vì vậy, có thể nói: em là “mặt trời của mẹ” Trong câu thơ cuối, “mặt trời” được dùng với phép ẩn dụ (so sánh ngầm). Những yêu cầu như bài học này sẽ để lại trong học sinh ấn tượng về nghệ thuật dùng từ độc đáo của nhà văn, từ đó biết chú ý tìm hiểu và thưởng thức vẻ đẹp của ngôn từ cùng như sự sáng tạo của nhà văn. * Trong một số tác phẩm văn học vốn hàm xúc và có nhiều tầng ý nghĩa. Việc đọc hiểu văn bản nghệ thuật thực chất là công việc khai thác hàm ý ẩn sâu trong câu, chữ, hình ảnh, hình tượng của tác phẩm. Đối với học sinh Tiểu học, yêu cầu này là tương đối khó đối với các em. Tuy nhiên một bài Tập đọc, trong ngữ cảnh thuận lợi sách giáo khoa vẫn đưa ra những câu hỏi yêu cầu tìm hàm ý của câu văn, câu thơ. Ví dụ: Trong bài Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy (TV4/1) có đoạn Bão bùng thân bọc lấy thân Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm. Thương nhau tre chẳng ở riêng Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người. -Trong đoạn thơ này, tác giả sử dụng cách nói nhân hoá để nói về những phẩm chất tốt đẹp của tre: sự đùm bọc, đoàn kết. Nhân hoá ở đây nghĩa là gán cho tre những đặc tính của người: những thân tre bao bọc, che chở cho nhau; tay tre ôm níu nhau quấn quýt; họ hàng nhà tre sống quây quần, ấm cúng bên nhau… - Cách nói nhân hoá làm cho cảnh vật trở nên sinh động. Những cây tre như những sinh thể mang hồn người..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Cách nói này giúp tác giả thể hiện được hai tầng nghĩa: vừa nói được những phẩm chất tốt đẹp của cây tre Việt Nam, vừa nói được những phẩm chất tốt đẹp, những truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Như vậy việc hướng dẫn học sinh khai thác hàm ý của lời nói một cách hợp lí đảm bảo tính vừa sức của sách Tiếng Việt 4 và giúp học sinh làm quen với kĩ năng đọc hiểu , khám phá những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm văn học làm tiền đề cho học sinh học tiếp lên các lớp học trên. b. Cảm nhận hình ảnh, tái hiện hình ảnh Một trong những đặc điểm của văn bản nghệ thuật là giàu hình ảnh. Sách Tiếng Việt 4 dạy cho các em biết cảm nhận hình ảnh trong các tác phẩm văn học nhưng không yêu cầu các em phải nêu rõ thế nào là hình ảnh? Các câu hỏi đưa ra cho học sinh thường đã hàm chứa gợi ý để các em có thể tự cảm nhận được các hình ảnh trong bài học. Ví dụ: Trong bài “ Bè xuôi sông La”, TV4/2 nhà thơ Vũ Duy Thông có viết: Sông La ơi sông La Trong veo như ánh mắt Bờ tre xanh im mát Mươn mướt đôi hàng mi Hãy cho biết: Đoạn thơ miêu tả những nét đẹp gì của dòng sông La. Qua đoạn thơ, em thấy dược tình cảm của tác giả với dòng sông quê hương như thế nào? Giáo viên hướng dẫn để học sinh thấy: Nước sông La “Trong veo như ánh mắt”: ý nói nước sông rất trong như ánh mắt trong trẻo và chứa chan tình cảm của con người. - Bờ tre xanh mát bên sông “Mươn mướt đôi hàng mi”: ý nói bờ tre rất đẹp, đẹp như hàng mi “mươn mướt” (bóng láng và mỡ màng, nhìn thấy thích mắt) trên đôi mắt của con người. Qua đoạn thơ ta thấy được tình cảm yêu thương tha thiết và gắn bó sâu nặng của tác giả đối với dòng sông quê hương..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Với các câu hỏi dạng như trên, qua nhiều bài Tập đọc, học sinh dần dần tự nhận biết được những hình ảnh gợi ra trong đoạn văn, đoạn thơ. Từ đó trí tưởng tượng của các em sẽ được phát huy, khả năng hiểu hình tượng văn học dần hình thành và phát triển. - Để hướng dẫn học sinh cảm nhận được những hình ảnh nghệ thuật, TV4 đã đưa ra nhiều câu hỏi khác nhau tạo hứng thú, tìm tòi và khám phá của học sinh. Ví dụ: * Trong bài tập đọc “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận TV4- tập 2, câu hỏi 3 như sau: Tìm những hình ảnh nói lên vẻ đẹp huy hoàng của biển. * Trong bài tập đọc “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ” của Nguyễn Khoa Điềm- TV4 - tập 2 có các câu hỏi: - Em hiểu thế nào là: “ Những em bé lớn trên lưng mẹ” - Tìm những hình ảnh đẹp nói lên tình yêu thương và niềm hi vọng của người mẹ đối với con. - Theo em cái đẹp thể hiện trong bài thơ này là gì? Giáo viên cần gợi ý hoặc tách nhỏ yêu cầu của câu hỏi để học sinh dễ trả lời. Có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn hoặc nhóm lớn, sau đó đại diện các nhóm trả lời, các nhóm khác bổ sung thêm. Học sinh cần đưa ra được các ý: - Câu nói “ những em bé lớn trên lưng mẹ” : Nói đến những người phụ nữ miền núi đi đâu, làm gì cũng địu con trên lưng. Những em bé ấy cả những lúc ngủ hay lúc thức chơi cũng nằm trên lưng mẹ. Người mẹ lấy bờ vai gầy làm gối, vừa làm việc lưng vừa đung đưa như đưa nôi, hát thành lời bằng trái tim yêu thương của người mẹ những bài hát để ru con ngủ hết ngày này sang ngày khác và em đã lớn lên trên lưng của mẹ. - Những hình ảnh đẹp nói lên tình yêu thương của người mẹ đối với con: Lưng đưa nôi và tim hát thành lời, mẹ thương A-kay, mặt trời của mẹ em nằm trên lưng. Hình ảnh nói lên niềm hi vọng của người mẹ đối với con: Mai sau con lớn vung chày lún sân..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> - Cái đẹp thể hiện trong bài thơ là thể hiện được lòng yêu nước thiết tha và tình thương con của mẹ. Thực tế trong quá trình dạy học, giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo trong việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận các hình ảnh trong bài văn, bài thơ, trong các tác phẩm mà các em được học. * Một số bài tập yêu cầu học sinh tái hiện hình ảnh, cảnh vật mà các em hình dung và cảm nhận được. Với yêu cầu này học sinh trở thành người “ Đồng sáng tạo”. Các em chỉ có thể thực hiện tốt yêu cầu này khi khi hiểu được hình ảnh nghệ thuật. Các em phải miêu tả lại bằng lời của chính mình. Lời miêu tả của các em có bóng dáng của hình ảnh, cảnh vật được miêu tả trong bài học. Ví dụ: Trong bài “ Mẹ ốm” của nhà thơ Trần Đăng Khoa - TV 4/1 Em hiểu những câu thơ sau muốn nói điều gì? Lá trần khô giữa cơi trầu Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay Cánh màn khép mỏng cả ngày Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm hôm. Với câu hỏi này có thể học sinh không trả lời được ngay. Tôi sẽ gợi ý : Em hãy hình dung khi mẹ không bị ốm thì lá trầu, Truyện Kiều, ruộng vườn sẽ như thế nào? (lá trầu tươi để mẹ ăn trầu, Truyện kiều sẽ mở để mẹ đọc, mẹ sẽ ra ruộng vườn đề làm việc,…) từ đó học sinh sẽ có tìm được nội dung của đoạn thơ. - Những câu thơ trên gợi lên hình ảnh không bình thường của lá trầu, Truyện Kiều, ruộng vườn, cánh màn khi mẹ ốm. Lá trầu xanh mọi khi giờ để khô vì mẹ ốm không ăn được. Lúc khỏe mẹ hay đọc Truyện Kiều nhưng nay những trang sách đã gấp lại, rồi việc đồng áng cũng chẳng có người chăm nom. Cánh màn khép lỏng cả ngày làm cho mọi vật thêm buồn hơn khi mẹ ốm. Tái hiện lại hình ảnh, cảnh vật mà các em hình dung và cảm nhận được khi đọc bài là cách thức kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh, đánh giá khả năng diễn đạt của học sinh đồng thời cũng là một cách để rèn cho học sinh kĩ năng sắp xếp dàn ý cho bài văn..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> c. Nhận xét về nhân vật, về chi tiết nhân vật, biện pháp nghệ thuật. Việc luyện cho học sinh biết nhận xét nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật… là rất cần thiết bởi nó phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong quá trình đọc hiểu và học tập. Thông qua đó học sinh biết bộc lộ cảm xúc, cách nghĩ của mình trước những vấn đề của cuộc sống. Trong nhiều bài tập đọc: học sinh được khuyến khích phát biểu nhận xét riêng của mình về nhân vật (cử chỉ, lời nói, hành động, phẩm chất…), về các biện pháp nghệ thuật làm nên cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Ví dụ: - Theo em, nhờ đâu mà Bạch Thái Bưởi thành công? (Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi - TV4/1) - Theo em, học sinh phải rèn luyện những phẩm chất gì? Lấy ví dụ về những biểu hiện của một học sinh không có ý chí ? (Có chí thì nên- TV4/1). - Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Ga- vrốt. (Ga- vrốt ngoài chiến lũyTV4- Tập 2). Với những câu hỏi nêu trên , học sinh luôn đặt mình trong tình huống có vấn đề để các em bộc lộ cách hiểu, cách nghĩ cách đánh giá của riêng mình về một nhân vật hoặc một vấn đề phù hợp với lứa tuổi. d. Nhận biết về tư tưởng, tình cảm của tác giả Mỗi tác phẩm văn học là một thông điệp của nhà văn gửi tới bạn đọc. Người đọc cần phải cảm nhận được thông điệp đó mới thực sự thấu hiểu tác phẩm. Sách Tiếng Việt 4 đã chú ý tới việc luyện cho hoc sinh biết chia sẻ cảm xúc, tâm tình với tác giả và ý thức tìm hiểu khám phá những điều tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Nhiều câu hỏi của bài Tập đọc yêu cầu học sinh bộc lộ cảm nhận của mình về tâm trạng, cảm xúc, thái độ, nỗi lòng của nhà văn, nhà thơ. Ví dụ: + Bài văn thể hiện tình cảm gì của tác giả đối với quê hương?( “Quang cảnh làng mạc ngày mùa’’, TV5-Tập 1) + Theo em tác giả viết bài thơ này để làm gì?.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> a. Kể chuyện Cáo gian ác mắc mưu Gà Trống. b. Kể chuyện gà Trống đã làm Cáo sợ mất vía. c. Khuyên người ta đừng vội tin những lời nói ngọt ngào. ( Gà Trống và Cáo- TV4- Tập 1) + Tác giả của bài văn đã làm gì để động viên cậu bé Lái trong ngày đầu đến lớp? Tại sao tác giả lại chọn cách như vậy? (Đôi giày ba ta màu xanhTV4/1). + Bài thơ thể hiện tình cảm của tác giả đối với quê hương đất nước như thế nào? (Trăng ơi... từ đâu đến- TV4/2). + Bài văn thể hiện tình cảm của tác giả đối với cảnh đẹp Sa Pa như thế nào? (Đường đi Sa Pa - TV4/2). Qua những câu hỏi như trên, sách giáo khoa đã bước đầu hình thành ở học sinh năng lực đồng cảm, chia sẻ với những nỗi niềm, những tâm sự của tác giả nói riêng và của mọi người xung quanh các em nói chung. e. Hiểu ý nghĩa, giá trị của tác phẩm Sự tồn tại cuả mỗi tác phẩm trong cuộc đời bao giờ cũng mang một ý nghĩa riêng, giá trị riêng. Yêu cầu học sinh tìm hiểu được ý nghĩa, giá trị của tác phẩm được học là muốn từng bước rèn cho các em khả năng khái quát hoá văn bản học tập, đây là một thao tác tư duy rất cần thiết với mỗi người trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Với học sinh lớp 4, chương trình sách giáo khoa đưa ra những câu hỏi phù hợp với lứa tuổi và trình độ nhận thức của trẻ, chỉ yêu cầu học sinh trả lời ở mức đơn giản, phù hợp với nội dung bài học. Ví dụ: - Nêu ý nghĩa của bài thơ ? (Bài thơ về Tiểu đội xe không kính- TV4/2). - Câu chuyện giúp em hiểu những gì về các nhà thám hiểm?( Hơn một nghìn ngày vòng quanh trái đất- TV 4- tập 2) Với những câu hỏi tìm hiểu như trên, Sánh giáo khoa TV4 đã chuẩn bị cho học sinh một kiến thức vững vàng, tự tin để học tiếp lên các lớp trên. Nhiều bài đọc có giá trị thẩm mĩ cao sẽ theo các em suốt tuổi học đường, góp phần.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> hình thành cho các em hứng thú học tập, lòng say mê tìm hiểu thế giới xung quanh qua các tác phẩm văn học..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh luyện đọc trong giờ Tập đọc (Học sinh tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm) a. Đọc thành tiếng: - Đối với văn bản nghệ thuật: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc trong bài trong bài văn, đoạn kịch hay bài thơ. Đọc diễn cảm còn phụ thuộc vào sự cảm nhận riêng của từng cá nhân học sinh. Chính vì vậy giáo viên cần khuyến khích học sinh đọc sáng tạo, không nên áp đặt một cách đọc khuôn mẫu. Giáo viên tổ chức luyện đọc thành tiếng qua nhiều hình thức: Đọc cá nhân( đọc riêng lẻ, đọc nối tiếp từng câu, đoạn,…); đọc đồng thanh khi cần thiết trong trường hợp cần khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu đọc của đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ đoạn văn, bài thơ cần đọc thuộc. Thay đổi hoạt động trong giờ học, tạo không khí hào hứng cho lớp học. Tổ chức cho học sinh đọc phân vai( phối hợp nhiều học sinh đọc và mỗi học sinh diễn tả được một trạng thái tâm lí của một nhân vật…). b. Đọc thầm Đọc thầm với tốc độ nhanh và hiệu quả cao: nắm bắt đúng, đủ thông tin cơ bản, đọc hiểu tốt nghệ thuật trong thời gian ngắn. Đây là mục đích yêu cầu cơ bản của hoạt động đọc nói đúng. Đọc thầm để tìm hiểu bài theo yêu cầu đề ra (trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập ngắn). Giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng trong việc đọc hiểu( đọc đón văn hay khổ thơ nào), đọc để biết hay để hiểu họăc là để trả lời trước lớp). Từng bước hình thành thói quen đọc thầm cho học sinh, tập trung chú ý khi đọc thầm để thu hút thông tin một cách đầy đủ và cảm nhận được văn bản. Đọc thầm (đọc lướt) để nắm nội dung, tóm tắt nội dung, ý chính, chọn ý cho phù hợp… Giáo viên cần từng bước đề ra nhiệm vụ hay yêu cầu từ dễ đến khó cho học sinh làm quen dần với cách đọc thầm nhanh( để phát hiện những từ ngữ được lặp lại, gợi tả, nhân hoá,…). Đọc thầm để tìn hiểu nội dung của.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> từng đoạn, để biết cảm xúc của tác giả hay tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài văn, bài thơ, kịch bản,… Đọc lướt toàn bài để tìm ra hành động hay tính cách của nhân vật… Giáo viên cần luyện đọc cho học sinh đọc thầm nhanh có hiệu quả cao nhất để học sinh nắm được nội dung bài. Luyện đọc tốt trong giờ Tập đọc sẽ góp phần giúp học sinh đọc hiểu được tác phẩm. Biện pháp 3: Hướng dẫn tìm hiểu bài có hiệu quả. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhằm mục đích trau dồi kĩ năng đọc - hiểu nắm bắt thông tin, góp phần nâng cao năng lực đọc hiểu và tạo cơ sở cho học sinh luyện đọc diễn cảm. Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt kết quả tốt, ngay khi học sinh tiếp cận văn bản chúng ta đã nêu yêu cầu nhằm giúp học sinh nắm được mục đích đọc đúng (luyện đọc), giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa một số từ ngữ có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc - hiểu từ ngữ được chú giải ở sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen, các từ ngữ quan trọng giúp hiểu nôị dung bài hoặc các từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh nổi bật trong bài… Dựa vào các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài theo một số yêu cầu sau: - Nêu rõ câu hỏi, định hướng cho học sinh đọc thầm( đoạn, cả bài); trả lời đúng nội dung yêu cầu của câu hỏi. Có thể kết hợp cho một học sinh đọc thành tiếng, những học khác đọc thầm sau đó trao đổi, thảo luận theo nhóm( nhóm đôi, nhóm bàn…) vấn đề giáo viên nêu ra. Ví dụ: Trong bài: “ Điều ước của vua Mi - đát” (TV4/1), giáo viên gọi một học sinh đọc thành tiếng, cả lớp đọc thầm đoạn cuối của bài và cho cô biết : Vua Mi - đát đã hiểu ra điều gì? (Câu hỏi4). (Hạnh phúc không thể xây dựng bằng ước muốn tham lam)..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Tuỳ theo trình độ của học sinh, giáo viên có thể cho học sinh trả lời hết câu hỏi hoặc tách câu hỏi ra làm nhiều câu hỏi nhỏ hoặc gợi mở, dẫn dắt thêm cho học sinh. Ví dụ: Trong bài Chú Đất Nung - TV4/1 câu hỏi: Theo em câu nói “cộc tuếch” của Đất Nung có ý nghĩa gì? (Câu hỏi 3) Trên thực tế câu hỏi này rất khó đối với học sinh. Tôi phải cho học sinh nhắc lại câu nói “cộc tuếch” của Đất Nung: “ Vì các đằng ấy ở trong lọ thủy tinh mà.” Sau khi học sinh nhắc lại rồi tôi hỏi tiếp: Vậy khi ở trong lọ thủy tinh thì có được tiếp xúc với không khí và ánh sáng, nhiệt độ hoặc mọi va chạm bên ngoài không? Từ đó các em thấy câu nói của Đất Nung có ý nghĩa đó là: Muốn trở thành người khỏe mạnh, làm được nhiều việc có ích thì phải có can đám, giám nung mình qua lửa hay chính là phải trải qua các gian nan, thử thách. + Quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần yêu cầu học sinh giải nghĩa từ ngữ để hiểu nội dung bài, ý nghĩa bài học. Khi tiếp xúc với văn bản từ bước luyện đọc , để tìm hiểu nội dung bài học học sinh cần hiểu nghĩa các từ khó. Việc tìm hiểu từ ngữ được thực hiện nhẹ nhàng, kết hợp với luyện đọc vừa giúp cho học sinh đọc tốt và chuẩn bị cho việc tìm hiểu bài được thuận lợi. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài theo các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững được ý chính và hiểu nội dung bài, bước đầu phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản. Giai đoạn luyện đọc đã giải nghĩa từ ngữ khó nên ở phần tìm hiểu bài chúng ta không nên giải nghĩa nữa để tránh mất thời gian và giờ tập đọc lại thiên về dạy từ ngữ. Tuy vậy, vẫn có những bài mà có những từ ngữ được sử dụng có tính nghệ thuật cao hoặc sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì giáo viên vẫn cần giúp đỡ học sinh hiểu sâu hơn nội dung của từ ngữ đó và giá trị nội dung, nghệ thuật của nó. Ví dụ: Bài “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” của Tô Hoài - TV4/1 Câu hỏi 4: Nêu hình ảnh nhân hóa mà em thích? Cho biết vì sao em thích..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Học sinh nêu ra các hình ảnh so sánh trong bài như: người bự những phấn như mới lột, hai cánh mỏng như cánh bướm non,... Từ hình ảnh so sánh trên để làm nổi bật được một bên là chị Nhà Trò yếu đuối với một bên là bọn nhện độc ác, hung hăng. Ví dụ: Trong bài “ Dòng sông mặc áo” của Nguyễn Trọng Tạo - TV4/2 . Câu hỏi 3: Cách nói “dòng sông mặc áo” có gì hay? Đây chính là biện pháp nghệ thuật nhân hóa trong bài đã nhân hóa dòng sông như một con người với cách thay đổi màu sắc theo dòng thời gian và cũng có tâm trạng vui vẻ, phấn khởi như người được mặc lên mình những bộ áo mới đẹp nhằm ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông quê hương. Giảng từ “ hây hây”- màu đỏ phơn phớt nhưng chứa đựng sự vui vẻ, tươi tắn xen lẫn sự tự tin... Biện pháp 4: Khuyến khích đọc diễn cảm có sáng tạo Ở lớp 4, học sinh thực hành đọc diễn cảm nhiều hơn. Kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật được luyện tập sau khi học sinh đã đạt được yêu cầu tối thiểu về trình độ đọc (đọc đúng, rõ ràng, rành mạch). Sau khi học sinh tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa của bài, tôi mới hướng dẫn đọc diễn cảm và diễn cảm có sáng tạo. Trước hết học sinh tìm giọng đọc, giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống, thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhận vật... và nội dung miêu tả trong văn bản. Hướng dẫn học sinh luyện tập để từng bước đạt yêu cầu theo các mức độ từ thấp đến cao như sau: - Biết nhấn giọng ở các từ ngữ quan trọng (từ ngữ gợi tả , gợi cảm, từ làm nổi bật ý chính,... - Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, trường độ, cường độ,.) phù hợp với từng loại câu: câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm. - Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật. - Biết đọc phân biệt lời nhân vật phù hợp với lứa tuổi, tính cách (già, trẻ, người tốt, người xấu,...) - Biết sử dụng ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hay thái độ cảm xúc cuả tác giả (vui, buồn, giận dữ,....).

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Tôi thường hướng dẫn học sinh luyện đọc qua các biện pháp: đọc mẫuphát hiện cách đọc- thực hành luyện đọc- thi đua đọc diễn cảm (tránh phân tích quá sâu và chi tiết về cách đọc). Sau khi học sinh hiểu bài đọc, gợi ý để học sinh phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế và có cách đọc phù hợp. Ví dụ:. Bài “Khuất phục tên cướp biển” - TV4/2 ...Chủ tàu trừng mắt /nhìn bác sĩ quát:// - Có câm mồm không ?// Cơn tức giận của tên cướp biển thật dữ dội.// Hắn đứng phắt dậy,/ rút soạt. dao ra,/ lăm lăm chực đâm.// Bác sĩ Ly vẫn dõng dạc /và quả quyết: // - Nếu anh không cất dao, tôi quyết làm cho anh bị treo cổ/ trong phiên tòa sắp tới.// - Đoạn văn vừa rồi đọc với giọng như thế nào? Các em cần nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói nhân vật cần đọc với giọng ra sao?... - Giọng đoạn đầu hống hách, sau đó bực tức, hằn học, đoạn sau dứt khoát, rõ ràng, dõng dạc. Giọng tên chúa tàu hống hách, kiêu căng, giọng của bác sĩ điềm đạm nhưng kiên nghị. Câu nói của bác sĩ cần đọc rõ ràng, quả quyết đầy sức thuyết phục. Cần chú ý và nhấn giọng ở các động từ có trong đoạn văn: đứng phắt dậy, rút soạt dao ra, chực đâm, dõng dạc, quả quyết, cất dao, bị treo cổ.... Đây là những từ ngữ bộc lộ hai tính cách khác biệt, hoàn toàn đối nghịch nhau và điều đó đã làm lên sự chiến thắng của bác sĩ Ly và sự thất bại của tên chúa tàu. Biện pháp 5: Bồi dưỡng vốn sống và trang bị kiến thức về văn học cho học sinh Đọc hiểu tác phẩm văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của học sinh nên muốn bồi dưỡng năng lực trước tiên phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Khi có vốn sống các em mới có khả năng liên tưởng để tiếp nhận tác phẩm . Trước hết là vốn trực tiếp của các em thông qua cuộc sống hàng ngày. Giáo viên cần tổ chức quá trình quan sát, tham quan thực tế để qua đó học sinh sẽ viết những gì mà học sinh thấy..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> - Khi học sinh tham quan, giáo viên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ cho học sinh. - Sau quan sát, làm quen với đối tượng các em cần ghi lại những gì mình tham quan, quan sát được. Bên cạnh việc tổ chức quan sát, tham quan chúng ta cần tổ chức các buổi ngoại khoá về Tiếng Việt, văn học như: Nghe nói chuyện về các nhà thơ, nhà văn, về các anh hùng liệt sĩ; tổ chức ngâm thơ, đọc thơ, thi đọc diễn cảm, thi kể chuyện, sưu tầm văn học, thi đóng trò chơi trong phân môn Tiếng Việt…Từ đó vốn sống của trẻ cũng được bồi dưỡng một cách gián tiếp. Qua sách vở vốn sống của trẻ cũng được nâng lên vì các kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu khoa học, văn học, kinh tế cũng như tâm tư tình cảm của các thế hệ đi trước hay hiện thực phần lớn đều được phản ánh trên các trang sách. Đọc nhiều sẽ tăng khả năng tiếp nhận lên nhiều, từ đây các em tìm hiểu và đánh giá được cuộc sống, thực hiện mối quan hệ tự nhiên và xã hội. Học sinh biết giao tiếp với thế giới bên ngoài và mọi người xung quanh. Đặc biệt khi đọc tác phẩm văn học các em không chỉ được thức tỉnh về mặt nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng được nâng lên, bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ. Vì vậy, người giáo viên cần xây dựng cho học sinh hứng thú và thói quen đọc sách. Đồng thời với việc bồi dưỡng vốn sống của học sinh một việc làm không thể thiếu được là cần phải trang bị cho đội ngũ giáo viên một số kiến thức cơ bản về văn học như khái niệm về hình ảnh, chi tiết, tác phẩm, các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, một số biện pháp tu từ ( nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ,…) Vậy: Muốn đọc hiểu được tác phẩm văn học cả thầy và trò phải có tri thức. Biện pháp 6: Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trong giờ Tập đọc nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. a.Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong giờ Tập đọc: - Căn cứ vào các mục đích trên, tôi đã cải tiến để tìm ra phương pháp dạy học để đạt hiệu quả cao như: Soạn sẵn các câu hỏi tìm hiểu bài đưa ra cho phù.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> hợp, lựa chọn cách giảng những từ ngữ, hình ảnh giúp học sinh đọc hiểu nội dung bài một cách dễ hiểu nhất mà phù hợp với khả năng học tập, nhận thức của lớp mình. Ví dụ: Bài “ Người ăn xin” TV4/1 Nếu không cho học sinh hiểu nghĩa từ “ lọm khọm” nghĩa là mô tả dáng vẻ già yếu, lưng còng chậm chạm thì học sinh không thấy hết được hình ảnh ồn lão ăn xin đáng thương. Chúng ta biết đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật là giàu hình ảnh, có sức biểu cảm và đa nghĩa. Vì vậy giáo viên cần giúp học sinh phát hiện ra những từ ngữ có tính nghệ thuật và đánh giá cảu chúng trong việc biểu đạt nội dung. Đó là các từ giàu tính biểu cảm như các từ láy, từ mang nghĩa bóng, đa nghĩa hay chuyển nghĩa... Ví dụ: Bài “ Sầu riêng”- TV4/2 Giáo viên cần giúp cho học sinh thấy giá trị của từ “ đam mê”, “ quyến rũ” trong việc miêu tả hương vị của của trái sầu riêng và thể hiện thái độ, tính cảm của tác giả trước hương vị đặc biệt của loại trái quý, trái hiếm của miền Nam. b.Sử dụng có hiệu quả các đồ dùng trực quan Trực quan là các yếu tố có khả năng tác động đến tất cả các giác quan của học sinh trong giờ học. Trực quan trong một giờ học có rất nhiều. Chúng ta nói đến trực quan không có nghĩa chỉ là tranh ảnh, vật mẫu mà trực quan bao gồm: - Tài liệu học tập (văn bản, câu hỏi, hình thức trình bày bài trong sách giáo khoa) đây là trực quan đầu tiên có tác dụng không nhỏ đối với học sinh. - Tranh ảnh, vật mẫu có liên quan đến nội dung bài… - Thiết kế bài giảng điện tử ) sử dụng máy chiếu cũng là một trực quan giảng dạy đạt hiệu quả cao nhưng cần sử dụng một cách hợp lí, thiết kế phông nền, cỡ chữ sao cho phù hợp, nội dung cô đọng và nhất là giáo viên cần khai thác chúng một cách hài hòa, phù hợp với tiến trình bài giảng. Tránh làm dụng bài giảng điện tử để cho học sinh xem tranh, xem phim ảnh,….

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Bản thân người thầy là một trực quan sinh động trong giờ học, nó được thể hiện qua giọng đọc, cách thể hiện bài giảng (trực quan âm thanh), cách dẫn dắt vào bài, cử chỉ điệu bộ, thái độ tình cảm khi giảng bài …cách vào bài, chuyển ý hấp dẫn sẽ lôi kéo người học đến với các tác phẩm văn chương. Ta không nói đây là trực quan song tác dụng mà nó đem lại lớn hơn rất nhiều trực quan hình ảnh mà ta hay có. Trực quan có rất nhiều nhưng chúng ta cần sử dụng trực quan như thế nào đem lại hiệu quả tối ưu nhất, đó là vấn đề mà các nhà giáo chúng ta cần lưu tâm. Việc sử dụng đồ dùng trực quan hình ảnh (như tranh ảnh, vật mẫu...) cần đúng lúc, đúng chỗ, để làm nổi bật những gì giáo viên cần tác động đến học sinh. Trong giờ học không phải bài nào cũng có trực quan hình ảnh. Với bài Tập đọc có trực quan, ta có thể sử dụng tranh ảnh, vật mẫu để giới thiệu bài gây hứng thú, kích thích tập trung của học sinh hay dùng để giảng từ khó,…Đối với những bài không có tranh ảnh, vật mẫu thì trực quan ở đây là người thầy đó là: mẫu mực trong cách ăn mặc, cư xử công bằng, tôn trọng đối với học sinh, giọng đọc cần thay đổi cho phù hợp với bài học và lôi cuốn học sinh. Giọng nói đều đều rất gây ức chế, chán nản cho người học. Người giáo viên cũng cần có sự thay đổi mình để học sinh không nhàm chán khi hàng ngày tiếp xúc với thầy cô. Ví dụ: Đưa vật thật : đôi gày ba ta để giải nghĩa từ “ba ta”; trong bài “ Đôi giày ba ta màu xanh” - TV4/1. c. Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học để kích thích hứng thú học tập trong giờ học + Tổ chức làm việc theo cặp, theo nhóm: nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, tạo cơ hội cho từng cá nhân được luyện tập. Giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: - Xác định sự cần thiết phải tổ chức cho học sinh làm việc theo cặp, nhóm; tính toán thời gian, số lần cho hợp lí. - Xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của từng nhóm, cặp. Thực hành luyện tập trong cặp, nhóm, chia sẻ kinh nghiệm, bày tỏ ý kiến trong nhóm… - Hình thành ý thức tự giác làm việc tinh thần kỉ luật của các cặp, nhóm….

<span class='text_page_counter'>(28)</span> - Giám sát, động viên giúp đỡ học sinh trong quá trình luyện tập của nhóm, cặp. Thực tế ở lớp tôi, tôi đã hình thành cho học sinh nhóm ngay từ khi vào đầu năm học. Mỗi bàn là một nhóm nhỏ, mỗi tổ là một nhóm lớn, khi đưa ra bài tập hoặc yêu cầu để học sinh thực hiện, các em đã có thói quen thực hiện theo nhóm của mình. + Tổ chức trò chơi học tập: - Nội dung trò chơi gắn liền với với bài học, phục vụ cho yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của bài. - Hình thức tổ chức trò chơi: gọn nhẹ, cách tiến hành đơn giản để tất cả học sinh đều có khả năng tham gia, luật chơi rõ ràng, chặt chẽ để đảm bảo tính công bằng. - Chuẩn bị đủ phương tiện, điều kiện trước khi tổ chức trò chơi. - Tuỳ thuộc vào thời gian, nội dung bài học mà giáo viên tổ chức trò chơi sao cho phù hợp. Có thể là thi đọc nối tiếp theo tổ(nhóm), thi đọc “truyền điện”, thi đọc truyện, kịch theo vai, “ thả thơ”…. Ví dụ: Bài “ Nếu chúng mình có phép lạ” -TV4/1 Tổ chức cho học sinh thi học thuộc lòng khổ thơ mình yêu thích bằng trò chơi “ Thả thơ – truyền điện” - Lớp chia làm 4 đội chơi theo 4 đơn vị tổ hàng ngày. Mỗi đội chơi cử ra 2 - 3 bạn tham gia vào trò chơi. - Cách chơi: Giáo viên cử 1 bạn làm người thả thơ và truyền điện. Bạn đó bắt đầu đọc: “Nếu chúng mình có phép lạ” và đọc tên đội đọc tiếp đoạn thơ. Khi đội khởi đầu đọc thuộc lòng khổ thơ mình thuộc có quyền chỉ định đội khác và khổ thơ mà đội đó sẽ phải đọc. Nếu đội được chỉ định mà không đọc thuộc thì chuyển cho người khác đọc nhưng số điểm sẽ bị trừ đi một nửa. Cứ như vậy hết lượt 4 đội chơi. Nếu có thời gian sẽ tổ chức 2 hoặc 3 vòng. Giáo viên có thể làm trọng tài cho trò chơi và phải là người hoạt náo viên tích cực nhất. - Kết thúc trò chơi, giáo viên tổng kết bình chọn đội thắng cuộc và tuyên dương. Với những đội còn lại, giáo viên cũng động viên học sinh để khích lệ tinh thần học tập cho cả lớp..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Biện pháp 7: Nâng cao chất lượng bài soạn và giờ dạy của giáo viên Chuẩn bị của giáo viên, học sinh: Để đọc hiểu tốt một bài văn, bài thơ đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kĩ của cả thầy và trò thì giờ dạy mới có hiệu quả mà người học mới có hứng thú để đọc hiểu tốt được tác phẩm văn học. * Chuẩn bị của giáo viên: - Đọc kĩ tác phẩm, tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của toàn tác phẩm. Nếu là đoạn trích cũng cần phải tìm hiểu nội dung của toàn tác phẩm, nắm rõ vị trí, nội dung riêng của đoạn trích - Xác định khối lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh, cần giáo dục , bồi dưỡng học sinh về mặt giá trị nào trong tác phẩm đó. - Chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng trực quan, tư liệu có liên quan đến bài. Đọc kĩ bài, tìm giọng đọc cho phù hợp với văn bản... - Thiết kế bài dạy trên máy tính là một hình thức tổ chức dạy học gây hứng thú cho người học và có hiệu quả cao. Học sinh rất thích thú học tập mà người dạy có điều kiện đưa ra nhiều tư liệu, hình ảnh và các câu đoạn dài cần hướng dẫn học sinh luyện đọc. Thiết kế nội dung trên máy sao cho gắn gọn, rõ ràng, nội dung khúc triết và phục vụ đúng yêu cầu bài dạy. - Chuẩn bị cách vào bài gây hứng thú cho người học. Có hệ thống câu hỏi hợp lí cho phần đọc hiểu bài, dẫn dắt chuyển ý sao cho nhẹ nhàng, lôi cuốn. Bản thân giáo viên phải đọc hiểu thấy được cái hay, cái đẹp trong mỗi tác phẩm và phải xây dựng cho mình một tâm lí hứng thú với bài giảng. * Chuẩn bị của học sinh: - Đọc trước bài và tập trả lời câu hỏi cuối bài theo hướng dẫn của giáo viên - Tìm hiểu các sự kiện xung quanh tác giả, tác phẩm hoặc tìm đọc tác phẩm. * Ví dụ: Khi học bài: “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” - TV4/1- Tôi hướng dẫn học sinh đọc trước bài ở nhà và tập trả lời các câu hỏi cuối bài. Tìm đọc tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài. 2.3.3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> - Việc xác định rõ được mục tiêu giờ dạy sẽ giúp cho người giáo viên định hướng được việc dạy của mình đó là: Dạy cái gì? Dạy để làm gì? Dạy cho ai?. - Việc tìm hiểu nội dung của bài qua tác phẩm văn chương đều phải đạt đến cấp độ cảm nhận được những điều tác giả muốn bộc lộ. Đích cuối cùng của việc dạy đọc hiểu văn học trong giờ Tập đọc là cảm nhận được tình cảm của tác giả và tình cảm của bản thân thông qua tác phẩm. Vì vậy để nâng cao hiệu quả giờ dạy, giáo viên cần xác định được mục đích đọc hiểu của bài, từ đó xây dựng nội dung bài dạy cũng như hệ thống câu hỏi phù hợp để giải quyết mục đích ấy. Ví dụ: Với bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”- TV4/2, mục đích đọc hiểu qua bài này là: - Hiểu được thế nào là “những em bé lớn trên lưng mẹ” - Những công việc của người mẹ dân tộc Tà-ôi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược . - Thấy được tình yêu thương và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với con cái. - Nhận thấy được cái đẹp thể hiện trong bài thơ. (Nội dung của bài thơ: Ca ngợi tình yêu nước, yêu con sâu sắc của người phụ nữ Tà-ôi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước). * Xây dựng hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài kết hợp với luyện đọc: - Việc tìm hiểu nội dung bài học qua tác phẩm văn chương đều phải đạt đến cấp độ cảm nhận được những điều tác giả muốn bộc lộ. Đó có thể là tâm sự về cuộc sống, về con người hay một quan niện sống trong xã hội... Nhờ hiểu nội dung bài đọc mà học sinh sẽ đọc tốt hơn và có thể đọc diễn cảm bài đọc. Để đạt được mục tiêu đọc diễn cảm chúng ta cũng cần bám chắc vào từ ngữ, chi tiết, hình ảnh trong văn bản học sinh mới hiểu được bài. - Hệ thống câu hỏi phải gắn gọn, cô đọng, hàm súc, câu hỏi gợi mở và có tác dụng định hướng cho học sinh đọc hiểu, hiểu được ý nghĩa của văn bản. Câu hỏi đưa ra không chỉ giới hạn trong kiến thức bài đọc mà cần phải có những câu.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> hỏi phát triển, kích thích sự tìm tòi cái mới. Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa nếu chưa phù hợp thì giáo viên có thể nghiên cứu điều chỉnh, thay đổi sao cho đạt hiệu quả cao trong việc tìm hiểu bài và đọc hiểu tác phẩm. Điều đó phụ thuộc vào tâm huyết của người giáo viên. Giáo viên có thể linh hoạt trong việc sử dụng câu hỏi tìm hiểu bài. Có thể cho học sinh tìm hiểu trước ở nhà, có câu hỏi có thể lồng ghép vào trong quá trình giảng từ khó, có những câu hỏi sử dụng sau khi học xong bài để kiểm tra khả năng đọc hiểu của học sinh. Các câu hỏi phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và khả năng nhận thức của trẻ. Tránh các câu hỏi quá khó, các câu hỏi buộc học sinh phải trả lời có hay không hoặc các câu hỏi có sức liên tưởng quá lớn, trừu tượng quá... Tóm lại: Giáo viên cần chọn câu hỏi thích hợp, cụ thể hoá, bám sát nội dung, chủ đề của bài. Đảm bảo thời gian quy định và định hướng trả lời đúng trọng tâm bài học. Hệ thống câu hỏi luôn được tiến hành song song với khâu đọc văn bản. Đọc hiểu tốt để đọc tốt bài và ngược lại đọc tốt bài sẽ đọc hiểu tốt văn bản. Ví dụ: Bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” của Tô Hoài - TV4 tập 1 Giáo viên đưa ra câu hỏi: Em có thể tặng cho Dế Mèn danh hiệu nào trong các danh hiệu sau đây: - Tráng sĩ. - Chiến sĩ. - Hiệp sĩ. - Dũng sĩ. - Võ sĩ. - Anh hùng.. Học sinh đưa ra các ý kiến của mình sau đó giáo viên có thể giải thích nghĩa các từ gần nghĩa đó và khẳng định các ý kiến của học sinh đưa ra như trên đều không sai nhưng ta cần lựa chọn phương án nào hay nhất và phù hợp nhất. * Luyện tập - Giáo viên cần luyện cho mình thói quen luyện đọc các bài đọc nhiều lần trước khi giảng dạy (ở phần chuẩn bị)..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Tự mình luyện đọc trong giờ dạy, có thể học tập cách đọc sáng tạo của một số học sinh có năng khiếu trong lớp. - Qua mỗi tác phẩm, bài đọc, giáo viên tự bộc lộ cảm xúc của mình bằng các bài viết để có thể làm bài tham khảo hoặc bài mẫu cho học sinh. - Luyện tập cho học sinh viết đoạn văn phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc mỗi bài tập đọc bằng các giờ trống, vào các buổi bồi dưỡng học sinh khá giỏi...Lúc đầu có thể học sinh chỉ đưa ra gọi là ý nghĩa hoặc nội dung của bài theo các câu hỏi gợi ý. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh gắn kết lại thành đoạn văn và viết thêm các phần mở bài, kết bài trở thành một bài văn hoàn chỉnh có nội dung đọc hiểu. 2.3.4. MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khoá nhằm hỗ trợ việc học phân môn Tập đọc a. Tổ chức cho học sinh đọc truyện, xem tư liệu,… Đọc là một nhu cầu không thể thiếu đối với con người. Qua sách vở vốn sống của trẻ cũng được nâng lên vì các kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu khoa học, văn học, kinh tế cũng như tâm tư tình cảm của các thế hệ đi trước hay hiện thực phần lớn đều được phản ánh trên các trang sách. Đọc nhiều sẽ tăng khả năng tiếp nhận lên nhiều, từ đây các em tìm hiểu và đánh giá được cuộc sống, thực hiện mối quan hệ tự nhiên và xã hội. Đối với học sinh đa số ham đọc sách và nhất là truyện. Chính vì vậy mà tạo điều kiện cho các em đọc truyện vừa thoả mãn được nhu cầu đọc của các em, vừa giúp các em có thêm kiến thức, hiểu biết phục vụ cho các bài học . Ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng tủ sách của lớp, tổ chức cho các em đọc vào các buổi đầu giờ (2 buổi/tuần). Ngoài ra còn có thể cho các em mượn mang về nhà đọc, sau cuối mỗi tuần đem đến để cho bạn khác mượn.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Là người cũng rất thích đọc truyện từ nhỏ nên tôi luôn nhớ các truyện mà mình đã từng đọc từ hồi nhỏ để mua, mượn hoặc định hướng cho học sinh tìm, mượn về đọc cụ thể như các truyện: - Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài. (Phục vụ bài: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu. TV4/1.) - Dế Mèn đã trải qua những cuộc phiêu lưu vào thế giới các loài vật, vượt qua cơ man nào là rủi ro và biến cố, nhưng từng bước Mèn vươn lên tự điều chỉnh, tự nhận thức để trở thành con người giàu lí tưởng và ham hiểu biết với bản lĩnh kiên cường của một trai tráng đầu đội trời chân đạp đất. Chúng ta sẽ được lạc vào thế giới loài vật gần gũi, thân thương với toàn những con vật gắn chặt với đời sống thôn quê dân dã như: bác Xiến Tóc, Võ sĩ bọ ngựa, Châu Chấu Voi, Ếch Cốm, Chuồn Chuồn - Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa. - Các loại báo: Hoa học trò, Thiếu niên tiền phong, Nhi đồng, Thiếu nhi dân tộc, Măng non,… - Trong các giờ đọc truyện ở thư viện, tôi đến cùng học sinh, hướng các em tìm các tác phẩm văn học nổi tiếng để đọc. Tôi thường giới thiệu qua nội dung câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh đọc. - Tôi thường xuyên tư vấn với cán bộ thư viện về các đầu sách có liên quan để cán bộ Thư viện có thể tham mưu với BGH nhà trừơng đặt mua các đầu truyện, các đầu báo hay cho học sinh đến thư viện đọc hoặc mượn. * Có khi tôi còn cho học sinh xem các tư liệu cũng như phim ảnh có liên quan đến nội dung bài học trong sách giáo khoa. Ví dụ như tư liệu về Nguyễn Ngọc Kí: Hiện nay đang là giảng viên một trường đại học. Đây là nhân vật trong câu chuyện “Bàn chân kì diệu” TV4- tập 1. Các thước phim về cuộc đời hoạt.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> động cách mạng của Bác (khi học 2 bài thơ: “Ngắm trăng” và “Không đề” TV4/2),.... b. Tham gia các hoạt động ngoại khóa: tham quan, du lịch Các hoạt động ngoại khóa như: nghe nói chuyện về các nhà thơ, nhà văn, về các anh hùng liệt sĩ; tổ chức ngâm thơ, đọc thơ, thi đọc diễn cảm, thi kể chuyện, sưu tầm văn học, thi đóng trò chơi trong phân môn Tiếng Việt…Từ đó vốn sống của trẻ cũng được bồi dưỡng một cách gián tiếp. Không phải ai sinh ra là đã có tâm hồn nhà thơ mà trong cuộc sống đã sản sinh ra các nhà thơ. Tất nhiên với học sinh Tiểu học, tôi không tham vọng để các em trở thành nhà thơ, nhà văn mà tôi muốn qua thực tế các em hiểu thêm về hoàn cảnh cũng như điều kiện mà các phẩm văn, thơ ấy được ra đời. Ví dụ: Trong đợt 22 - 12, Đội Thiếu niên TP Hồ Chí Minh của nhà trường có tổ chức hoạt động: Chúng em tập làm chiến sĩ. Tổ chức cho các em nghe giới thiệu về truyền thống của quân đội và đi tham quan thao trường, đội xe vận tải, xe tăng chiến đấu. Qua đây tôi cũng giới thiệu cho các em biết những chiếc xe ô tô tải đã từng tham gia chiến đấu mà các em được học qua bài thơ: “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính”, ... thao trường nơi các chú luyện tập có các giao thông hào, các ụ súng,...các em sẽ hiểu hơn khi học bài: Ga- vrốt ngoài chiến lũy,... Đây là một trong những biện pháp không sử dụng trực tiếp trong các giờ học nhưng chúng mang lại một hiệu quả rất lớn góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Tập đọc cho học sinh. Qua thực tế giảng dạy kết hợp những điều học hỏi, tham khảo từ đồng nghiệp, tôi đã đưa ra đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc hiểu cho học sinh lớp 4 khi học môn Tập đọc” giúp cho quá trình dạy của giáo viên và quá trình học của học sinh có hiệu quả hơn. 2.3.5. KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM Qua quá trình thực nghiệm bằng phương pháp trên, mặc dù kết quả đạt được chưa thật sự khả quan nhưng đó cũng là bước đánh dấu một phần khả năng và sự nỗ lực của cả thầy và trò trong thời gian qua:.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> - Giáo viên đọc mẫu truyền cảm, thể hiện được nội dung tư tưởng của tác phẩm, bước đầu hình thành cho học sinh được một số cảm nhận ban đầu về tác phẩm. - Sử dụng đồ dùng trực quan một cách hợp lí, kích thích được sự chú ý của học sinh. Nâng cao khả năng áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Có thêm thư viện bài giảng điện tử cho bản thân và nhà trường. Hệ thống câu hỏi vừa sức, phù hợp với trình độ nhận thức và tư duy của học sinh. Đa số các câu hỏi học sinh đều trả lời được. Các câu hỏi đọc hiểu đan xen nhẹ nhàng vào các phần. Các em đều hiểu được ý nghĩa của bài. - Trên cơ sở hiểu và đọc hiểu bài, học sinh xây dựng được cách đọc diễn cảm phù hợp với nội dung, tình cảm của từng bài. - Lớp học tương đối sôi nổi, hào hứng..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> 2.4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC Trong đợt kiểm tra của trường năm học 2011- 2012, Ban giám hiệu thăm lớp dự giờ và khảo sát chất lượng thực tế của lớp tôi, đã được đánh giá: “Lớp 4A là một lớp có phong trào học tập, có nề nếp tốt và đặc biệt là chất lượng học sinh khảo sát thực tế tại chỗ đạt hiểu quả cao”. Kết quả khảo sát 22/22 HS đạt như sau: Giỏi : 8 em đạt tỉ lệ: 36 % Khá : 12 em đạt tỉ lệ: 64 % Trung bình: 2 em đạt tỉ lệ: 8.0 % Không có học sinh loại yếu. So sánh, đối chứng ( Kết quả học lực môn Tiếng Việt cuối năm học) Điểm 1-2 3-4 5-6 7-8 9-10. Lớp thực nghiêm( 4A ) Số Trước Sau % TS % HS TS. 22. 3 13 4 2. 13.0 60.0 18.0 9.0. 0 2 11 9. Số HS. 0 9.0 23 50.0 41.0. Lớp đối chứng( 4B) Trước Sau TS % TS % 4 13 5 1. 18.0 57.0 21.0 4.0. 1 12 7 3. 4.0 53.0 30.0 13.0. Như vậy, bằng các biện pháp dạy học nói trên ngay trong lớp tôi giảng dạy chất lượng cuối năm của học sinh cũng đã có sự chuyển biến rõ rệt. Nhất là khi so sánh với lớp được đối chứng (4B) thì sự khác biệt càng rõ ràng hơn. Lớp tôi không còn học sinh yếu môn Tiếng Việt, học sinh trung bình cũng giảm đi và học sinh khá, giỏi tăng lên. 3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. KẾT LUẬN Việc dạy đọc hiểu văn học cho học sinh Tiểu học là rất khó nhưng không có nghĩa là không thể làm được..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Qua việc thực nghiệm dạy Tập đọc có áp dụng một số biện pháp đã nêu trên về việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn học, tôi đã thu được những thành công nhất định. Điều đó chứng tỏ việc dạy đọc hiểu văn học cho học Tiểu học không phải là quá khó. Muốn giờ tập đọc đạt hiệu quả cao, giáo viên cần sáng tạo và sử dụng linh hoạt các biện pháp dạy học trong phần tìm hiểu bài và hướng dẫn học sinh luyện đọc. Tuỳ thuộc vào từng loại bài cụ thể mà giáo viên lựa chọn và áp dụng phương pháp dạy học, hình thức tổ chức khác nhau. Mỗi tiết dạy giáo viên nên chuẩn bị tốt về nội dung cũng như đồ dùng trực quan. Luôn coi học sinh là nhân vật trung tâm của mọi hoạt động, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, điều khiển, tổ chức học sinh phát hiện tìm ra kiến thức. Hệ thống câu hỏi được sử dụng trong giờ dạy phải ngắn gọn, dễ hiểu và gợi mở tư duy của học sinh. Điều chỉnh các câu hỏi phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ nhưng vẫn đảm bảo nội dung yêu cầu của bài. Ngoài ra, mỗi ngừơi giáo viên phải luôn luôn tự học hỏi, tự rèn luyện để trang bị cho mình vốn hiểu biết, kiến thức cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, thay đổi hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp để góp phần đưa chất lượng giáo dục lên tầm cao mới. 3.2. KIẾN NGHỊ Để học sinh tiếp thu tốt giờ tập đọc chúng ta cần phải dùng các phương pháp dạy học linh hoạt, lòng nhiệt tình và tính kiên trì, luôn luôn tìm tòi cái mới cho phù hợp với trình độ của học sinh. Giáo dục học sinh say mê đọc sách. Thường xuyên trao đổi các kinh nghiệm với đồng nghiệp và học hỏi những đồng nghiệp dạy giỏi, có nhiều kinh nghiệm để dạy các tiết học đạt hiệu quả cao. Nhà trường nên tạo mọi điều kiện như mua đầy đủ các thiết bị dạy họcđể giáo viên phát huy mọi khả năng của mình góp phần vào tiết dạy sinh động, hấp dẫn Eanuôl, ngày 16 tháng 1 năm 2013. TÀI LIỆU THAM KHẢO.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> 1. Tham khảo các tài liệu trên Internet 2. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 tập 1 + 2 của nhà xuất bản Giáo dục 3. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 tập 1 + 2 của nhà xuất bản Giáo dục 4. Bài soạn Tiếng Việt 4 tập 1 + 2 của nhà xuất bản Giáo dục 5. Thế giới trong ta số 59, 60 6. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học tập 1 + 2 của nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Huế.. MỤC LỤC 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài................................................................................................. 1.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> 1.2. Mục đích, nhiệm vụ............................................................................................ 3 1.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu........................................................................... 4 1.4. Giới hạn phạm vi nghiêm cứu............................................................................. 4 1.5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 4 2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 2.1. Cơ sở lí luận........................................................................................................ 5 2.2. Thực trạng dạy tập đọc....................................................................................... 6 * Thuận lợi.......................................................................................................... 6 * Khó khăn.......................................................................................................... 6 2.2.1. Thuận lợi, khó khăn......................................................................................... 7 a. Thuận lợi......................................................................................................... 7 b. Khó khăn......................................................................................................... 7 2.2.2. Thành công, hạn chế........................................................................................ 8 a. Thành công...................................................................................................... 8 b. Hạn chế .......................................................................................................... 9.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> 2.2.3. Nguyên nhân, các yếu tố tác động .................................................................. 9 2.3. Biện pháp thực hiện............................................................................................ 10 2.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp................................................................... 10 2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện..................................................................... 12 2.3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp........................................................ 28 2.3.4. Mối liên hệ giữa giải pháp và biện pháp.......................................................... 31 2.3.5. Kết quả khảo nghiệm ...................................................................................... 33 2.4. Kết quả thu được................................................................................................. 34 3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận............................................................................................................... 35 3.2. Kiến nghị............................................................................................................. 35. ĐỀ TÀI: Nâng cao chất lượng đọc hiểu cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc Người thực hiện : ĐINH THỊ TÂM Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.

<span class='text_page_counter'>(41)</span>

<span class='text_page_counter'>(42)</span>

×