Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

đề tài GV tiểu học Rèn viết câu cho học sinh lớp 4 qua phân môn luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.44 KB, 30 trang )

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP TỈNH
Giáo viên: Nguyễn Thu Hoài, trường Tiểu học thị trấn
Rèn viết câu cho học sinh lớp 4 qua phân môn luyện từ và câu

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Để đáp ứng được mục tiêu đào tạo của nhà trường XHCN nói chung và các
trường Tiểu học nói riêng là đào tạo những con người phát triển toàn diện. Bậc
Tiểu học là bậc học quan trọng nhất, nó là nền móng đầu tiên cho sự phát triển
tồn diện ấy. Do vậy nền tri thức và nhân cách con người được vững chắc hay
khơng chính là nhờ vào sự kiên cố của nền móng đó.
Về mặt tâm lý ở cấp bậc Tiểu học này, trẻ bắt đầu tiếp xúc với việc học tập.
Hoạt động của chúng được chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập.
Tâm hồn trong trắng của các em bắt đầu tiếp xúc với cơng việc mới mẻ và có thể
nói cấp Tiểu học sẽ viết những nét đầu tiên trên nền nhân cách trẻ.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng việt giữ một trong những vị trí
quan trọng nhất. Với nhiệm vụ là trang bị cho học sinh những tri thức về hệ thống
Tiếng việt trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Để học sinh có được điều đó trước
hết phải giúp học sinh biết cách sắp xếp các từ ngữ thành câu văn hồn chỉnh. Đó
là cơng việc giúp học sinh viết được câu văn đúng về ngữ pháp hay đúng về mặt
nội dung là một việc làm cấp thiết hơn bao giờ hết trong việc dạy Tiếng việt. Đối
với Tiếng việt, câu chính là tế bào đầu tiên giúp các em đạt hiệu quả cao trong quá
trình tư duy và giao tiếp, hay nói cách khác q trình tư duy và giao tiếp của con
người chỉ đầy đủ và trọn vẹn đạt hiệu quả cao khi được cung cấp ngữ pháp đầy đủ
về câu.
Vậy làm thế nào để học sinh hiểu và viết được những câu văn hoàn chỉnh,
đó là những điều trăn trở, suy tư đối với những giáo viên Tiểu học có nhiệt huyết
với nghề? Nó đòi hỏi mỗi giáo viên cần đầu tư huy động vốn kiến thức của mình,
giữ thời gian, năng lực, lịng nhiệt tình cao độ trong q trình tìm tịi và sửa chữa
những lỗi câu sai của học sinh Tiểu học.


Qua thực tế tìm hiểu ở trường Tiểu học, tơi nhận thấy việc học sinh lớp 4
viết được câu đúng ngữ pháp, hay là một vấn đề không đơn giản. Trong những
năm gần đây việc đổi mới phương pháp học cho các em trường Tiểu học đã đưa
học sinh thực sự chủ động trong việc tiếp thu kiến thức, học sinh là chủ thể trong
1


mọi hoạt động học (tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức) trước những vấn đề đặt ra,
học sinh chủ động suy nghĩ, giáo viên gợi mở, hỗ trợ, hướng các em vào trọng
tâm vấn đề.
Hơn nữa, ở các lớp dưới, các em mới chỉ đặt các câu hỏi đơn giản gồm hai
thành phần chính đó là chủ ngữ và vị ngữ (câu đơn). Lên lớp 4, các em phải đặt
các câu có các thành phần phụ như: trạng ngữ, …. Đây là những kiến thức mới
mẻ. Việc vận dụng ngữ pháp để đặt những câu này là vấn đề khó, bỡ ngỡ với các
em do đó cịn rất nhiều em sai chưa hoàn chỉnh hoặc nội dung chưa rõ ràng thốt
ý.
Về mặt tâm lý, các em chưa có sự tập trung cao trong mọi hoạt động, các
em hay chán nản trước các vấn đề phức tạp và kinh nghiệm sống của các em còn
chưa nhiều.
Ta thấy rằng chất lượng của việc học Tiếng việt thường được đánh giá bằng
bài Tập làm văn, thuật truyện, văn tả cảnh, tả người, văn tả con vật. Những loại
văn này đòi hỏi các câu văn phải chính xác, rõ ràng. Như vậy bài tập làm văn mới
chuyển tải được nội dung, yêu cầu của đề bài. Ngồi ra mơn Tập làm văn cịn u
cầu bố cục phải rõ ràng, phải có sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung và hình thức.
Trong khi đó một số giáo viên chưa coi trọng việc sửa chữa câu văn sai (hoặc
chấp nhận những câu sai đó), chưa có sự nhận xét để hướng dẫn các em tìm tòi
sáng tạo những câu văn đúng, rõ ràng, mạch lạc hơn nữa.
Tóm lại, việc viết đúng các câu văn là yếu tố quan trọng hình thành cho học
sinh cách trình bày bài tốt một văn bản, giúp học sinh có khả năng lĩnh hội tri
thức, phát triển tư duy và giao lưu hàng ngày, bạo dạn trước tập thể, giúp nhân

cách học sinh phát triển tồn diện.
Chính vì vậy, việc "Rèn viết câu cho học sinh lớp 4 qua phân môn luyện từ
và câu" là vấn đề cần thiết không thể thiếu được đối với người giáo viên có tâm
huyết với nghề.
2. Mục đích nghiên cứu
"Rèn viết câu cho học sinh lớp 4 qua phân môn luyện từ và câu" nhằm đạt
được những mục đích sau:
Giúp học sinh lớp 4 thấy được nguyên nhân dẫn đến câu sai, từ đó giúp các
em sửa chữa để có những câu văn đúng, hay, giàu hình ảnh, hướng các em biết
vận dụng phần kiến thức phân môn luyện từ và câu vào việc đặt câu.
Giúp học sinh biết cách trình bày một vấn đề trọn vẹn về ý, khả năng diễn
đặt mạch lạc, lưu lốt trước tập thể đối với những mơn học khác.
Bên cạnh đó giúp các em thực hiện được yêu cầu nhiệm vụ của bộ môn, là
công cụ để tạo đà cho học sinh nhận thức tốt các môn học khác cũng như quá
trình tư duy và giao tiếp hàng ngày.
Đáp ứng được mục tiêu của giáo dục Tiểu học là giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mĩ và kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt
2


Nam XHCN, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.
Đây là cơ sở để giáo dục lịng u q tơn trọng Tiếng việt trong các em, có
ý thức giữ gìn mở rộng sự phong phú trong sáng của Tiếng việt, ngơn ngữ mẹ đẻ
của dân tộc.
Ngồi ra việc nghiên cứu này cịn giúp tơi về việc bồi dưỡng tay nghề, củng
cố thêm vốn tri thức, hành trang sư phạm cho bản thân để vững bước trên con
đường sự nghiệp.
3. Thời gian, địa điểm nghiên cứu:

- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2013 đến tháng 5/2014
- Địa điểm nghiên cứu: Trường Tiểu học thị trấn Tiên Yên.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
- Qua nghiên cứu trang bị thêm vốn hiểu biết của bản thân về phương pháp
dạy học tích cực trong mơn Luyện từ và câu.
- Tiếp tục phân tích thực trạng của giáo viên và học sinh, đưa ra một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiết luyện từ và câu.
- Nâng cao chất lượng học môn Luyện từ và câu, qua đó nâng cao chât
lượng mơn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4.
- Đóng góp kinh nghiệm giảng dạy của mình với bạn bè đồng nghiệp để
cùng nhau nâng cao tay nghề, tích luỹ chun mơn.
- Vận dụng những hiểu biết trang bị cho tiết dạy đạt kết quả cao.

3


II. PHẦN NỘI DUNG
1. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Cơ sở lí luận
Trong các tài liệu ngơn ngữ học ở nước ta cũng như trên thế giới đã có
nhiều định nghĩa về câu. Những định nghĩa đó thể hiện những quan điểm có phần
khác nhau. Tuy nhiên, qua những cách xác định khác nhau đó vẫn có một số nét
chung được coi là đặc trưng của câu.
Khác với âm vị, âm tiết, hình vị, từ và cụm từ cố định, câu khơng phải là
đơn vị có sẵn. Nó được tạo ra trong quá trình tư duy và trong hoạt động giao tiếp
bằng ngơn ngữ, dựa vào các đơn vị có sẵn và các qui tắc kết hợp các đơn vị ấy.
Về mặt này, câu giống như các cụm từ tự do và như các đơn vị cao hơn (đoạn văn,
văn bản).
Câu thể hiện được một ý tương đối trọn vẹn, đồng thời thể hiện được thái
độ, tình cảm của người nói hay viết. Tuy tính chất trọn vẹn này chỉ là tương đối

nhưng nó cũng đủ làm cho người nghe (hay người đọc) hiểu được người nói (hay
người viết) muốn nói về cái gì, hiểu được thái độ tình cảm của người nói ra sao.
Từ đó, câu là đơn vị có chức năng khác với các đơn vị thấp hơn nó. Câu
giúp cho việc hình thành, biểu hiện và truyền đạt tư tưởng tình cảm từ người này
sang người khác. Các đơn vị thấp hơn câu có những chức năng khác, có thể gọi
chức năng này của câu là "chức năng thông báo" so với các đơn vị cao hơn câu
mà cũng thực hiện được chức năng thông báo (đoạn văn, văn bản) thì câu là đơn
vị thơng báo nhỏ nhất.
Câu có một cấu tạo ngữ pháp nhất định và có một ngữ điệu kết thúc. Ở
dạng đơn giản và bình thường nhất, câu có cấu tạo gồm hai thành phần chính ứng
với hai thành phần biểu hiện nội dung nói về đối tượng ấy. Ngữ điệu kết thúc báo
cho người nghe biết câu đã trọn vẹn, trên chữ viết nó được thể hiện bằng một dấu
chấm câu.
4


1.2. Cơ sở thực tiễn:
- Năm học 2013 - 2014, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4 với
tổng sĩ số là 27 em, trong đó:
+ Học sinh giỏi:

04 em

+ Học sinh tiên tiến:

15 em

+ Học sinh trung bình:

06 em


+ Học sinh yếu:

02 em

Với đặc điểm của lớp như trên, tơi cũng gặp những khó khăn nhưng cũng
có phần thuận lợi như sau:
1.2.1. Thuận lợi:
- Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời.
- Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập.
- Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em mình.
- Hầu hết các em đều đọc viết thành thạo.
- Đa số các em tiếp thu nhanh.
1.2.2. Khó khăn:
- Lớp có ít học sinh giỏi, học lực của các em đa số là trung bình và yếu, mợt
sớ học sinh trong lớp còn nói ngọng và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao
tiếp hàng ngày sao cho đúng ngữ pháp.
- Một số phụ huynh học sinh làm nghề buôn bán nên bố mẹ các em khơng
có thời gian quan tâm đến con em mình học tập. Một số phụ huynh khơng biết
chữ nên không thể kèm cặp, giúp đỡ các em trong việc học tập.
1.2.3. Cơ sở của việc rèn viết câu đúng:
Như chúng ta đã biết, câu không phải là đơn vị có sẵn. Nó được tạo ra trong
q trình tư duy và trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ vào đơn vị có sẵn là
từ ngữ, câu chính là do "từ" tạo thành và diễn đạt được ý trọn vẹn.
Vậy cơ sở nào để học sinh lớp 4 viết, nói được những câu văn chính xác,
đúng nếu như khơng phải là hệ thống kiến thức luyện từ và câu. Những kiến thức
luyện từ và câu ln giúp các em có được những câu văn đúng về mặt ngữ pháp,
hay về mặt nội dung. Do đó, trong q trình dạy và học luyện từ và câu cần chú ý
đến những vấn đề sau:
* Thứ nhất là: khắc sâu cho các em bản chất của câu chính là do từ ngữ tạo

nên.
Trong kho tàng ngơn ngữ của chúng ta có biết bao nhiêu từ ngữ tạo nên
những ý nghĩa khác nhau, phải sắp xếp những từ ngữ sao cho tạo thành một hệ
thống nhất định diễn tả một ý trọn vẹn mới có thể tạo nên một câu hồn chỉnh.

5


Ngồi ra những hệ thống từ ngữ dẫu có dài bao nhiêu nhưng không diễn đạt được
một ý trọn vẹn thì cũng khơng phải là câu.
Ví dụ: Trong chuỗi từ "Đêm nay, anh đứng gác ở trại" do bảy từ kết hợp lại
theo một trật tự nhất định diễn tả một ý đến với người đọc rằng anh bộ đội đêm
nay đang làm nhiệm vụ đứng gác ở trại. Chuỗi từ trên mang đầy đủ các điều kiện
của một câu, nên nó đã trở thành một câu văn hồn chỉnh. Ta hãy thử thay đổi trật
tự của câu văn trên xem nó cịn là một câu nữa khơng "Ở trại gác đứmg anh đêm
nay". Cũng vẫn chỉ là những từ ngữ đó nhưng bây giờ chúng khơng diễn đạt được
ý gì, do vậy hệ thống từ trên khơng trở thành một câu được.
Vậy sắp xếp lựa chọn từ ngữ để tạo thành câu là một vấn đề cơ bản, cốt lõi
để giúp học sinh tạo nên câu văn riêng không?
Đây là vấn đề hay nhầm lẫn của học sinh khi đặt câu hỏi hoặc khi viết văn,
do vậy trong quá trình cung cấp kiến thức ngữ pháp phải đặc biệt chú ý hướng các
em tránh những sai phạm trên.
Ví dụ: Khi làm bài văn tả cây bút chì có em học sinh viết "Chiếc bút chì
của em dài hơn một gang tay, thân bút trịn như chiếc đũa vỏ ngồi bút sơn màu
xanh thẫm láng bóng trên nền xanh ấy nổi bật một hàng chữ vàng in lấp lánh".
Hệ thống từ ngữ của em học sinh đã diễn đạt được cây bút chì với những
đặc điểm về chiều dài, hình dáng và đặc điểm bên ngồi, do vậy nó chứa đựng rất
nhiều ý. Để câu văn đúng, chính xác hơn, lời văn của học sinh diễn đạt sẽ rõ ràng
mạch lạc hơn ta có thể dễ dàng dùng các dấu câu để tránh những ý câu văn ra
thành nhiều câu như sau:

"Chiếc bút chì của em dài hơn một gang tay. Thân bút trịn như chiếc đũa.
Vỏ ngồi của bút sơn màu xanh thẫm láng bóng. Trên nền xanh ấy nổi bật một
hàng chữ vàng in lấp lánh".
Nội dung của câu đầy đủ, chính xác ta phải đảm bảo những vấn đề trên. Về
hình thức của câu khi viết và đọc những kiến thức ngữ pháp cần phải nghỉ hơi
trước khi đọc tiếp sang câu khác. Khi viết chữ cái đầu phải viết hoa và cuối mỗi
câu có một dấu chấm câu.
* Thứ hai là: Các kiến thức phân môn luyện từ và câu cung cấp cho các em
về việc phân loại câu theo mục đích nói.
Mơn Tiếng việt ở Tiểu học trang bị cho học sinh những kiến thức ngữ pháp
chuẩn mực, rèn luyện cho học sinh có kỹ năng vận dụng vào để tư duy và giao
tiếp. Sản phẩm của nó trước hết là những câu văn hồn chỉnh. Để có được sản
phẩm này, các em phải huy động bốn kỹ năng (nghe, đọc, nói, viết), trong đó kỹ
năng nói rất quan trọng. Tuỳ vào mục đích nói khác nhau người ta chia câu văn ra
làm một số loại. Nội dung này chiếm 1/3 tổng số kiến thức ngữ pháp trong
chương trình tiếng việt lớp 4. Nhằm kể một sự việc hay tả một cảnh vật, sự vật
cho người khác biết, người nói thường phải lựa chọn hệ thống các câu sao cho
phù hợp nhằm truyền tải được nội dung sâu sắc nhất, những hệ thống câu đó
người ta gọi là câu kể. Khi nói, câu kể được hạ giọng ở cuối câu. Khi viết, chữ cái
6


đầu dòng của câu kể phải viết hoa, cuối câu phải có dấu chấm, chấm lửng hoặc
dấu hai chấm, cụ thể là:
Ví dụ: Dấu chấm lửng ở cuối câu kể:
“Hàng ngày em quét nhà, rửa ấm chén, nhặt rau, lau bàn ghế...”
“ Ơng em trờng rất nhiều cây mít, cây cam, cây chanh...”
Dấu hai chấm ở cuối câu kể: "Một buổi chiều, ơng nói với mẹ An- đrây- ca:
Bố khó thở lắm !…"
Nhưng muốn hỏi người khác về một sự vật, sự việc ta lại sử dụng câu hỏi.

Ví dụ:
Các em đã làm bài tập chưa?
Bài tốn này có mấy cách giải?
Đề tài này thuộc thể loại gì?
Tại sao em chưa làm bài?
Trong câu hỏi thường có những từ chuyên dùng để hỏi như: ai, gì, nào, thế
nào, làm sao, chưa, à, hả… Khi nói, câu hỏi được cất cao giọng ở giữa câu và
cuối câu, nhấn mạnh vào từ cần được trả lời. Khi viết, cuối câu hỏi có dấu chấm
hỏi. Ở ba câu trên ta cất cao giọng khi nói từ (chưa, có) và nhấn giọng từ (làm bài,
có mấy, thể loại, chưa làm) như vậy độ diễn đạt sẽ cao, câu sẽ rõ ràng.
Khi yêu cầu người khác làm một hoặc vài việc gì người ta sử dụng một hệ
thống câu hỏi đó là câu cầu khiến. Trong câu cầu khiến, thường có các từ chuyên
dùng để tỏ ý mời mọc, đề nghị, khuyên bảo, bắt buộc, ngăn cấm, nhờ vả, sai
khiến… như mời đề nghị, yêu cầu, nên, hãy, phải, cần, chớ, đừng, cấm… Khi nói
câu cầu khiến được cất giọng mạnh hay nhẹ tuỳ theo nội dung mời mọc, đề nghị,
khuyên bảo, bắt buộc hay ngăn cấm. Khi viết cuối câu cầu khiến có dấu chấm cảm
(!). Ví dụ:
"Cơ mời Gia Hân lên bảng làm bài tập số 3!"
Câu này tuy sử dụng từ "mời" song thực chất là một lời đề nghị học sinh lên
bảng làm bài tập. Do vậy cần nhấn giọng ở Gia Hân, lên bảng, làm bài tập".
Để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình trước những hiện thực khách quan
người ta sử dụng câu cảm. Trong câu cảm thường có những từ ngạc nhiên, thán
phục, đau xót… như ơi, a, ồ, eo ôi, chao ôi, trời ơi! … hay sự đánh giá quá, lắm,
ghê thật…
Ví dụ: “Em ngoan lắm!”
“A! mẹ đã về”
“Ô ! Trời đổ mưa”
“ Ôi! Bạn Nam giỏi quá”...
Khi nói câu cảm có giọng thay đổi phù hợp với tình cảm và cảm xúc diễn tả
trong câu. Khi viết, cuối câu cảm có dấu chấm cảm (!).

7


Tuy câu cảm và câu cầu khiến có sự giống nhau ở dấu câu, nhưng ở hai loại
câu này mang một nội dung hoàn toàn khác nhau. Do vậy khi truyền thụ những
kiến thức ở phần này chúng ta cần tập trung phân tích để tránh sự nhầm lẫn trong
quá trình hình thành câu ở các em.
Khi ta dùng câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến hay câu cảm để chuyện trị, hỏi
đáp trực tiếp với người khác thì đó là những câu hội thoại.
Ví dụ:
Một hơm, Đỗ Thái Hậu và vua tới thăm Tô Hiến Thành, hỏi:
- Nếu chẳng may ơng mất thì ai là người sẽ thay ơng?
Tơ Hiến Thành khơng do dự, đáp:
- Có giám nghị đại phu Trần Trung Tá.
Thái Hậu ngạc nhiên nói:
- Vũ Tán Đường hết lịng vì ơng, sao ơng khơng tiến cử?
Tơ Hiến Thành tâu:
- Nếu Thái Hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, cịn
hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá.
Tóm lại: Việc tìm hiểu vấn đề trên khơng chỉ giúp cho học sinh nắm được
các kiểu câu chia theo mục đích và có khả năng vận dụng đặt được các câu văn
mang nội dung đó mà cần có sự so sánh, đối chiếu để học sinh thấy được sự khác
nhau giữa mục đích thơng báo nội dung. Cần lưu ý cho các em một điểm khác
nhau đó là cách dùng dấu câu ở mỗi loại câu, đây là điểm khác nhau về mặt hình
thức giữa các câu.
* Thứ ba là: Các thành phần cấu tạo nên câu.
Nói đến câu khơng thể khơng nói đến các bộ phận quan trọng nhất và
khơng thể thiếu được nếu khơng có hồn cảnh đặc biệt.
Chủ ngữ là bộ phận chính của câu (nếu thiếu chủ ngữ câu không tồn tại)
chủ ngữ thường đứng ở đầu câu, đơi khi nó đứng ở cuối câu và chỉ người, loài vật,

đồ vật, cây cối… được miêu tả nhận xét trong câu. Chủ ngữ có thể do một từ hoặc
do nhiều từ tạo thành.
Ví dụ: "Hoa lan rất đẹp".
Chủ ngữ của câu là Hoa lan. Vậy trong trường hợp trên CN có hai từ.
"Cây phượng già trong sân trường đã nở hoa".
Chủ ngữ trong câu trên là một cụm từ "cây phượng già trong sân trường"
"Mai đang viết thư cho bố".
Câu trên chủ ngữ lại chỉ có một từ "Mai".
Bên cạnh các trường hợp trên cịn có trường hợp chủ ngữ do nhiều từ,
nhóm từ kết hợp bình thường với nhau tạo thành.
8


Ví dụ:
"Cây lan, cây Huệ, cây Hồng nói chuyện với nhau bằng hương, bằng hoa".
Khi câu có hai hay nhiều chủ ngữ như vậy người ta thường đặt các chủ ngữ
kế tiếp nhau và giữa chúng có thể cùng dấu câu là dấu phẩy hoặc dùng các từ nối
như, và, cùng, với… để ngăn cách chúng.
Vị ngữ là bộ phận chính của câu (nếu thiếu nó câu trở nên vơ nghĩa). Vị
ngữ thường đứng sau chủ ngữ, nói rõ chủ ngữ là gì, làm gì, như thế nào. Vị ngữ
có thể do một hoặc nhiều từ tạo thành.
Ví dụ: "Trời mưa"
Câu trên vị ngữ là một từ "mưa".
"Nắng vàng trải khắp cánh đồng lúa".
Câu này vị ngữ do nhiều từ tạo nên "trải khắp cánh đồng lúa".
Bên cạnh từng trường hợp vị ngữ là một từ kết hợp từ, còn có những trường
hợp vị ngữ do hai hay nhiều từ hợp từ bình đẳng với nhau tạo thành.
Ví dụ: "Bạn Linh rất ngoan và học giỏi"
"Lê Văn Tám nhỏ mà anh hùng".
Ngồi hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ ra. Câu còn được cấu tạo

bởi các thành phần phụ. Các thành phần phụ trong câu là những phần thêm vào để
bổ sung ý nghĩa cho cả khối chủ ngữ - vị ngữ gọi là trạng ngữ.
Ngoài ra, phải giúp các em biết vận dụng những kiến thức đã học ở trên vào
việc đặt câu.
Ví dụ: Muốn đặt câu có thành phần định ngữ thì ta phải xác định được danh
từ chính của câu cần đặt, chẳng hạn danh từ chính của câu là học sinh trong câu
"Học sinh được khen" ta có thể thêm thành phần định ngữ "của đội tuyển văn" bổ
sung ý nghĩa cho danh từ "học sinh" và câu văn sẽ hay hơn.
"Học sinh của đội tuyển văn được khen".
Tóm lại: Là người giáo viên Tiểu học ta cần thực sự chú ý vận dụng nghiên
cứu những kiến thức ngữ pháp được phân bố trong chương trình Tiếng việt 4 để
hướng dẫn các em viết câu đúng, chính xác. Biết tự nhận ra những câu sai của
mình để sửa chữa thành câu cảm về mặt ngữ pháp, hay và gợi cảm về mặt nội
dung.

9


2. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng dạy và học Luyện từ và câu ở trường Tiểu học thị trấn
Tiên Yên.
1. Về phía giáo viên.
1.1. Ưu điểm:
- Giáo viên đi đúng phương pháp dạy học của bộ mơn và các dạng bài cụ
thể.
- Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chấm
chữa bài nghiêm túc, khách quan.
- Giáo viên ln có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học và dạy
học theo hướng tích hợp.
1.2. Tồn tại:

- Một số đồng chí giáo viên dạy học cịn theo khn mẫu, diễn đạt còn
lúng túng chưa sáng tạo. Giờ học buồn tẻ chưa gây được hứng thú trong tiết dạy
cho học sinh. Vốn từ ngữ của giáo viên còn nghèo nàn, học sinh chưa thực sự chủ
động nắm bắt kiến thức.
- GV mới chỉ quan tâm đến đối tượng học sinh khá, giỏi.
- Một số giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy.
2. Về phía học sinh:
- Khi hỏi về sự u thích mơn học luyện từ và câu chỉ có 1/3 số em thích
học bộ mơn với lý do là tiết học khô khan, nhàm chán.
- Học sinh hiểu nghĩa của từ còn hạn chế.
- Vốn từ cịn q ít ỏi.
- Kĩ năng nói và viết thành câu còn nhiều hạn chế.
10


- Tìm hiểu về từ loại cịn hay lẫn lộn vv........
3. Những lỗi thường thấy của học sinh Tiểu học khi học phân môn luyện
từ và câu.
3.1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu:
Đây là lỗi học sinh mắc tương đối nhiều, là lỗi về cấu trúc như thiếu, hoặc
thừa, câu không phân định các thành phần câu hoặc sắp xếp sai thành phần câu
thừa, câu không phân định các thành phần câu hoặc sắp xếp sai thành phần câu.
- Câu không đủ thành phần, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ.
+ Câu thiếu chủ ngữ: Qua dự giờ và trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy
những đề bài đặt câu theo một chủ đề nào đó thì số học sinh đặt câu thiếu chủ ngữ
hầu như khơng có.
Ví dụ: “Đặt 3 câu về lớp em” thì số học sinh đặt câu có chủ ngữ 27/27 đạt
100% với những đề bài đặt câu khơng cho trước chủ đề thì tỉ lệ viết câu thiếu chủ
ngữ có cao hơn đặc biệt trong viết đoạn văn ngắn. Câu thiếu chủ ngữ xuất hiện
nhiều bởi nhiều học sinh nhầm đối tượng.

Câu thiếu chủ ngữ:
Ví dụ 1: Rung rinh trước gió
Ví dụ 2: Có hoa và đậu rất nhiều quả
- Câu thiếu vị ngữ: Đó là những câu chỉ có một cụm danh từ.
VD1: Chiếc đệm êm ái
VD2: Lâu đài cổ kính
Tỷ lệ học sinh viết câu thiếu vị ngữ nhiều hơn những câu thiếu chủ ngữ.
- Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh nhầm tưởng những danh từ được
phát triển dài là một câu, tưởng đã có nội dung thơng báo trọn vẹn mặc dù ở đó
mới chỉ nêu đối tượng thơng báo.
- Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ
Những câu mắc lỗi sai, thiếu thành phần chủ ngữ và vị ngữ là những câu
chỉ có thành phần trạng ngữ và cũng khơng nói được với những câu tiếp sau để
tạo thành một câu mới có trạng ngữ. Nguyên nhân của loại lỗi này là học sinh
không hiểu rằng chủ ngữ không thể đứng sau quan hệ từ các danh từ chỉ thời gian
như khi, lúc… cần phải có bộ phận bổ sung nghĩa. Mặt khác thường là bộ phận
đứng sau quan hệ từ được phát triển dài khiến học sinh tưởng là nó có nội dung
thơng báo.
VD1: Trên nền sạch bong như vừa gội rửa.
VD2: Đến ngày đợt quả đầu tiên của cây bắt đầu chín.
Trong ba loại câu thiếu thành phần thì tỉ lệ học sinh mắc lỗi sai câu thiếu
thành phần chủ ngữ, vị ngữ nhiều hơn câu mắc lỗi thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ.
11


- Câu thừa thành phần: Là những câu có thành phần câu lặp lại một
cách không cần thiết.
VD1: Bạn Lan đó là bạn rất chăm học
VD2: Mặt trời trịn vành vạch như cái đĩa tròn
Đây là loại lỗi gặp phổ biến trong thực tế viết câu của học sinh hiện nay.

Loại lỗi này học sinh khi kiểm tra lại rất khó nhận biết, nó làm cho các đoạn văn
các em viết rất lủng củng.
VD: “Ở lớp em bạn Nam là người học giỏi nhất lớp”. Nguyên nhân học
sinh mắc lỗi thừa thành phần câu do kỹ năng viết câu vào tình trạng kể lan man.
Để khắc phục lỗi này thì trong dạy học cần tích cực cho học sinh làm các bài tập
làm văn nói, tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm và tự trình bày những ý kiến
trước lớp, tạo điều kiện cho học sinh tham gia giao tiếp trong các tình huống khác
nhau.
Câu khơng phân định thành phần: Là những câu về cấu tạo khó xác định
các bộ phận câu kết hợp với nhau theo quan hệ ngữ pháp nào, từ đó khó xác định
thành phần câu. Câu khơng xác định thành phần có thể ngắn, có thể dài, càng dài,
càng lỗi, càng lủng củng. Về ý nghĩa mối quan hệ giữa các bộ phận câu cũng
không rõ ràng, chính xác khơng logíc do đó các câu tối nghĩa hoặc vô nghĩa. Đây
là loại lỗi thường gặp ở ghọc sinh trung bình, trong các bài tập làm văn, ít gặp
trong các bài tập đặt câu. Nguyên nhân của loại lỗi này khá phức tạp, trước hết là
học sinh khơng chuẩn bị cho mình một nội dung cần nói nên khơng phân cách
được trong tư duy ra từng ý rạch rịi. Các em viết gần như trong tình trạng vô
thức, nhớ từ nào, cụm từ nào là viết ngay trong bài, khơng tìm cách tổ chức, sắp
xếp các cụm từ để biểu đạt nội dung. Đây là loại nỗi nặng, rất khó chữa, nhiều lúc
phải trao đổi trực tiếp với học sinh mới biết các em muốn diễn đạt điều gì để chữa
lại cho đúng. Loại lỗi câu sai này chiếm tỷ lệ lớn trong các lỗi câu, có thể thống kê
các lỗi câu khơng phân định thành phần như sau:
- Câu không xác định được thành phần
VD: Qt có hoa có quả khi quả chín nó lại có màu da cam và quả to có
nhiều nước ăn ngọt lịm.
- Câu sắp xếp sai vị trí thành phần
VD: Em thấy rất có ích đọc câu chuyện đó
- Các câu có một bộ phận cùng giữ 2 chức năng ngữ pháp khác nhau
trong câu.
VD: Em rất yêu quý những hàng phượng đã khơng cịn xanh mướt như

những ngày nào.
3.2. Lỗi về nghĩa:
Tỷ lệ học sinh có câu mắc lỗi về nghĩa trong các bài viết đoạn văn rất lớn
và nhiều kiểu loại. Câu mắc lỗi về nghĩa ở đây bao gồm câu sai nghĩa, câu không
12


rõ nghĩa và câu có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế
câu rất lớn do với câu sai nghĩa và câu không rõ nghĩa.
- Câu sai nghĩa là những câu chứa đựng nội dung không phù hợp với hiện
thực khách quan, phản ánh sai hiện thực khách quan.
VD: Thân cây sần sùi như da ếch.
- Câu không rõ nghĩa: Là câu thiếu thông tin. Đó là những câu đúng về mặt
cấu tạo ngữ pháp, nghĩa là có đầy đủ thành phần chính, đúng về quan niệm ngữ
nghĩa chung. Nhưng thật sự câu kiểu này còn thiếu thành phần phụ bổ nghĩa cho
các từ trong câu, nên nghĩa câu không đầy đủ gây hụt hẫng cho người đọc.
VD1: Hàng năm em về quê.
VD2: Mùa ổi xanh lá, em trèo cây.
- Câu khơng có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế
câu. Loại lỗi này chiếm số lượng rất lớn và đa dạng. Có thể xem loại lỗi này là
loại lỗi từ vựng - ngữ pháp, vì lỗi câu ở đây có ngun nhân từ việc khơng hiểu
nghĩa từ và khả năng kết hợp các từ, nhưng do mỗi từ ở trong câu đều có chức
năng riêng làm một thành phần câu nhất định nên chúng ta có thể xem xét từ góc
độ ngữ pháp. Sự khơng tương hợp giữa các thành phần câu. Nhưng việc chữa các
câu này phải bắt đầu từ việc hướng dẫn học sinh nắm nghĩa từ và khả năng kết
hợp của chúng.
VD1: Cây cối xanh mơn mởn xào xạc trước gió
VD2: Thân cây quýt sần sùi rách nát
- Câu có các vế câu khơng tương hợp
VD1: Trồng ổi sẽ thu được rất nhiều lợi, những đường gân nổi rõ như con

rắn vậy
VD2: Tuy quả nhỏ chỉ bằng các quả cam nhưng ruột quả không ngon. Các
câu trên sai vì khơng có sự tương hợp giữa các vế câu sau và các cặp quan hệ từ.
- Câu có tác dụng quan hệ giữa các thành phần khơng lơ gíc khơng tương
hợp là câu có các thành phần đồng chức không đồng loại.
VD1: Cây ra hoa rồi đậu quả, lá có đường gân ở chính giữa
VD2: Hàng ngày em chăm sóc cây và đi rửa ấm chén.
3.3. Lỗi về hình thức, lỗi về dấu câu.
- Lỗi về dấu câu có thể chia làm 2 loại: Lỗi khơng dùng dấu câu và lỗi dùng
dấu câu sai.
+ Lỗi không dùng dấu câu: Là lỗi câu sai do không dùng dấu câu ở những
phần cần thiết, thường học sinh mắc lỗi này do không sử dụng dấu chấm kết thúc
câu và dấu phẩy ngăn cách giữa các thành phần câu. Có những bài viết các em
không sử dụng một dấu câu nào. Loại lỗi này là một lỗi phổ biến, nguyên nhân
của loại lỗi này là do học sinh đã vi phạm nguyên tắc sử dụng dấu câu. Khi đã kết
13


thúc một ý phải đặt dấu ngắt câu. Việc không sử dụng dấu câu gây khó khăn trong
giao tiếp.
Người đọc khơng thể nhanh chóng nắm được nội dung các em cần truyền
đạt thậm chí chỉ có những trường hợp khơng xác định được ý muốn diễn tả.
VD1: Lớp em có bạn Quyên là học sinh giỏi và cũng là người bạn của em
bạn còn là người con ngoan và hiếu thảo bạn và em đã giúp đỡ nhau trong lúc khó
khăn bạn đã rất q và tơn trọng em cịn em cũng đối xử với bạn ấy như vậy.
VD2: Buổi sáng cây vươn mình trong nắng sớm trái chín toả hương thơm
ngào ngạt khắp khu vườn.
+ Lỗi sử dụng dấu câu sai: Là lỗi của những câu đã sử dụng dấu câu khi
không cần thiết hoặc đáng lẽ phải dùng dấu câu này, lại dùng dấu câu khác. Biểu
hiện của lỗi là học sinh dùng dấu chấm ngắt câu khi chưa đúng ý, dùng dấu phẩy

ngăn cách các thành phần chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dùng
dấu phẩy ngăn cách các thành phần chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ
ngữ, dấu hai chấm ngăn cách 2 vế câu khi vế nọ khơng có ý giải thích cho vế kia.
Phổ biến nhất trong loại lỗi này là câu dùng dấu chấm tuỳ tiện khi chưa hiểu ý, cắt
đôi câu ra một cách vô lý.
VD1: Em thấy vỏ mỏng, múi ngọt, em rất thích cái cây của em nó có thể
làm ra trái ngon.
VD2: Hoa chỉ nở vào mấy tháng thơi cịn những tháng sau thì cây trở lại
với màu xanh duyên dáng của mình.
VD3: Chiếc cặp ấy to. Hình chữ nhật vuông vắn
Việc học sinh không sử dụng dấu câu và sử dụng sai dấu câu, chưa biết áp
dụng dấu câu trong việc diễn đạt nội dung và chưa nắm được cách sử dụng chúng.
Nói chung nhiều học sinh tiểu học còn ngại sử dụng dấu câu và chưa biết cách sử
dụng chúng.
+ Lỗi ngoài câu: Nghiên cứu bài kiểm tra các môn tập làm văn, đạo đức…
tôi nhận thấy học sinh ngồi mắc lỗi trong câu thì các em cịn mắc lỗi ở ngoài câu.
Những câu mắc lỗi trong câu thì các em cịn mắc lỗi ở ngồi câu. Những
câu mắc lỗi này xét về mặt cấu tạo không sai nhưng đặt vào trong văn bản thì mới
thấy nó khơng hợp lý. Do chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học chưa chú trọng đến
việc đặt câu trong văn bản để xem xét nên các lỗi ngoài câu xuất hiện nhiều trong
bài Tập làm văn của học sinh.
+ Lỗi ngoài câu được chia làm 3 nhóm
- Lỗi do câu khơng phù hợp với các câu khác trong văn bản. Đây là những
lỗi do học sinh tư duy không rõ ràng, mạch lạc nên đã viết ra những câu lạc chủ
đề, những câu lặp lại với những câu khác. Những câu này lạc vào trong văn bản
làm cho đoạn văn như “râu ông lọ cắm cằm bà kia” hoặc nhiều câu luẩn quẩn,
trùng lặp nhàm chán, chủ đề không phát triển được.

14



- Lỗi câu lạc chủ đề là lỗi do trong văn bản có những câu phá vỡ tính liên
kết chủ đề của đoạn văn.
VD1: Gần nhà em có một cây hoa sữa, thân cây sần sùi, gốc cây phình ra
rất to, cành cây dài và rất mập mạp, lá cây xanh mơn mởn um tùm, em thích cây
hoa sữa vì em thích uống sữa. Vào mùa hoa sữa nở, những bông hoa sữa nhỏ màu
trắng li ti đậu thành chùm, hương hoa toả ngào ngạt.
VD2: Bố em mới mua về một cây quýt rất to, thân nó sần sùi như da cóc,
tán lá của cây được tỉa gọn ghẽ, vút lên như một cây thơng nhỏ, vỏ của quả qt
có thể chế tạo ra thuốc, những chiếc rễ cây nổi lên mặt đất nhìn như những con
rắn.
+ Lỗi do các câu trong văn bản mâu thuẫn với nhau về nghĩa, phá vỡ tính
liên kết về nghĩa của văn bản tạo ra những câu liên kết khơng lơ gíc. Loại lỗi này
học sinh ít mắc phải.
+ Lỗi lặp câu: Những câu này được xem là lặp lại vì lặp lại nhiều lần 1 từ,
một ngữ, hay lặp lại một ý nghĩa nào đó trong những câu gần nhau. Đây là một sự
lặp lại không cần thiết làm cho đoạn văn không phát triển được, lủng củng, tối
nghĩa.
VD1: Ở lớp bạn là người học giỏi gần nhất lớp
VD2: Các bạn chơi với nhau rất vui vẻ, em và An cùng lớp với các bạn, các
bạn và em học với nhau rất vui vẻ.
+ Lỗi câu không phù hợp với nhân vật giao tiếp.
Nguyên nhân của loại lỗi này là do người viết nhiều khi khơng nằm được vị
thế của mình trong giao tiếp, có khi qn mất vai mình đang đóng, cũng có thể do
các em khơng nằm được nghĩa của từ, của một số thành ngữ, đặc biệt là nghĩa
biểu thái của chúng.
+ Lỗi không phù hợp với phong cách: Là những câu không phù hợp với
phạm vi, lĩnh vực giao tiếp chẳng hạn như dùng những câu chỉ nói trong hội thoại
hàng ngày hoặc những câu có tính hành chính khoa học vào trong văn miêu tả,
văn kể chuyện, đặt câu… lỗi này phổ biến và chiếm tỷ lệ cao.

VD1: Ở lớp bạn là người học hơi giỏi.
VD2: Bạn ấy là một cây đơn ca tuyệt cú mèo.
4. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng viết câu của học sinh tiểu học hiện
nay là:
Từ việc điều tra, tìm hiểu, tơi thấy việc viết câu sai của học sinh lớp 4 chủ
yếu tập trung ở một số nguyên nhân sau:
Một là: Các em chưa hiểu một cách sâu sắc, cặn kẽ về các thành phần chính
trong một câu, chưa nắm được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ. Do vậy các em còn
nhầm sang thành phần phụ của câu, dẫn đến việc viết câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ
hoặc có khi thiếu cả hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ.
15


Ví dụ: Các em viết: "Sáng nay chữa bài tập Tiếng việt" và cho rằng đây là
một câu vì có đủ hai bộ phận chủ ngữ và vị ngữ ở trong câu. Để tìm chủ ngữ của
câu trên các em phải đặt câu hỏi "bao giờ chữa bài tập Tiếng việt?" và "Ai chữa
bài tập Tiếng việt?" và các em sẽ được câu trả lời: "Sáng nay, cô giáo chữa bài tập
Tiếng Việt ." Ngược lại, để tìm bộ phận vị ngữ các em đặt câu hỏi "Sáng nay cô
giáo làm gì?" được câu trả lời là "chữa bài tập Tiếng Việt", vậy "chữa bài tập
Tiếng việt" là vị ngữ. Nên câu trên phải viết là: Sáng nay, cô giáo chữa bài tập
Tiếng việt.
Câu các em viết ra như trường hợp trên là sai, hay nói cách khác là chưa đủ
câu vì cịn thiếu bộ phận chủ ngữ. Ngun nhân dẫn đến việc sai sót này là do học
sinh chưa nắm chắc được kiến thức về câu. Do vậy khi đọc bài văn của các em có
những câu thiếu bộ phận chủ ngữ, có câu thiếu bộ phận vị ngữ khiến người đọc rất
khó hiểu em đang muốn diễn đạt điều gì. Hơn nữa, các em sử dụng những câu
thiếu chủ ngữ trong giao tiếp với người lớn tuổi sẽ trở thành thiếu lễ độ.
Hai là: Đối với các thành phần phụ trong câu các em còn mơ hồ về cách
cấu tạo, vị trí và nhiệm vụ của các thành phần phụ trong câu. Do vậy khi vận dụng
kiến thức về phần này, để đặt câu hỏi có những thành phần phụ các em thường

nhầm lẫn hoặc chưa biết cách đặt câu có các thành phần phụ.
Ví dụ: Các em viết "Cô giáo chữa bài".
Câu trên đã là một câu vì nó có đủ cả hai bộ phận chính, chủ ngữ là "Cô
giáo" và vị ngữ là "chữa bài". Nhưng nếu như ta thêm thành phần phụ vào câu và
được viết là: "Sáng nay, cô giáo chữa bài tập Tiếng việt" thì câu văn sẽ trở nên
hay hơn và ý nghĩa cho cả khối chủ - vị, nó thơng báo cho ta biết cô giáo (chữa
bài tập và buổi sáng nay chứ không phải là chiều nay hay ngày mai).
"Bài tập" bổ sung ý nghĩa cho động từ "chữa", nó cho biết đối tượng của
hoạt động là gì? (chữa bài tập chứ không phải là chữa bàn ghế…).
"Tiếng việt" bổ sung ý nghĩa cho bài tập, nó cho biết đây là bài tập gì (bài
tập Tiếng việt chứ khơng phải bài tập Toán).
Ba là: Khi viết bài, các em chưa biết sắp xếp ý cho phù hợp dẫn đến bài
văn diễn đạt lủng củng, cách lập luận còn yếu, lúng túng, chưa thốt ý và dẫn đến
câu sai. Đây có lẽ là nguyên nhân chính gây ra lỗi câu sai rất nhiều ở các em.
Trong giờ tập làm văn hoặc luyện từ và câu, giáo viên mới chú trọng đến
việc chấm lỗi về câu, nhưng trong các môn học khác việc kiểm tra bài giáo viên
gần như không để ý đến điều này. Ví dụ khi làm bài kiểm tra mơn Khoa học, có
em viết: "Để đề phịng bệnh, phải giữ vệ sinh răng miệng". Câu này xét về mặt
ngữ pháp là sai vì thiếu bộ phận chủ ngữ, nhưng giáo viên đã bỏ qua lỗi đó mà
chấp nhận như là một câu đúng. Đây chính là điều đáng lưu ý đối với mỗi giáo
viên.
2.2. Một số biện pháp rèn viết câu cho học sinh lớp 4 qua phân môn
luyện từ và câu

16


Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến lỗi viết câu của học sinh lớp
4 theo tôi để khắc phục những hạn chế trên cần chú ý đến một số biện pháp sau:
1. Giúp học sinh nắm vững kiến thức về câu và các thành phần cấu tạo

nên câu.
Ta thấy rằng chỉ khi thật sự nắm chắc về kiến thức học sinh mới có thể viết
được những câu đúng, chính xác. Vậy làm thế nào để học sinh nắm được điều
này?
Trước hết, người giáo viên phải nhiệt tình truyền đạt những kiến thức đến
các em trong mọi giờ dạy ngữ pháp. Giáo viên ln tìm ra những phương pháp
giảng dạy thật dễ hiểu giúp các em tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Ngồi
ra cần có những câu hỏi gợi mở nhằm kích thích óc tị mị, tư duy của các em. Sau
mỗi bài dạy có liên quan đến việc viết câu của học sinh, người giáo viên luôn
củng cố tổng kết khái quát để hướng các em vào việc sử dụng câu trong giao tiếp
hàng ngày.
Một việc làm có tác dụng rất lớn cho biện pháp này là cho các em tiếp xúc
với những kiểu câu khác nhau. Các em tự tìm các bộ phận, cấu tạo, chức năng và
nhiệm vụ của các bộ phận đó trong câu.
2. Giúp học sinh tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những lỗi viết câu
sai của mình.
Đối với biện pháp này, giáo viên giảng dạy phải là người am hiểu về lỗi
viết câu của các em để có sự tổng hợp tìm ra những lỗi chung. Muốn làm được
việc này thì giáo viên phải thực sự đầu tư về kiến thức, quỹ thời gian… Trong
việc chấm bài nhất là bài tập làm văn cho học sinh. Giáo viên phải ghi thật cụ thể
những lỗi câu của học sinh vào sổ tay, tìm hiểu xem câu đó thiếu hoặc sai gì, cần
sửa ra sao? Tổng hợp xem lỗi viết câu sai của học sinh chủ yếu là lỗi gì sau đó
giáo viên chữa, tìm ra những lỗi sai chung, nêu những lỗi câu này lên trước lớp để
các em tự tiếp nhận, so sánh vào bài của mình để tìm cách sửa chữa.
Ngoài những lỗi câu chung, giáo viên từng bước giúp học sinh sửa chữa
những lỗi câu sai mà cá nhân học sinh mắc phải. Giúp các em phân tích xem câu
của mình sai ở đâu, thiếu thành phần gì và phải sửa lại như thế nào. Đối với câu
có thành phần phụ đã đúng và hợp lý chưa, hướng giải quyết ra sao.
Đặc biệt cần xem xét việc sắp xếp các ý của các em xem đã hợp lý, lơ gíc
chưa để tìm ra ngun nhân vì sao chưa hợp lý và biện pháp sửa chữa như thế

nào. Phải làm sao biến các hoạt động trên trở thành nhu cầu, hứng thú đối với
từng học sinh, chỉ có điều đó mới giúp việc sửa chữa lỗi câu đạt hiệu quả cao.
3. Giúp học sinh chữa lỗi câu sai:
* Sửa lỗi viết câu trên cơ sở chữa những câu chung.
Để giúp các em nhận ra những lỗi sai của mình và nhanh chóng tiếp thu
được cái đúng, lựa chọn những cái tốt đẹp để áp dụng để sửa chữa những lỗi
mn thuở của mình. Giáo viên phải có sự theo sát giúp đỡ đến từng cá nhân yếu
kém, bởi lẽ đây là những học sinh có khả năng nhận thức yếu và chậm tiến. Việc
17


tiếp thu bài của những em này ở trên lớp gặp khó khăn, những kiến thức đối với
các em cịn mơ hồ, đọng lại trong đầu không được nhiều. Mà thời gian đối với
mỗi giáo viên có hạn, với thời gian trên lớp và thời gian ở nhà giáo viên phải phân
bố sao cho đều tất cả các môn học.
Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để thực sự làm tốt biện pháp này, theo tơi
chúng ta có thể sửa chữa lỗi câu của học sinh trên toàn lớp. Giáo viên cần lấy các
ví dụ lỗi câu sai chung mà các em thường hay mắc, sau đó cho học sinh phân tích
từng câu đó xem sai ở đâu, thiếu thành phần gì, có bị đảo lộn từ khơng… Biện
pháp sửa chữa những lỗi câu đó như thế nào, giáo viên cho học sinh sửa lại những
câu đó sao cho đúng và hay. Do vậy sẽ hạn chế được những lỗi sai về câu đó
trong các bài tập làm văn sau.
Đặc biệt, giáo viên cần quan tâm đến các em học sinh yếu kém bằng nhiều
hình thức như động viên, khuyến khích, quan tâm thường xuyên liên tục trong tất
cả các mơn học. Giáo viên có thể giao thêm bài tập cho các em, tranh thủ hướng
dẫn các em trong các giờ bài tập hoặc sau tiết 4 buổi sáng. Nếu cần có thể tổ chức
giờ phụ đạo thêm vào các ngày nghỉ hoặc vào các buổi ngoài giờ lên lớp. Khi
chấm bài của học sinh, giáo viên chấm thật tỉ mỉ, cần nhận xét rõ ràng từng sai sót
để các em thấy được lỗi của mình. Cho các em tham khảo những câu văn đúng,
chính xác của những bạn học khá để có sự đối chiếu tự sửa câu của mình.

* Sửa chữa lỗi viết câu sai cho học sinh trong tất cả các môn học:
Muốn thực hiện được điều này thì việc trước tiên ta phải sửa cho học sinh lỗi câu
qua những câu trả lời miệng hàng ngày, trước những câu hỏi do giáo viên hay do
người khác đặt ra. Câu trả lời của các em phải thật sự đầy đủ, rõ nghĩa. Nếu như
các em trả lời chưa đúng, chưa đủ, chúng ta cần phải sửa chữa lỗi ngay cho các
em từ lời ăn tiếng nói. Khi chấm bài kiểm tra tất cả các môn học ta cũng phải lưu
ý cách sửa câu cho các em.
* Chữa lỗi về chính tả
Khi học sinh tìm ra lỗi chính tả mà mình viết sai, cơ giáo đã gạch chân
trong vở, giáo viên cần giúp các em cách phân biệt chính tả, giúp các em viết
đúng.
Ví dụ: tiếng "ra" các em phải biết phân biệt d/ gi/ r.
- Ra vào, ra cửa, đi ra
- Màu da cam, cặp da...
- Gia đình, gia súc....
Khi chữa lỗi giáo viên kẻ bảng thành hai cột
* Chữa lỗi về cách dùng từ
Ví dụ 1: Ai sống chả có cha mẹ, thật thiệt thịi cho những em nhỏ mồ côi
cả cha lẫn mẹ (học sinh đọc lên).
Giáo viên ghi lên bảng và hỏi?
18


- Em đọc thấy chỗ nào chưa hay? Có sai khơng?
( Từ " sống" chưa hay - chưa chính xác
* Chữa lỗi về câu về đoạn văn về diễn đạt
Các lỗi về câu thường gặp ở tiểu học là câu thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, câu
què, câu chỉ có thành phần phụ chỉ địa điểm hoặc thời gian, nguyên nhân, kết
quả... Thiếu thành phần chính ( tức là cả cụm chủ vị ), nêu ý chưa chọn vẹn (câu
cụt), câu có nhiều từ ngữ thừa, rườm rà, lủng củng. Cách chữa: giáo viên kẻ bảng

thành ba cột.
CÂU SAI

LỖI NGỮ PHÁP CÂU ĐÃ ĐƯỢC SỬA THÀNH CÂU ĐÚNG

Ví dụ 1: Học sinh đọc câu lủng củng của mình lên: Trong nhà em có một người
mà em rất yêu mến, đó là bà em rất kính u.
Em có nhận xét gì về cách diễn đạt nội dung? (diễn đạt nội dung rườm rà).
Em có thể sửa như thế nào? Trong nhà em, bà là người thật đáng kính.
Ví dụ 2:
Đứng trước cảnh đẹp hùng vĩ của dãy núi. Em cảm thấy trong lòng đang
cố gắng đưa quê hương Tiên Yên giàu đẹp hơn.
- Đoạn văn của em đã được chưa? Sai ở đâu?
(Chấm câu sai, thay bằng dấu phẩy).
- Còn sai ở đâu nữa? (dùng từ chưa sát nghĩa " em cảm thấy...").
Cụm từ " em cảm thấy..." Cần phải thay bằng cụm từ nào cho sát nghĩa
hơn?
( Cần phải thay bằng cụm từ: " em càng thêm yêu quê hương đất nước và
quyết tâm học tốt để đưa quê hương Tiên Yên ngày một giàu đẹp hơn")
Em hãy nhận xét câu đã được sửa và câu chưa sửa?
* Chữa lỗi câu thơng qua thảo luận trong nhóm.
- Với cách làm này tơi thường chia nhóm theo năng lực, sở trường của học sinh
rồi giao việc:
+ Nhóm học sinh trung bình: Tìm lỗi chính tả của các bạn trong nhóm rồi thảo
luận, tìm cách sửa.
+ Nhóm học sinh khá: Tìm từ dùng sai, câu lủng củng...rồi tìm cách sửa.
+ Nhóm học sinh khá giỏi với yêu cầu cao hơn: Tìm câu hay trong bài của bạn,
thêm hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để câu văn được sinh động hơn, hoặc
chuyển mở bài trực tiếp thành gián tiếp, kết bài không mở rộng thành kết bài mở
rộng...Sau đó đọc lại bài đã sửa và đọc mẫu cho cả lớp tham khảo.

* Chấm bài và chữa bài trực tiếp với từng học sinh
19


Tình cảm, cảm xúc rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người. Với
học sinh Tiểu học tình cảm, cảm xúc có mối quan hệ mật thiết với quả trình tư duy
của các em. Nhờ có tư duy phát triển học sinh Tiểu học nâng cao hiểu biết của
mình về các sự vật, hiện trong thực tế khách quan, nhờ vậy tình cảm u, ghét của
các em khơng cịn tính ngẫu nhiên. Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh Tiểu học
thích khám phá những sự vật, hiện tượng cụ thể, sinh động. Các em rất ngạc nhiên
xúc động khi được thầy cô hoặc bạn bè chỉ dẫn để tìm ra những đặc điểm mới của
đối tượng. Chính tình cảm, cảm xúc có tác động khơng nhỏ vào việc giúp HS liên
tưởng, tưởng tượng sáng tạo để có được những hình ảnh đẹp, những câu văn hay
* Hướng dẫn học sinh sửa lỗi câu qua một số bài cụ thể:
Sau khi nghiên cứu tìm hiểu một số nguyên nhân dẫn đến những lỗi câu sai
của học sinh và đề xuất biện pháp sửa chữa, tôi hướng dẫn học sinh sửa lỗi trong
một số bài cụ thể như sau:
Tiết 1: Tập làm văn (trả bài văn viết).
* Đề bài: Tả con vật mà em yêu thích ( em biết)- Tuần 34
* Lỗi mắc phải:
- Câu thiếu bộ phận chủ ngữ.
- Câu thiếu bộ phận vị ngữ.
- Câu thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ.
- Câu văn lủng củng, diễn đạt không rõ ý.
* Hướng dẫn chữa lỗi:
- Giáo viên phân tích các câu văn cụ thể của học sinh trong bài viết. Cho
học sinh đọc và nêu cách sửa lỗi cho bạn. Giáo viên công nhận hoặc bổ sung thêm
cho câu văn hồn chỉnh. u cầu học sinh có câu sai viết lại câu đúng vào vở
- Giáo viên đọc mẫu một đoạn văn hay, một bài văn tốt về nội dung và bố
cục, có sự sáng tạo; dùng từ và sắp xếp ý có sự liên kết. Giáo viên hỏi để tìm ra

cách dùng từ, diễn đạt ý hay để học sinh học tập.
- Hướng dẫn viết lại văn: Yêu cầu học sinh tự chọn lại một đoạn văn chưa
đạt trong bài làm của mình để viết lại cho hay. Lưu ý câu trong đoạn văn phải
diễn đạt 1 ý trọn vẹn, dùng từ phải phù hợp chính xác, hay và nên chọn một đoạn
văn trong phần thân bài. Gọi học sinh đọc lại đoạn văn vừa viết lại và sửa (nếu
cần).
Tiết 2: Luyện từ và câu
Bài: Câu kể
Khi thực hiện các bước lên lớp, tôi đặc biệt quan tâm đến việc phân tích
các câu văn trong phần nhận xét và sửa các câu văn trong phần luyện tập của học
sinh.
Cho học sinh đọc kĩ các yêu cầu của bài, đặc biệt những bài phân tích cấu tạo ngữ
pháp của câu. Sau đó, cho học sinh trả lời miệng, thảo luận theo cặp hoặc nhóm
20


để tìm lỗi câu, tự sửa lỗi và viết lại cho hồn chỉnh câu văn. Trên cơ sở đó có sự
ghép nối, liên kết để tạo đoạn văn, bài văn.
Bằng cách sửa lỗi như trên, trong giờ học bài "Câu kể" học sinh trong lớp đã viết
được các câu văn như:
+ Sau mỗi buổi học, em thường giúp mẹ nấu cơm. Em cùng mẹ nhặt rau, gấp
quần áo. Em tự làm vệ sinh cá nhân, có khi em cịn đi đổ rác đấy...
+ Em có chiếc bút máy màu xanh rất đẹp. Nó là món q mà cơ giáo tặng cho
em. Thân bút trịn xinh, ngịi bút rất trơn...
+ Tình bạn thật thiêng liêng và cao quý. Nhờ có bạn bè mà cuộc sống của chúng
ta vui hơn. Bạn bè có thể giúp đỡ nhau trong học tập, trong vui chơi...
+ Em rất vui vì hơm nay mình được điểm 10 mơn Tốn. Về nhà em sẽ khoe ngay
với mẹ. Mẹ em chắc sẽ rất hài lòng...
Qua việc sửa lỗi trực tiếp trong tiết học như trên, tôi tự nhận thấy mình đã
có sự linh hoạt cho phù hợp với đối tượng lớp mình dạy như dùng hệ thống câu

hỏi gợi ý, luôn củng cố khắc sâu kiến thức, cho các em nhắc lại nhiều lần phần ghi
nhớ. Đối với những em yếu kém, một mặt giúp các em nắm chắc nội dung bài,
mặt khác ln tạo ra những tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy và tự
trả lời. Qua đó, rèn cho các em kĩ năng nói, tư duy và cách viết câu văn hồn
chỉnh. Trong bài dạy tôi thực sự coi trọng việc sửa câu và luôn hướng dẫn các em
lấy kiến thức ngữ pháp để so sánh, đối chiếu vào câu của mình xem đã đúng chưa,
nếu sai thì do đâu và hướng giải quyết như thế nào?
4. Giáo viên từng bước giúp các em rèn luyện tư duy để viết đúng câu
Tiếng việt:
Ta thấy rằng việc sửa lỗi câu không phải là một sớm một chiều có thể thực
hiện được ngay, mà việc sửa chữa này là cả một quãng thời gian dài với một q
trình rèn luyện cơng phu. Do vậy, chỉ có sự rèn luyện liên tục trong mọi hoạt động
hàng ngày của học sinh mới rút ngắn và đạt kết quả cao trong công việc sửa chữa
lỗi về câu. Đối với bất kỳ vấn đề gì, học sinh cần có sự tư duy lơgic và sắp xếp ý
nhằm tốt lên chủ đề được nêu.
Người giáo viên cần giúp học sinh hình thành nên cách suy nghĩ theo trình
tự phù hợp để viết được những câu văn hay, hợp lý.
5. Nâng cao chất lượng viết câu cho học sinh.
- Trong khi HS làm các bài tập thực hành viết câu, giáo viên phải hướng
dẫn cho các em thói quen xác định yêu cầu của đề bài hay chính là việc đi trả lời
ba câu hỏi:
+ Yêu cầu của đề bài thuộc dạng gì?
+ Với dạng yêu cầu đó thì câu cần viết đã được biết trước các yếu tố gì?
+ Cần bổ sung các yếu tố nào để hoàn thiện câu?
- Với mỗi loại bài tập cần hình thành cho HS cách khái quát để giải quyết.
21


VD: Dạy phân tích thành phần câu, mô hình khái quát để giải bài tập
này là:

+ Tìm nội dung thông báo chính của câu
+ Tìm chủ đề thông báo, nội dung thông báo có liên quan tới chủ đề
thông báo.
+ Xác định những từ đảm nhiệm vai trò chủ thể thông báo và nội dung
thông báo có liên quan đến chủ thể thông báo. Đối chiếu những từ ấy xem chúng
giữ chức năng gì?
VD: Dạy đặt câu:
+Xác định nội dung chính của câu sẽ đặt.
+ Xác định cấu trúc ngữ pháp của câu
+ Tìm từ để diễn đạt nội dung của câu và tuân theo cấu trúc ngữ pháp
nhất định.
+ Diễn đạt thành câu hoàn thiện.
+ Kiểm tra và sửa chữa câu vừa đặt.
- Để cho HS ham thích rèn luyện viết câu và viết câu có hiệu quả thì cần cho
HS thực hành viết câu với:
+ Các dạng bài khác nhau: đặt câu, điền từ, viết đoạn…
+ Các hình thức làm bài khác nhau: theo lớp, theo nhóm, theo cá nhân.
+ Các phương pháp khác nhau, cách thức thực hiện khác nhau: viết câu trong
viết kịch bản để đóng kịch, thi viết câu nhanh, trò chơi tìm từ nhanh, thi ứng đáp
câu đúng…
+ Đưa ra các tính huống giao tiếp đa dạng trong thực tiễn đời sống.
- Việc sữa lỗi câu cần được tổ chức một cách tỉ mỉ, cẩn thận. Khi hướng dẫn
học sinh sửa lỗi câu cần:
+ Đưa ra các câu có lỗi sai điển hình.
+ Chỉ ra lỗi sai
+ Xác định nguyên nhân dẫn đến lỗi sai
+ Đối chiếu câu đã sửa với câu sai, rút ra các lưu ý khi viết câu.
- Dạy viết câu không chỉ gói gọn trong phạm vi môn luyện từ và câu, các phân
môn khác của môn Tiếng Việt mà ở tất cả các môn học. Đồng thời phối hợp rèn kĩ
năng viết câu với các kĩ năng sử dụng từ.

- Thường xuyên đánh giá chất lượng viết câu của học sinh và khảo sát định kì
vở viết các môn của học sinh để xác định HS đang yếu về phần nào. Từ đó xác
định nguyên nhân và có biện pháp khắc phục kịp thời.
2.3. Kết quả nghiên cứu
22


Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp về
việc sửa lỗi câu cho học sinh lớp 4. Để biết được kết quả bước đầu cả những
phương pháp mình thực nghiệm thực tế, tơi đã cho học sinh của lớp mình làm 1
bài tập làm văn với đề bài như sau: Em hãy tả con vật ni trong gia đình em
hoặc em biết.
u cầu của bài văn phải đảm bảo các phần sau:
1. Mở bài:
- Giới thiệu con vật mình tả (của nhà ai, em quan sát khi nào, nó có gì đặc
biệt…)
- Con vật em được tả đã để lại cho em ấn tượng, tình cảm gì?
2. Thân bài:
- Tả ngoại hình: Bộ lơng, cái đầu, chân, đi, hàm răng, móng vuốt,...
- Tả hoạt động: khi kiếm ăn; khi đùa giỡn; kinh rình con mồi,...
3. Kết bài:
- Tình cảm của em với con vật của mình.
- Những suy nghĩ của em về con vật đó.
Văn tả con vật u cầu phải đảm bảo tính chính xác, trung thực của từng
chi tiết. Khơng nên thêm thắt những chi tiết sai sự thật, sẽ làm hỏng bài văn, phải
tả con vật theo đúng trình tự từ bao quát đến chi tiết.
- Điểm 9, 10: đảm bảo các ý ở từng phần trên. Diễn đạt rõ ràng, lưu lốt lời
văn chân thành tự nhiên khơng sai lỗi câu và chính tả.
- Điểm 7, 8: Đảm bảo các ý trên. Diễn đạt đôi chỗ chưa thật rõ ràng. Sai
khơng q 3 lỗi câu và chính tả.

- Điểm 5, 6: bố cục chưa rõ ràng, còn thiếu ý cơ bản. Sai trên 3 lỗi câu và 3
lỗi chính tả.
- Dưới điểm trung bình: chưa nắm được phương pháp thuật chuyện, bố cục
khơng rõ ràng. Diễn đạt khơng thốt ý. Sai nhiều lỗi câu và chính tả.
+ Khơng làm bài hoặc viết một vài câu vô nghĩa.
Sau khi chấm bài có kết quả như sau:
100% các em đã viết được những câu đơn giản có chủ ngữ và vị ngữ.
Những câu có cả thành phần phụ, các em đã có sự nhận xét đánh giá và phân biệt
giữa thành phần chính và thành phần phụ nên số lượng mắc lỗi của các em đã
giảm.
Cụ thể là:
- Câu viết thiếu chủ ngữ: 3 em mắc phải.( ở một số câu không phải toàn
bài)

23


- Về mặt diễn đạt chưa thoát ý, chưa lưu lốt chỉ cịn 3 em.(ở mợt sớ câu
khơng phải toàn bài)
Căn cứ vào bài chấm tôi thống kê điểm bài viết của học sinh như sau:
Tổng số học sinh: 27 em
- Số học sinh có kỹ năng viết câu đúng ở mức:
+ Khá: 15 em = 55,6%
+ TB: 06 em = 22,2%
+ Yếu: 06 em = 22,2%
Nhận xét
Bằng sự nhiệt tình trong cơng tác nghiên cứu giảng dạy, tơi đã vận dụng
sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh
lớp 4 để giúp các em không chỉ viết được những câu văn đúng trong giờ tập làm
văn mà còn sáng tạo ra cho các em thói quen sử dụng những câu văn hồn chỉnh

trong giao tiếp hàng ngày.
Tuy rằng số lượng các em viết đúng và hay về câu văn vẫn còn hạn chế
nhưng những biện pháp sửa lỗi của các em phần nào đã giúp các em học sinh lớp
4A nhìn nhận ra lỗi câu của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý.
2.4. Một số bài học kinh nghiệm:
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội càng phát triển càng đòi hỏi con người
khả năng giao tiếp tốt hơn trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường. Trong hoạt động
giao tiếp, câu được coi là đơn vị trung tâm và từ là yếu tố không thể thiếu để tạo
câu. Vì vậy, sửa lỗi câu cho học sinh là một việc làm thường xuyên và liên tục
trong dạy học. Và cũng là để thực hiện nhiệm vụ “giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt”, để “nói và viết Tiếng Việt sao cho đúng, cho hay”. Chính vì tầm quan trọng
như vậy nên tôi rất trăn trở về đề tài “Rèn viết câu câu cho học sinh lớp 4 thông
qua phân môn Luyện từ và câu” để tìm ra nguyên nhân và đề ra những giải pháp
có hiệu quả phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy.
Ở đề tài này tôi đã tìm hiểu các lỗi về từ, về câu mà học sinh lớp 4 trường
Tiểu học thị trấn Tiên Yên thường mắc phải. Trên các ngữ liệu từ sai, câu sai đã
thống kê tôi đã phân loại và tìm hiểu nguyên nhân để tìm ra những biện pháp khắc
phục mang tính khả thi. Hơn nữa tôi cũng mạnh dạn đề xuất một số biện pháp để
hạn chế lỗi sai ngữ pháp, để rèn kĩ năng dùng từ, viết câu cho học sinh lớp 4.
Đối với học sinh trung bình các em đã xác định đúng yêu cầu đề, biết viết
câu văn đúng ngữ pháp, viết đoạn văn bài văn tương đối hình ảnh. Với học sinh
có lực học giỏi các em đã biết quan sát thực tế một cách chi tiết, biết sử dụng tốt
các biện pháp nghệ thuật trong khi làm bài. Vì vậy bài viết của các em đã có nhiều
sáng tạo và chuyển biến rõ rệt so với đầu năm. Qua đó, tơi rút ra được một số bài
học cho bản thân như sau:
1. Phải nâng cao nhận thức của giáo viên là biện pháp tiên quyết để nâng
cao chất lượng dạy học.
24



2. Giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn nghiên cứu sâu về các vấn đề: Bồi
dưỡng kiến thức về mở rộng vốn từ, cách sử dụng các từ loại, luyện kĩ năng diễn
đạt cho giáo viên, bồi dưỡng về phương pháp và cách lựa chọn hình thức dạy
học,... để dạy cho học sinh kĩ năng làm tốt các bài luyện từ và câu nói riêng, mơn
Tiếng Việt nói chung.
3. Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian nghiên
cứu cho mỗi bài giảng, có kế hoạch và phương pháp giảng dạy theo từng đối
tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp, tạo ra những giờ dạy
gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả học tập cao.
4. Giáo viên phải thực sự linh hoạt, sáng tạo, tránh gị ép, khn mẫu, áp
đặt, cân phát huy được tính tích cực sáng tạo của học sinh. Khuyến khích động
viên học sinh kịp thời, tổ chức các hoạt động ngoại khố để học sinh bộc lộ mình.
Sử dụng triệt để các thiết bị dạy học phục vụ tốt cho việc giảng dạy của giáo viên
và học tập của học sinh.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua quá trình nghiên và tìm hiểu thực tế tơi thấy người giáo viên muốn
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì phải miệt mài nghiên cứu tài liệu và điều
quan trọng là phải đi sâu vào thâm nhập đối tượng học sinh để có thể tìm ra
phương pháp giảng dạy tốt nhất giúp cho học sinh hiểu và nắm được nội dung của
vấn đề.
Qua thực tế giảng dạy, qua nghiên cứu chương trình ngữ pháp trong sách
Tiếng việt 4 có liên quan đến câu, tìm hiểu việc viết câu của học sinh qua một số
bài tập làm văn, trao đổi với giáo viên giảng dạy, dự giờ, dạy thể nghiệm, tiến
hành tìm hiểu nguyên nhân việc viết câu sai của học sinh và đề ra một số biện
pháp sửa chữa, xem xét kết quả thu được… Tôi đã tự rút ra bài học cho bản thân
về phương pháp, trình độ, năng lực truyền đạt kiến thức cho học sinh, nhất là việc
sửa lỗi câu cho học sinh Tiểu học, cụ thể là học sinh lớp 4 là vô cùng cần thiết và

cấp bách. Tuy các em học sinh có rất nhiều tiến bộ song tôi không phải đã thật sự
yên tâm, bởi vì liệu các em có sửa chữa khắc phục thường xun hay khơng?
Nhưng tơi tin rằng phong trào đó sẽ giữ được khi mà người giáo viên nhận thức
được cốt lõi vấn đề và tiếp tục sửa chữa cho các em trong quá trình học tập
thường xuyên ở tất cả các môn học.
Từ thực tế giảng dạy cùng với việc nghiên cứu đề tài này, tơi thấy mình vẫn
cịn một số hạn chế, đó là chưa phát huy được tuyệt đối biện pháp của mình đưa ra
cho nên kết quả của việc sửa chữa lỗi câu của học sinh chưa đạt 100%.
25


×