Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Luận án tiến sĩ nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành đường mía việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.89 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

NGUYỄN HỮU ĐIỆP

NGHIÊN CỨU NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH ĐƯỜNG MÍA VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế Công nghiệp
Mã số:

62.31.09.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
1.TS. Nguyễn Đại Thắng
2. GS. TS. Mai Ngọc Cường

HÀ NỘI-2008


Lời cam đoan

Luận án tiến sỹ kinh tế Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành đường
mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
Chuyên ngành: Kinh tế công nghiệp
MÃ số: 62.31.09.01
Là công trình của riêng tôi.
Luận án đà sử dụng thông tin từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, các thông tin
có sẵn đà được trích dẫn rõ nguồn gốc.


Tôi xin cam đoan rằng, các số liệu và kết quả nghiên cứu đà được nêu
trong luận án là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào,
hoặc chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học
nào khác.

Tác giả Luận án

Ths Nguyễn Hữu Điệp


Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận án Tiến sĩ khoa học kinh tế tôi nhận được sự giúp đỡ,
động viên khích lệ của nhiều tổ chức từ trung ương đến địa phương, của nhiều Nhà
khoa học, của bạn bè đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Bộ giáo dục và Đào tạo, Ban
giám hiệu, Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng sau Đại học, Khoa kinh tế và quản lý
trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Cục Chế biến Nông lâm sản và Nghề muối,
Viện Quy hoạch thiết kế, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp
nông thôn, thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT đà tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi
hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đơn vị Cục, Vụ, Viện, Các Trung tâm, Ban
quản lý các dự án Nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT và các Sở Nông
nghiệp và PTNT ở các địa phương đà tạo điều kiện địa bàn cho tôi nghiên cứu
thuận lợi.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến tập thể hướng dẫn khoa học:
Tiến sĩ:
Nguyễn Đại Thắng, GS.TS Mai Ngọc Cường, PGS.TS
Trần Văn Bình, TS.
Nguyễn Văn Nghiên, TS. Ngô Trần ánh giúp đỡ tận tình để tôi hoàn thành luận án.

Cho tôi xin chân thành cảm ơn các Nhà khoa học, các thầy cô giáo, bạn bè,
đồng nghiệp gần xa và gia đình đà động viên khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành
Luận án Tiến sỹ khoa học kinh tế này.
Xin chân thành cảm ơn.

Tác giả Luận án

Ths. Nguyễn Hữu Điệp


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADP

Ngân hàng phát triển Châu Á

AFTA

Hiệp định thương mại tư do ASEAN

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương

AOA


Hiệp định WTO về nơng nghiệp

BULOG

Cơ quan quản lý hậu cần quốc gia

CCS

Trữ lượng đường

CNH

Công nghiệp hố

DHNTB

Dun hải Nam trung bộ

ĐBSCL

Đồng bằng sơng Cửu Long

ĐBSH

Đồng bằng sơng Hồng

EU

Liên minh Châu Âu


HĐH

Hiện đại hố

HTX

Hợp tác xã

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

SAGO

Kiểm tốn Nhà nước

SDC

Cơng ty TNHH tư vấn phát triển bền vững

SRA

Uỷ ban điều phối đường

TMN

Tấn mía ngày

UNCTAD


Hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển

VAT

Giá trị gia tăng

VIETCOMBANK Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
WEF

Diễn đàn kinh tế thế giới

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


CÁC HÌNH SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO
Trang

Hình 1

Mơ hình Porter M về các yếu tố tác động tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp

31

Hình 2

Phát triển diện tích mía và sản lượng mía 1995-2005


45

Hình 3

Năng suất mía Việt Nam cịn thấp so với thế giới

45

Hình 4

Năng suất và trữ lượng đường trong 5 năm

46

Hình 5

Thay đổi về số lượng đường các nhà máy và sản lượng
đường 1995-2005

48

Hình 6

Lực lượng lao động của ngành sản xuất đường, giai đoạn
2004-2005

49

Hình 7


Mối quan hệ giữa giá mía và diện tích trồng mía 2000-2005

53

Hình 8

So sánh chi phí sản xuất mía của Việt Nam với một số
nước (USD/tấn)

55

Hình 9

Tương quan giữa quy mơ và giá thành

61

Hình 10

Quan hệ giữa mở rộng sản lượng và xuất khẩu với chi phí
sản xuất đường của các nước trên thế giới thời kỳ 1991-2003

62

Hình 11

Cơ cấu chi phí sản xuất đường trắng

63


Hình 12

Chi phí sản xuất đường của một số nước (USD/tấn)

64

Hình 13

Chi phí sản xuất đường của một số nước hàng đầu thế giới
và các nước ASEAN

65

Hình 14

Năng suất trung bình của một số giống mía chính

73

Hình 15

Số nhà máy và tổng cơng suất (TMN)

77

Hình 16

Phân bố thị trường đường cơng nghiệp

83


Hình 17

Lượng cung, mức tiêu thụ và giá mặt hàng đường tại Việt
Nam, 1995-2005

85

Hình 18

Sản xuất, tiêu thụ và giá đường trên thế giới

87

Hình 19

Đồ thị xuất khẩu đường của một số nước chủ yếu (100 tấn)

87

Hình 20

Thị phần nhập khẩu của Úc, Brazil, Thái Lan ở Đơng và
Đơng Nam á

88

Hình 21

Kênh tiêu thụ mía đường ở Lam Sơn, Thanh Hố


93

Hình 22

Thuế nhập khẩu áp dụng trong ASEAN và một số nước
trên thế giới

99

Hình 23

Giá đường thế giới

109

Hình 24

Giá đường trắng trên thị trường thế giới, USD/tấn

110


CÁC BẢNG SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO
Trang

Bảng 1

16


Bảng 3

Các nhân tố cơ bản xác định năng lực cạnh tranh quốc gia
trong bối cảnh mới
Các chỉ tiêu thể hiện năng lực cạnh tranh quốc gia chủ yếu
(theo WEF, năm 2000)
Năng lực cạnh tranh chịu tác động của những nhân tố

Bảng 4

Các chỉ số lượng và chất) hàm chứa năng lực cạnh tranh

22

Bảng 5

Chữ lượng đường của các vùng mía nguyên liệu

46

Bảng 6

Kết quả sản xuất đường của các NMĐ niên vụ 2004-2005

47

Bảng 7

Các sản phẩm sau đường và bên cạnh đường của các
NMĐ niên vụ 2004-2005


49

Bảng 8

So sánh năng suất lao động sản xuât đường của Việt Nam
với một số nước trên thế giói

50

Bảng 9

Chi phí sản xuất mía ngun liệu bình quân 1 ha/năm lấy
đại diện một số NMĐ tiêu biểu

51

Bảng 10

Chi phí cơng lao động sản xuất mía ngun liệu

52

Bảng 11

Chi phí vận chuyển mía phân theo các khoảng cách khác nhau

52

Bảng 12


Giá thành mía nguyên liệu vụ 2003-2004

53

Bảng 13

Hiệu quả sản xuất mía ngun liệu bình qn 1 ha/năm lấy
đại diện một số NMĐ tiêu biểu

56

Bảng 14

Giá thành sản xuất và bán đường niên vụ 2003-2004

59

Bảng 15

Giá thành đường sản xuất của NMĐ theo quy mô nhà máy
niên vụ 2002-2003

60

Bảng 16

Cơ cấu chi phí trong sản xuất đường

63


Bảng 17

So sánh một số chỉ tiêu mía đường Việt Nam với Thái Lan
niên vụ 2001-2002

64

Bảng 18

Lưu lượng mưa có thể phân chia theo các vùng ở Việt Nam

66

Bảng 19

Diện tích đấu có khả năng bố trí trồng mía

69

Bảng 2

17
19


Bảng 20

Diện tích đất mía có khả năng tưới và là đất bằng máy


70

Bảng 21

Các chân đất trồng mía nguyên liệu niên vụ 2003-2004

71

Bảng 22

Cơ cấu giống mía nguyên liệu của các vùng niên vụ 2003-2004

72

Bảng 23

Đặc điểm kinh tế hộ nơng dân trồng mía trong vùng
ngun liệu

74

Bảng 24

Tình hình phân tán đất đai của hộ trồng mía

75

Bảng 25

Cơng st nhà máy đường Việt Nam, giai đoạn 1994-2005


78

Bảng 26

Đầu tư chi phí thiết bị trên tấn cơng suất của các nhà máy đường

79

Bảng 27

Lợi nhuận của các nhà máy sản xuất đường năm 2004-2005

82

Bảng 28

Sản lượng đường thế giới theo các khu vực – Tháng
8/Tháng 9

86

Bảng 29

Lượng tiêu thụ đường thế giới theo các khu vực Tháng
8/Tháng 9

86

Bảng 30


Diện tích ký hợp đồng đầu tư và thu mua mía nguyên liệu

89

Bảng 31

Chi phí nguồn lực trong nước và chỉ tiêu bảo hộ sản phẩm đường

99

Bảng 32

Lộ trình cắt giảm thuế đường theo AFTA

112

Bảng 33

Dự báo nhu cầu về đường tới năm 2010 và 2020

116

Bảng 34

Dự báo nhu cầu và khả năng sản xuất đường ở Việt Nam

119

Bảng 35


Hiệu quả sản xuất mía ngun liệu bình qn 1 ha/năm
cây mía trồng có tưới

125

Bảng 36

Hiệu quả sản xuất mía ngun liệu bình qn 1 ha/năm cây
mía trồng khơng có tưới (chủ yếu trồng trên chân đất cao)

126

Bảng 37

Định hướng mở rộng cộng suất các nhà máy, dự kiến đến 2010

127


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án:
Cạnh tranh là hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi nghiên
cứu về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, C.Mác và nhiều nhà kinh tế học khác phát
hiện tính quy luật tất yếu của nền sản xuất hàng hố, đó chính là sự cạnh tranh.
Cạnh tranh là sự tranh giành, sự ganh đua giữa các thành viên tham gia kinh
tế thị trường để đạt được lợi nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực hạn chế của
mình. Cạnh tranh trong kinh tế thị trường có thể mang lại lợi ích cho người này,
doanh nghiệp này nhưng lại gây ra các thiệt hại cho người khác, doanh nghiệp
khác. Tuy nhiên, xét trên phạm vi tồn xã hội thì cạnh tranh ln có tác động tích

cực. Để cạnh tranh được trong kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh phải tìm mọi
cách để đưa ra thị trường các sản phẩm hàng hố, dịch vụ có chất lượng cao, được
thị trường ưa chuộng với giá cả hợp lý nhưng vẫn có lợi nhuận cao. Cạnh tranh tạo
ra động lực cải tiến khoa học công nghệ và đào thải các công nghệ lỗi thời. Sự
cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường cịn có tác dụng hướng việc sử dụng
các nhân tố sản xuất vào những nơi có có lợi thế, điều đó cũng có nghĩa là do có sự
cạnh tranh mà việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên để sản xuất ra của cải
xã hội ngày càng có hiệu quả hơn.
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang kinh tế thị trường và đang trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Do vậy, các doanh nghiệp trong nước đang từng bước phải chấp nhận và đối
diện với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Một nền kinh tế thị trường còn non
trẻ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường trong nước khơng chỉ mở
cửa về thương mại mà cịn mở cửa cả về đầu tư và dịch vụ nên sự cạnh tranh ngày
càng trở nên mạnh mẽ, gay gắt hơn kể cả ở thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Ở Việt Nam, trong khoảng 3 thập kỷ vừa qua, việc trồng mía và cơng nghiệp
chế biến đường mía phát triển khá mạnh và có những bước tiến đáng khích lệ, đặc
biệt là quy mơ sản xuất của ngành đường mía ngày càng tăng lên, chất lượng sản
phẩm ngày càng được cải thiện hơn, sản phẩm đường mía đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu tiêu dùng đường trong nước. Tuy nhiên, ngành đường mía Việt
1


Nam vẫn cịn nhiều hạn chế về sản xuất mía nguyên liệu; mối quan hệ và sự phối
hợp giữa nhà máy đường với hộ nơng dân trồng mía; quy mơ, công nghệ và thiết bị
của các nhà máy đường; cơ chế chính sách và trình độ quản lý. Những hạn chế này
dẫn đến chi phí sản xuất và giá thành sản xuất đường mía ở Việt Nam khá cao, rất
khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Hiện nay và trong tương lai, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng
đường mía của Việt Nam là vấn đề mang tính thời sự và đang được Đảng, Chính

phủ, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp, nhiều nông dân hết sức quan tâm.
Chỉ có nâng cao năng lực được cạnh tranh thì ngành hàng đường mía của Việt
Nam mới có thể tồn tại và phát triển bền vững.
2. Mục đích của đề án
- Đánh giá bối cảnh phát triển của ngành đường mía Việt Nam và chỉ ra những
định hướng tăng cường năng lực cạnh tranh của ngành đường mía trong những năm tới.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành đường mía của Việt Nam trong diều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Giới hạn phạm vi đề án
- Về nội dung: Đề án đi sâu phân tích một số nội dung về định hướng và các
giải pháp chính sách vĩ mơ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng
đường mía trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về không gian: Đề án đề cập đến ngành hàng đường mía trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Đề án nghiên cứu các vấn đề liên quan đến năng lực cạnh
tranh ngành đường mía từ 1990 trở lại đây.
4. Phường pháp:
- Vận dụng phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách
thức( Phân tích SWOT) đối với ngành hàng đường mía.
5. Bố cục của đề án:
Chương 1: Bối cảnh phát triển và định hướng tăng cường năng lực cạnh
tranh của ngành đường mía.
Chương 2: Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành đường
mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết luận và kiến nghị.
2


Chương 1
BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN VÀ ĐỊNH HƯỚNG TĂNG NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH ĐƯỜNG MÍA

1. Bối cảnh quốc tế và trong nước có tác động tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành đường mía nước ta những năm tới.
1.1. Những xu hướng dài hạn về việc tiêu thụ và giá cả đường trênThế giới.
Thứ nhất về tiêu thụ đường trên Thế giới: Tiêu thụ đường được coi là vấn đề
định hướng của nền kinh tế ngành đường trên Thế giới. Vấn đề là toàn bộ đường
được sản xuất ra phải được tiêu thụ từng bước để tránh gây áp lực trên thị trường
ảnh hưởng đến giá cả. Có một số nhân tố ảnh hưởng đến việc tiêu thụ đường, trong
đó có những nhân tố mà theo những nhà kinh tế học coi là quan trọng nhất gồm:
Giá đường và những chất ngọt thay thế, thu nhập bình quân đầu người, sự phát
triển dân số, khả năng sản xuất đường, sự lựa chọn của khách hàng, tiến bộ khoa
học kỹ thuật và những chính sách của Chính phủ. Trong những yếu tố trên, sự phát
triển dân số và thu nhập bình quân đầu người được đánh giá là quan trọng nhất.
Những tính tốn cho ta thấy sự tăng dân số ảnh hưởng tới việc tăng tất cả mọi nhu
cầu là 85%. Sự thật là lượng tiêu thụ sẽ ngày càng tăng.
Mặc dù gần đây lượng tiêu thụ có xu hướng giảm, nhưng tỷ lệ tăng về tổng
lượng đường tiêu thụ trong thế kỷ 20 cũng rất khác thường, tăng hơn 100 triệu tấn.
Đầu thế kỷ trước tổng lượng tiêu thụ đường trên toàn Thế giới chỉ khoảng 11 triệu
tấn, tính theo hàm lượng đường thơ, đến khoảng năm 1949/50 con số này đã tăng
gấp 3 lần lên 36,5 triệu tấn, đến năm 1985/86 lượng tiêu thụ đã tăng lên 100,5 triệu
tấn, và tính đến cuối thế kỷ, khoảng năm 1999/2000, tổng lượng tiêu thụ đã tăng lên
đến 129 triệu tấn.
Trong những năm cuối thế kỷ trước, những quốc gia hiện nay là thành viên
của khối EU 25 thành viên tiếp tục tăng lượng tiêu thụ, mặc dù tỷ lệ trung bình
giảm nhẹ khoảng 1%. Đây là mức tăng tối thiểu phản ánh tỷ lệ tăng dân số rất thấp.
Khi bước sang thế kỷ mới, có nhiều vấn đề hơn khi lượng tiêu thụ giảm theo từng

3


năm, nhưng trong tương lai thì những vấn đề trên là sự chấp nhận chứ không phải

là quy luật
Trong giới hạn ngành đường, Nga chi phối toàn bộ những quốc gia không
thuộc khối EU và lượng tiêu thụ chiếm một nửa trong khu vực này. Vì vậy, khơng
có gì ngạc nhiên là lượng tiêu thụ ở khu vực không thuộc khối EU rất bất biến.
Quốc gia tiêu thụ đường lớn thứ hai sau Nga là Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng ở đây, khi bỏ
qua quy định về khu vực và do khả năng cung cấp đường thấp hơn cũng ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng.
Châu Phi là châu lục có những quốc gia nghèo nhất Thế giới. Hầu hết những
quốc gia này có lượng tiêu thụ bình qn theo đầu người ở mức rất thấp, và đã có
chuyển biến nhỏ trong hai thập kỷ tính đến năm 2000. Nhưng dù sao, đây không
phải là trường hợp. Trong khi giữa thập kỷ 80 lượng tiêu thụ bình quân theo đầu
người là 15,6 kg thì đến cuối thập kỷ giảm xuống cịn có 14,6 kg. Sang thế kỷ mới
lượng tiêu thụ bình quân theo đầu người ở Châu Phí mới có những dấu hiệu
chuyển biến và theo dự báo đạt 15,8 kg trong năm 2004/05. Tuy nhiên, có thể nói
rằng trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ trước là thời gian "thất thoát' của ngành
đường Châu Phi. Chỉ có 3 quốc gia ở lục địa này là Algiêri, Tunisia và Ai Cập là
có lượng tiêu thụ tăng trong thập kỷ trước (1996-2005), ở đây tỷ lệ tăng trưởng
khoảng từ 1,6 đến 1,8% năm. Nói chung hai quốc gia tiêu thụ lớn nhất ở Châu Phi
là Ai Cập và Nam Phi.
Những con số thống kê lượng tiêu thụ ở khu vực Bắc và Trung Mỹ thể hiện
sự tăng trưởng rất rõ ràng. Từ năm 1985 đến năm 1989, lượng tiêu thụ bình quân
theo đầu người là khoảng 36kg/đầu người. Sau đó lượng tiêu thụ bỗng nhiên tăng
vọt và tăng khoảng 38 kg/năm. Có một số lý do khác nhau về sự tăng mạnh này
nhưng vấn đề quan trọng nhất là lượng tiêu thụ tăng mạnh ở Mehico. Trong năm
1989/90, tổng lượng tiêu thụ là dưới 4 triệu tấn nhưng trong năm tiếp theo đã tăng
lên 4,5 triệu tấn. Đầu thập kỷ 90, nhưng giấy phép nhập khẩu đường đã đã bị huỷ
bỏ và 2 đại diện chính quyền và ngành thương mại đã nhập khẩu với giá cước rất
cao và kết quả là nguồn cung cấp cao hơn nhu cầu tiêu thụ và dẫn tới giá thực tế bị
4



giảm. Có thể chất lượng cuộc sống ở Mehico ngày một tăng là lý do giữ vững được
mức tiêu thụ theo đầu người ở mức như vậy.
Nhìn chung, xu hướng tiêu thụ đường ở một số khu vực trên Thế giới là tăng
với tỷ lệ khá cao. Bởi vậy chúng tôi sẽ xem xét tỷ lệ tăng lượng tiêu thụ của từng
Châu lục và từng khu vực.
Lượng tiêu thụ đường ở khu vực EU 25 thành viên theo dự báo khoảng 18
triệu tấn, tính theo hàm lượng thơ trong năm 2004/05, giảm so với 18,2 triệu tấn
của năm ngoái. Trong hai năm qua lượng tiêu thụ ở khu vực này tăng rất chậm và
sẽ chỉ đạt mức trung bình trong thời gian dài. Những quốc gia thành viên của EU
chỉ tăng khoảng hơn 1 triệu tấn trong tổng lượng tiêu thụ trong giai đoạn 2014/15.
Như vậy, tổng lượng tiêu thụ ở khu vực Châu Âu 25 thành viên chỉ tăng lên
khoảng 19 triệu tấn theo thời gian nói trên.
Tốc độ phát triển ở các quốc gia Châu Âu bên ngoài khu vực EU sẽ sôi động
hơn. Tổng lượng tiêu thụ năm 2004/05 theo dự báo tăng lên gần 14 triệu tấn và đến
cuối giai đoạn nói trên sẽ tăng lên 16,5 triệu tấn. Nhưng dù sao, trái ngược với tình
hình ở khu vực EU 25 thành viên, tình hình có thể thất thường hơn. Trước đây lượng
tiêu thụ giảm mạnh theo từng năm và chỉ tăng mạnh trở lại trong những năm gần
đây. Xu hướng này tiếp tục diễn ra trong thời gian tới và độ chính xác của dự báo sẽ
thấp hơn so với khu vực EU 25 thành viên. Ở Châu Phi có nhiều mức tiêu thụ khác
nhau và mức tiêu thụ ở miền Bắc và miền Nam là có lượng tiêu thụ cao hơn cả. Tiền
năng tăng lượng tiêu thụ hầu hết là ở các quốc gia khu vực Châu Phi. Trong khi
lượng tiêu thụ năm 2004/05 chỉ đạt khoảng 14 triệu tấn, con số này có thể tăng lên
18 triệu tấn trong 10 năm tới. Nhưng dù sao, lượng tiêu thụ bình quần theo đầu
người xu hướng tăng cũng không tốt lắm. Theo dự báo lượng tiêu thụ bình quần
theo đầu người sẽ vượt mức 16 kg nếu tốc độ phát triển dân số tăng khoảng 2,5%
năm.
Sự phát triển lượng tiêu thụ ở Mỹ có xu hướng giảm. Lượng đường bán ra ở
Mỹ giảm mạnh trong ba năm qua và cũng có xu hướng giống như Nhật Bản. Cách
đây 5 năm, đã có 36 sản phẩm có hàm lượng đường thấp được giới thiệu trên thị

5


trường Mỹ. Trong năm 2003 đã có 607 sản phẩm và tính đến tháng 9 năm nay đã
có 948 sản phẩm dựa trên cơ sở dữ liệu sản phẩm mới trên toàn cầu Mintel. Hiệp
hội đường đã cảnh báo về sự thay đổi về tình hình đường quốc gia và quốc gia này
phải lập một kế hoạch mới để tiến hành một số cơng việc chưa hồn thành trong
thập kỷ qua, có thể gọi là chiến dịch quảng cáo quốc gia về những đặc tính tốt của
đường.
Là một quốc gia tiêu thụ đường lớn nhất khu vực Bắc và Trung Mỹ, cách
phát triển thị trường cũng sẽ tăng lượng sản phẩm toàn khu vực. Trong khi năm
2004/05 tổng lượng tiêu thụ đạt khoảng 19,2 triệu tấn thì trong thời gian tới lượng
tiêu thụ sẽ tăng gần 22 triệu tấn, tăng gần 3 triệu tấn.
Một trong những khu vực có lượng tiêu thụ bình quân theo đầu người cao
nhất là khu vực Nam Mỹ. Có một số lý do để khẳng định điều đó. Hầu hết các
quốc gia trong khu vực này đều sản xuất đường và nhìn chung họ đều đạt được
mức phát triển cao mặc dù họ vẫn chưa đạt lượng tiêu thụ theo mong muốn. Một
điều có thể tiên đốn trước là lượng tiêu thụ có thể tăng do dân số tăng. Nhưng dù
sao vẫn chưa có thể khẳng định được. Hiện nay, một nửa sản lượng mía được trồng
ở Brazil được sử dụng để sản xuất cồn. Liệu tình hình này có gì chuyển biến ngành
cơng nghiệp đường của Brazil chắc chắn rằng hầu hết lượng mía của Brazil sẽ
được sử dụng để sử dụng để sản xuất cồn. Tình hình này có thể hạn chế sản lượng
đường như theo các nhà phân tích thì ngành cơng nghiệp này sẽ ngược lại với
những dấu hiệu về kinh tế. Vấn đề này có ý nghĩa là cây mía tiếp tục đưa vào sử
dụng để làm ra những sản phẩm có lợi ích kinh tế cao hơn. Hiện tại quốc gia này
vẫn có nhiều kế hoạch nâng cơng suất, có nghĩa là ngành cơng nghiệp này vẫn có
khả năng cung cấp cho những nhu cầu khẩn cấp bất kể trong nước hay trên thị
trường quốc tế.
Trong khi lượng đường tiêu thụ ở Nam Mỹ đạt gần 17,2 triệu tấn trong năm
2004/05 trong thời gian tới có thể tăng lên trên 20 triệu tấn, tăng gần 3 triệu tấn.

Châu lục theo đánh giá có mức tiêu thụ thấp nhất thế giới là khu vực Châu Á/Thái
Bình Dương. Trong năm 2004/05, theo dự báo khu vực Châu Á/Thái Bình Dương
6


tiêu thụ trên 63 triệu tấn đường, chiếm khoảng trên 40% lượng tiêu thụ tồn cầu.
Khu vực này có tốc độ phát triển kinh tế khá mạnh sau đợt khủng hoảng kinh tế
năm 1998, khơng ít lý do gì để mong có sự thay đổi về tỷ lệ tiêu thụ đường ở hầu
hết các quốc gia. Nhưng dù sao, lượng tiêu thụ cũng có xu hướng tăng, trong đó
Ấn Độ và Trung Quốc là ví dụ điển hình.
Trong ba năm qua, tốc độ phát triển lượng tiêu thụ của Ấn Độ tăng chậm
mặc dù nền kinh tế tăng trưởng mạnh và dân số tăng nhanh. Thực tế là lượng tiêu
thụ bình quần theo đầu người năm 2005 sẽ giảm so với năm 2002 và ở mức
17,9kg. Vấn đề này cũng đáng quan tâm do giá đường trong nước tăng mạnh do
nguồn cung cấp trong nước hạn chế. Nhưng dù sao, vấn đề này sẽ khơng tồn tại lâu
vì theo dự báo quốc gia này sẽ hồi phục lại tỷ lệ phát triển nội địa ở mức bình
thường năm 2005/06.
Lượng tiêu thụ đường ở Trung Quốc phát triển theo nhiều chiều hướng khác
nhau. Sau đợt khơng có nhiều biến động năm 2000/01, trong 4 năm qua nhu cầu
cũng có tăng lên. Lượng tiêu thụ bình quần theo đầu người trong năm 2005 theo dự
báo sẽ tăng lên khoảng 9,6 kg, tăng so với 6,6 kg cách đây 10 năm. Theo dự báo
thì nền kinh tế của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh, khơng có lý do gì để nói
rằng lượng tiêu thụ của Trung Quốc không tăng mạnh trong hai năm tới. Sự thật là
Hiệp hội đường Trung Quốc dự báo lượng tiêu thụ sẽ tăng khoảng 1 triệu tấn/năm.
Đến năm 2010 dự báo dân số thế giới khoảng 6,8 tỷ người, nhu cầu tiêu thụ
đường cần khoảng 157,5 triệu tấn (tăng hơn so với hiện nay khoảng 13 triệu tấn),
mức tiêu dùng bình quân 22 kg đường/người; Giai đoạn 2011 – 2020, dự báo mức
tiêu thụ đường tăng khoảng 1,5%/năm, đến năm 2020 dân số thế giới khoảng 7,6 tỷ
người, nhu cầu tiêu thụ đường là 183 triệu tấn, mức tiêu dùng bình quân 24 kg
đường/người.

Dự báo từ nay đến năm 2010 và 2020, sản xuất đường của thế giới sẽ tăng
theo mức tiêu dùng, với xu hướng cung tiếp tục tăng nhanh hơn cầu, mức chênh
lệch dư cung so với cầu trung bình hàng năm 2-3% mức cầu (khoảng 4-5 triệu tấn)
và có thể cịn tăng cao hơn.
7


Thứ hai, về xu hướng biến động giá đường Thế giới: Giá đường trên thị
trường quốc tế thay đổi với biên độ dao động lớn. Sự dao động này xảy ra vì thị
trường đường thế giới là thị trường dư thừa, phần lớn đường bán ra do trong nước
không tiêu thụ hết, chứ khơng như các hàng hố dịch được bán ở mức giá phổ biến
trên Thế giới.
Thị trường Thế giới biến động mạnh khiến cho các Chính phủ phải sử dụng
nhiều biện pháp can thiệp mạnh vào thị trường trong nước. Nhiều Chính phủ sử
dụng biện pháp bình ổn giá để người nơng dân gắn bó lâu dài với việc trồng mía
hoặc củ cải đường và để người chế biến đầu tư lớn vào sản xuất. Vì vậy trên thế
giới, đường là một trong những hàng nông sản chịu điều tiết nhiều nhất, với hàng
loạt các chính sách quản lý công nghiệp đường. Theo các chuyên gia kinh tế của
Anh, biến động về giá đường thế giới có tính chu kỳ, bình thường có chu kỳ bình
qn khoảng 6 năm. Nhưng cũng có thời kỳ kéo dài tới 11 năm như thời kỳ 19621972, hoặc kéo dài 9 năm như thời kỳ 1977-1987. Trong 50 năm qua, giá đường
Thế giới đã đạt 3 mức cao kỷ lục vào các năm 1963, 1974-1975 và năm 1980. Như
vậy trong mỗi chu kỳ, giá đường đạt tới giá trị cao nhất rồi giảm dần tới cuối thời
kỳ lại đạt giá trị cao nhất, và cứ như vậy lập lại chu kỳ mới.
Phần lớn các nước sản xuất đường cố gắng hỗ trợ giá đường nội tiêu thông qua
đánh thuế nhập khẩu ở mức cao. Chính phủ nhiều nước cũng áp dụng hệ thống hạn
ngạch thuế quan để hạn chế đường nhập khẩu. Do vậy, giá đường Thế giới không
thực sự phản ánh quan hệ cân bằng cung cầu về đường mà do bị ảnh hưởng mạnh
chính sách trợ cấp sản xuất trong nước của nhiều nước, nhất là các nước EU. Vì lẽ đó,
thực tế chỉ có một số rất ít các nước có khả năng sản xuất đường với giá thành thấp
hơn giá đường quốc tế, như Braxin, Úc và Thái Lan trong tổng số hơn 60 nước sản

xuất đường trên toàn Thế giới.
Hơn 10 năm qua, giá đường Thế giới ổn định hơn, đạt trung bình khoảng 240
USD/tấn. Trong khi đó giá đường trong nước của Việt Nam ln cao hơn nhiều so với
giá đường nhập khẩu tương đương, nhất là giá đường Thế giới. Hình 3.1. trình bày giá
đường Thế giới thời kỳ 1952-2002.
8


Hình 1.1. Giá đường Thế giới
700
6 năm

11 năm

6 năm

9 năm

6 năm

6 năm

600

US D/tân

500
400
300
200

100
0
1952

1957

1962

1967

1972

1977

1982

1987

1992

1997

2002

Nguồn: Hội đồng liên minh châu Âu, năm 2002

Nguyên nhân của sự giảm giá đường là do tình trạng cung luôn vượt cầu
trong suốt thời gian qua. Tồn trữ đường thế giới luôn ở mức khá cao 50-60 triệu
tấn. Chính vì vậy, một số nước như Úc, Indonesia có xu hướng giảm sản lượng
đường. Bên cạnh việc thúc đẩy, đa dạng hóa nhu cầu tiêu thụ đường, việc hạn chế

sản xuất ở các nước nhằm nâng cao giá đường hiện đang là vấn đề được các nước
rất quan tâm.
Theo các chuyên gia của cơ quan kiểm toán nước ngồi COWI, chỉ có 20%
sản lượng đường (sản xuất ở Bra-xin, Úc và Cu Ba) bán theo giá thị trường Thế
giới, cịn lại 80% sản lượng có giá cao hơn giá thị trường thế giới. Để giải quyết
những khó khăn về mất cân đối cung cầu và chống bán phá giá ở thị trường nội
địa, nhiều nước đã dùng chính sách bảo hộ mạnh. ở Thái Lan thuế nhập khẩu
đường là 65% trong hạn ngạch, 95% ngoài hạn ngạch; ở Philippin là 50% trong
hạn ngạch, 65% ngoài hạn ngạch; ở Nam Phi là 125 USD/tấn, các nước khối EU là
419 Euro/tấn. Bằng chính sách này, ngồi việc tiêu thụ trong nước, họ còn xuất
khẩu được một lượng lớn đường ra thị trường thế giới với giá thấp, nhưng vẫn đảm
bảo ngành sản xuất đường mía của họ phát triển ổn định.
Hiện nay khó khăn lớn nhất của ngành đường mía là làm sao tăng mức tiêu
thụ. Cung vượt cầu đã làm trầm trọng vấn đề, do vậy một trong những giải pháp
9


cấp thiết cho thời gian tới là phải giảm sản lượng đường Thế giới. Hình 3.2. trình
bày giá đường trắng trên thị trường Thế giới.
Hình 1.2. Giá đường trắng trên thị trường Thế giới, USD/tấn

450
400
350
300
250
200
150
100
50

1985

1987

1989

1991

1993

1995

1997

1999

2001

2003

2005

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT năm 2005

1.2. Môi trường pháp lý quốc tế ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngành
đường mía những năm tới
Phân tích mơi trường pháp lý quốc tế những năm tới ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh của ngành đường mía nước ta, đề tài chú ý tới xu hướng hội nhập và tác
động của các cam kết trong các Hiệp định quốc tế cũng như khu vực.
Thứ nhất, tác động của vòng đàm phán Doha và xu hướng bỏ trợ cấp nông

sản sẽ làm thay đổi giá đường: Thông thường các hình thức bảo hộ đường của các
nước trên thế giới, bao gồm chính sách bảo hộ thường được thực hiện thông qua
việc hỗ trợ giá bán trong nước; Cơ chế thông thường là áp dụng thuế quan lên
đường nhập khẩu (một số nước còn áp dụng cả cơ chế giấy phép nhập khẩu); Mức
thuế quan giới hạn của WTO không nhất thiết phải luôn luôn áp dụng đầy đủ.
Trước tác động của vòng đàm phán Doha và xu hướng bỏ trợ cấp nông sản,
sẽ buộc Mỹ, EU và nhiều nước phát triển khác sẽ phải giảm dần trợ cấp nông
nghiệp đối với ngành sản xuất đường trong nước. Điều này nhất định sẽ tác động
làm tăng giá đường. Ví dụ như EU, mỗi năm xuất khẩu trên 5 triệu tấn đường và
trợ giá xuất khẩu khoảng 1,3 tỷ euro/năm. Theo phán quyết trên EU sẽ phải giới
10


hạn lượng đường mía xuất khẩu được trợ giá xuống còn 1,273 triệu tấn/năm (giảm
4 triệu đồng/tấn), đồng thời giảm khoản trợ giá xuất khẩu còn 499 euro/năm. Tác
động của vịng đàm phấn Doha, có thể là điều kiện thuận lợi cho các nước đang
phát triển như Bra-xin, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam… xuất khẩu đường vào thị
trường EU và các nước phát triển khác.
Tác động của mặt bằng giá mới cao hơn trên phạm vi toàn cầu: Việc giá
nhiều mặt hàng nguyên liệu như dầu thô, sắt thép, cao su… cùng với lương thực,
hàng nông sản tăng khá mạnh và duy trì ở mức cao trong thời gian gần đây, cho
thấy một mặt bằng giá mới hơn đã được hình thành. Các nền kinh tế lớn dường
như đã chấp nhận và tỏ ra thích ứng tương đối nhanh với mặt bằng giá mới này.
Dự báo giá đường thế giới có thể sẽ duy trì ở mức cao và nhiều mặt hàng
trên thị trường thế giới đã hình thành ở mặt bằng giá mới cao hơn. Giá đường sẽ
tăng dần do tác động của giá thế giới sẽ tăng dần, kéo theo tăng dần sản lượng
đường trên thế giới và của Việt Nam. Tuy nhiên khi Việt Nam ra nhập AFTA, thực
hiện lộ trình cắt giảm thuế quan khoảng 5% vào năm 2010, sẽ là thách thức lớn đối
với các NMĐ và công ty đường trong nước (mà thực chất sẽ phải cạnh tranh với
giá đường thấp hơn của thế giới).

Thứ hai, lộ trình giảm thuế đường theo AFTA: Theo CIE, việc tăng năng lực
cạnh tranh nội địa trong ngành đường mía cần phải đạt 3 yêu cầu: Chính sách của
Chính phủ khơng tạo cho bất cứ doanh nghiệp nào trong ngành có lợi thế, hay bất
lợi thế một cách khơng bình đẳng; Việc đưa ra quyết định đầu tư phải tính đến
trách nhiệm đối với các khoản thua lỗ tạo ra và lợi nhuận thu được; Các cản trở
(nếu có) đối với việc xâm nhập của một doanh nghiệp vào ngành là rất ít.
Việc tăng sự cạnh tranh trong điều kiện khơng có bao cấp và bảo hộ thương
mại, sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp như làm tăng sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp và các vùng mía; Tập trung và mở rộng hoạt động chế biến
và trồng mía nguyên liệu trong hầu hết các doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả; Tạo
ra sự khuyến khích mạnh mẽ để đạt mục tiêu tăng năng suất một cách nhanh
chóng; Đạt được tính kinh tế trong các hoạt động nghiên cứu, triển khai và mở
rộng trên địa bàn của nhà máy để thúc đẩy nhanh việc tăng năng suất; Khuyến

11


khích sử dụng các nguồn lực có hiệu quả.Việc đóng cửa các nhà máy nhỏ, sẽ tăng
nguồn mía nguyên liệu cho các NMĐ có hiệu quả hơn.
Trong q trình hội nhập, ngành sản xuất đường của Việt Nam chịu sự cạnh
tranh của hai nhóm nước lớn đó là Thái Lan, nằm trong khu vực và Brazil,
Australia là những nước sản xuất đường lớn nhất trên thế giới.
Nếu thuế nhập khẩu thương mại đường trong ASEAN giảm xuống cịn 5%:
Thì Thái Lan sẽ là một mối đe doạ cho các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam,
nhưng những nhà máy sản xuất đường lớn với chi phí thấp có thể cạnh tranh được
với đường Thái Lan. Những mối đe dọa từ Thái Lan có thể giảm đi nếu mía của họ
được sử dụng để sản xuất cồn.
Cạnh tranh quốc tế bắt nguồn từ các nước xuất khảu đường hàng đầu thế giới,
đặc biệt là Braxin, bởi vì, hiện nay Bra-xin có ảnh hưởng rất lớn lên giá đường thế
giới và mức chuẩn chủ yếu để đánh giá năng lực cạnh tranh của đường Việt Nam là

chi phí nhập khẩu đường từ Bra-xi, bao gồm một số yếu tố như: Chi phí sản xuất, chi
phí hậu cần (vận tải, bảo hiểm,...) và Thuế nhập khẩu.
Đường được nhiều nước ASEAN đưa vào danh mục hàng nông sản nhạy
cảm và nhạy cảm cao. Riêng đối với Việt Nam, mặt hàng đường sẽ bắt đầu giảm
thuế từ năm 2006 và sẽ có thuế suất là 0-5% vào năm 2010. Theo Vụ Kế hoạch, Bộ
NN & PTNT, lịch trình cắt giảm thuế đường như sau:
Bảng 1.1 Lộ trình cắt giảm thuế đường theo AFTA

(Đơn vị: %)

Lịch trình giảm thuế theo AFTA

Thuế
hiện tại

2006

2007

2008

2009

2010

- Đường thơ

30

30


30

20

10

5

- Đường T.luyện

40

40

30

20

10

5

Mặt hàng

Nguồn: Vụ Kế hoạch – Bộ Nông nghiệp & PTNT năm 2005

Tuy nhiên, theo quy định của AFTA, các hạn chế về định lượng nhập khẩu
sẽ được bãi bỏ ngay năm đầu tiên khi mặt hàng đó đưa vào chương trình cắt giảm,
các biện pháp phi thuế khác sẽ loại bỏ dần trong vòng 5 năm.

Khi thực hiện cam kết với mức thuế là 5%, có khả năng sẽ ảnh hưởng tới các
nhà máy đường và cuộc sống thu nhập của người lao động như: Các nhà máy vừa
12


& nhỏ sẽ khơng có năng lực cạnh tranh; Các nhà máy với chi phí hiệu quả nhất
cũng khó có khả năng để cạnh tranh với đường nhập trong một số năm, và có thể
khơng sẵn sàng đầu tư tiếp; Việc đóng cửa của các nhà máy vừa và nhỏ sẽ gây khó
khăn cho đời sống của khoảng 0,5 triệu công nhân và lao động nông nghiệp; Việc
không đầu tư mở rộng sản xuất của các nhà máy lớn sẽ hạn chế năng lực cạnh
tranh với các nước sản xuất hàng đầu thế giới trong chiến lược dài hạn
Dự báo giai đoạn 2006-2010, với mức giá thành sản phẩm đường của Việt
Nam còn cao hơn khá nhiều so với mức chung của khu vực và Thế giới, cùng tác
động của q trình gia nhập WTO, do đó trong thời kỳ này chỉ có những doanh
nghiệp sản xuất đường đạt hiệu quả kinh tế cao, giảm được giá thành và tăng sức
cạch trang của sản phẩm tương đương với đường của các nước trong khu vực, mới
có thể trụ vững để tiếp tục duy trì, mở rộng sản xuất và có thể xuất khẩu. ngược lại
các doanh nghiệp nếu không đáp ứng được yêu cầu trên, thì phải thu hẹp sản xuất,
hoặc ngừng hoạt động.
Giai đoạn sau 2011 đến 2020, sức cạnh trạnh của sản phẩm đường trong
nước dần được tăng lên và thị trường tiêu thụ đường cũng mở rộng hơn, Việt Nam
có cơ hội thực sự để xuất khẩu đường, với mức xuất khẩu đạt khoảng 1 triệu tấn
đường/năm.
Như vậy, AFTA sẽ là thách thức lớn nhất và gần nhất đối với ngành đường
mía. Nếu ngành đường nói chung, hoặc doanh nghiệp đường nào có khả năng đứng
vững và phát triển trong AFTA, thì hồn tồn có khả năng phát triển trong các cam
kết tự do hóa thương mại khác, kể cả WTO.
Thứ ba, tác động của tự do hóa thương mại và năng lực cạnh tranh của
ngành đường mía, khi Việt Nam gia nhập WTO: Đối với ngành cơng nghiệp đường
trong q trình hội nhập quốc tế, cần phải đáp ứng các yêu cầu như đạt được qui

mô kinh tế có hiệu quả ở các nhà máy đường, sau khi thực hiện Quyết định số
28/2004/QĐ-TTg của Chính phủ và tận dụng cơ hội gía đường thế giới đang cao;
Các nhà máy đường giúp nơng dân trồng mía tăng năng suất, sản lượng, tăng năng
lực cạnh tranh; Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đa dạng các loại sản phẩm để
có thu nhập cao hơn.
13


Để đánh giá tác động của tự do hoá thương mại (TDHTM) và hội nhập tới
ngành đường mía Việt Nam, dự án MISPA (Bộ NN & PTNT), đã áp dụng phương
pháp phân tích định lượng thơng qua Mơ hình mơ phỏng chính sách "MOVISUT"
(Model of Vietnam Sugar Trade). Mục tiêu của MOVISUT là lượng hố ảnh
hưởng của các chính sách thương mại dưới tác động của các cú sốc bên ngoài đến
một số biến quan trọng liên quan đến ngành đường mía trong nước, như diện tích,
năng suất, sản lượng mía, giá cả, tiêu dùng và xuất nhập khẩu đường.
Từ các kịch bản mô phỏng sự biến động của thị trường đường Việt Nam
dưới các tác động khác nhau của TDHTM trong giai đoạn 2005-2020, với rất nhiều
thông tin được xử lý, dự án đã rút ra một số nhận xét là:
- Khi tự do hoá thương mại nbằng cách xoá bỏ các rào cản phi thuế và
thực hiện lộ trình cắt giảm hàng rào thuế quan, với các giả định tăng giảm giá
đường quốc tế và thay đổi tỷ giá hối đối (TGHĐ) khác nhau, cho thấy ngành
đường mía Việt Nam: giai đoạn 2005-2020 sẽ vẫn duy trì và ổn định khối lượng
sản xuất trong nước, ít nhất là bằng và hơn mức hiện tại, chủ yếu là nhờ cầu
trong nước sẽ liên tục tăng do dân số tăng và mức thu nhập được cải thiện
không ngừng.
Nếu giá đường quốc tế tính bằng tiền Việt Nam đến năm 2020 so với 2005
tăng 40%, thì sản xuất đường trong nước sẽ tăng thêm đáng kể 32% (hay 410
nghìn tấn). Và cho dù dưới áp lực cạnh tranh mạnh của đường nhập khẩu do giá
đường thế giới tính bằng đồng Việt Nam giảm 17% trong cùng giai đoạn, thì lượng
đường sản xuất trong nước vẫn có thể tăng thêm tới 4,5% (hay gần 60 nghìn tấn).

Đối với trường hợp khơng có TDHTM thì sản lượng đường Việt Nam năm 2020 sẽ
tăng gấp 1,5 lần so với mức hiện tại và người tiêu dùng do khơng có đường nhập
khẩu giá rẻ, buộc phải chấp nhận mức giá cao hơn khoảng 1,7 lần.
- Chính sách tỷ giá hối đối có vai trị hết sức quan trọng trong việc điều tiết tác
động của các cú sốc giá cả trên thị trường quốc tế, nó có thể làm hạn chế hoặc ngược
lại làm trầm trọng thêm ảnh hưởng của biến động giá trên thị trường thế giới. Kết quả
mô phỏng cho thấy rất rõ vai trị của tỷ gia hối đối, có thể được sử dụng như một
14


công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường trong nước trong bối cảnh tham gia hội
nhập quốc tế.
- Giai đoạn 2011-2020 do qui mô dân số và GDP sẽ liên tục tăng mạnh, nên
lượng cầu về đường trong nước cũng không ngừng tăng với mọi biến động giá thị
trường. Ngành đường mía Việt Nam có thể sẽ khơng đủ khả năng để đáp ứng hết
nhu cầu tiêu dùng với mức giá cạnh tranh khi hội nhập, nên có thể phải nhập khẩu
đường.
Theo yêu cầu nêu trên, thời gian đầu cần phải cung cấp có một khoản hỗ trợ
cho thay đổi cơ cấu để cải thiện được quá trình hoạt động của nông dân như: việc
áp dụng những hoạt động sản xuất mới, cải thiện các cơ sở, trang thiết bị thuỷ lợi,
đào tạo, đa dạng sản phẩm, giảm chi phí v.v...
Xu hướng phát triển cho thấy: Để thiết lập một ngành cơng nghiệp đường
cạnh tranh mang tính tồn cầu, cần phải cải thiện hiệu quả hoạt động và cơ cấu của
ngành chế biến, nghĩa là phải nhắm tới cấu trúc chi phí cạnh tranh tồn cầu. Như
vậy khi hội nhập quốc tế, mặc dù sẽ có những điều chỉnh cho phù hợp, song ngành
Đường mía vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn, năng lực cạnh tranh thấp, chưa có thể tạo ra
những đột biến lớn. Những NMĐ có cơng suất nhỏ chi phí sản xuất cao, hiệu quả
kém đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động.
1.3. Nhu cầu tiêu dùng đường trong nước tiếp tục tăng, trong thời gian tới cầu
luôn lớn hơn cung

Đường là loại thực phẩm được sử dụng thông dụng đối với mọi người. Các
nước càng phát triển, cuộc sống ngày càng cao, thì mức tiêu thụ đường bình quân
đầu người càng lớn. Đối với các nước đang phát triển thì nhu cầu đường tăng lên
rất nhanh hàng năm.
Theo dự báo về nhu cầu nông sản của cả nước, đến năm 2010, dân số Việt
Nam khoảng 88-90 triệu người. Để đảm bảo có 2600-2700 Kcal/người/ngày, nhu cầu
lương thực, thực phẩm cần có khoảng 26 triệu tấn lương thực; 3,5 triệu tấn thịt các
loại; 2,7 triệu tấn cá; 15-17 tỷ quả trứng; 1,6-1,7 triệu tấn đường; 9-10 triệu tấn rau các
loại; 5-6 triệu tấn quả và 400-500 nghìn tấn sữa. v.v. Như vậy đường là loại sản phẩm
15


không thể thiếu trong cơ cấu thực phẩm của người dân và là nguyên liệu quan trọng
cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
Mía là loại cây trồng truyền thống, có khả năng phát triển ở nhiều địa
phương trong cả nước. Xuất phát từ nhu cầu tiêu thụ đường trong nước, Chính phủ
đã cho triển khai Chương trình đường mía và đã đạt mục tiêu 1 triệu tấn đường vào
năm 2000. Những kết quả đạt được của Chương trình có ý nghĩa quan trọng về
kinh tế và xã hội như: Đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước thay thế
nhập khẩu; đã góp phần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng đất có hiệu
quả, hình thành các vùng sản xuất tập trung, bố trí lại lao động nông thôn, giải
quyết việc làm, tạo công ăn việc làm thường xun cho 300 nghìn hộ nơng dân,
trên 1 triệu lao động nông nghiệp, ổn định đời sống cho hơn 2 triệu người, góp
phần xố đói giảm nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, tạo thu nhập cho nông dân; Đã
xây dựng được một ngành công nghiệp đường mía với hệ thống các khu cơng
nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các nhà
máy đã tạo công ăn việc làm cho 35 nghìn lao động cơng nghiệp chun nghiệp
trong chế biến đường, sản phẩm sau đường và bên cạnh đường. Đã đào tạo được
16 nghìn người. Đã hình thành được 3 vùng trong điểm đường mía là Thanh HốNghệ An; Quảng Ngãi và Tây Ninh. Các khu vực có nhà máy đã hình thành 3 cùng
nơng thơn mới, các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm công nghiệp dịch vụ. Mở mang

đường giao thông trên địa bàn. Đã xây dựng được một phần kết cấu hạ tầng của
vùng nguyên liệu như cầu, cống, bến-bãi thu mua mía, hệ thống điện, nước, thuỷ
lợi. Tạo điều kiện để phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…
Sự phát triển của ngành đường mía cịn kéo theo sự phát triển và thu nhập cho
các ngành khác. Cùng với sự phát triển, trong tương lai nhu cầu về đường không thể
thiếu đối với đời sống của dân cư và cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Mức
tiêu thụ đường bình qn tồn thế giới là 22-24 kg/người/năm, và khác nhau giữa các
nước. Các nước phát triển bình quân tiêu thụ 30-40 kg đường/người/năm. Các nước
châu Á bình qn tiêu thụ khoảng 14-16 kg/người/năm. Trong khi đó, bình quân tiêu
thụ đường hiện nay của Việt Nam tương đối thấp, chỉ khoảng 12-13 kg/người/năm
(trong đó có khoảng 4,4 kg đường thủ cơng và 33 kg mía ăn), thấp so với 30,3 kg ở
16


Thái Lan, 50 kg ở Malaysia và Ôxtrâylia, 15 kg ở Ấn Độ, nhưng cao hơn mức 9 kg ở
Trung Quốc.
Các số liệu điều tra hộ gia đình ở Việt Nam cho thấy mức tiêu thụ đường
tương đối khác nhau giữa các vùng trong cả nước, cao nhất ở miền Nam, gấp rưỡi
mức tiêu thụ bình quân đầu người ở miền Bắc. Mức tiêu thụ đường ăn ở Việt Nam
đã tăng trưởng khá nhanh trong 10 năm qua. Theo Điều tra về mức sống dân cư
Việt Nam trong năm 1992-2005, mức tiêu thụ đường bình quân đầu người trong
năm 1992 là khoảng 5 kg/người/năm với tổng lượng tiêu thụ khoảng 340 ngàn tấn,
năm 2005 khoảng 15,0 kg/người/năm.
Theo số liệu của Trung tâm Kinh tế Quốc tế Ôxtrâylia (CIE), tốc độ tăng
trưởng của tiêu thụ đường toàn cầu trong hơn 20 năm qua là khoảng 2%/năm, riêng
khu vực châu Á khoảng 3,6%/năm. Trong vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng
của nhu cầu tiêu thụ đường đang có dấu hiệu tăng dần. Theo đánh giá của các
chuyên gia, nhu cầu tiêu thụ đường của Việt Nam hiện nay tăng khoảng 6-7% hàng
năm. Tiêu dùng đường trên thị trường Việt Nam có thể được phân chia theo mục
đích sử dụng như sau: Thị trường tiêu thụ trực tiếp (ăn) và thị trường công nghiệp

chế biến (tiêu thụ gián tiếp). Theo đánh giá của Hiệp hội đường mía, mức tiêu thụ
của cơng nghiệp chế biến hiện nay chiếm khoảng 60% trong khi tiêu thụ trực tiếp
chỉ chiếm 40%. Như vậy, nếu tính cả đường thủ công (chủ yếu được tiêu thụ trực
tiếp), hai thị trường này có quy mơ tương đương nhau.
Theo tính tốn của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, căn cứ vào các nhân tố tác động, cho
thấy đến năm 2010, dân số của Việt Nam khoảng 88-90 triệu người, tốc độ tăng trưởng
kinh tế khoảng 7-7,5%/năm, xu hướng sử dụng đường gián tiếp có thể chiếm tới 6575%, dự báo nhu cầu sử dụng đường trực tiếp là 580 nghìn tấn, cộng với khoảng 150200 nghìn tấn đường mật cho chế biến; với hệ số co dãn là 1,21 nhu cầu đường nguyên
liệu sẽ tăng khoảng 9,1%, khi đó cần có khoảng 962 nghìn tấn, tổng cộng đến năm
2010 cần có tới 1,6-1,7 triệu tấn đường.
Tương tự như cách tính của giai đoạn 2006-2010, đến năm 2011-2020, nhu
cầu đường khoảng 2,3-2,5 triệu tấn, trong đó đường nguyên liệu cho chế biến
khoảng 1,9-2,0 triệu tấn.

17


Căn cứ vào xu hướng phát triển sản xuất của các ngành và tiêu thụ đường
trong nước, dự báo mức tăng trưởng về tiêu thụ đường của nước ta là 5,56,0%/năm đến năm 2010 và 3,5-4,0%/năm từ năm 2011 đến năm 2020.
Bảng 1.2. Dự báo nhu cầu về đường tới năm 2010 và 2020
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2015
2020

Nhu cầu đường (1000 tấn)
1.250,0 – 1300,0

1.320,0 – 1380,0
1.400,0 – 1470,0
1.480,0 – 1560,0
1.560,0 – 1660,0
1850,0 – 2000,0
2000,0 – 2300,0
Nguồn: Viện Quy hoạch và TKNN năm 2006

Như vậy nhu cầu về tiêu thụ đường của nước ta tới năm 2010 và 2020 là
tương đối lớn, nếu như sản xuất trong nước khơng đáp ứng đủ, thì nhập khẩu
đường, đúng hơn là đường nước ngoài sẽ xâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường
Việt Nam, gây áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, đó là thách thức, nguy cơ đối với
sự phát triển của ngành đường mía Việt Nam.
1.4. Quyết định 28/2004/QĐ-TTg của Chính phủ tạo cơ hội và tiền đề để ngành
đường mía Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập
Do phát huy công suất thấp, việc đầu tư và khấu hao cơ bản không hợp lý,
những năm qua giá thành đường của nhiều nhà máy đường Việt Nam rất cao, trong
đó phần khấu hao cơ bản của các nhà máy mới xây dựng lên đến trên 7.000 đ/kg.
Thực hiện Quyết định 28/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các nhà máy sản
xuất thua lỗ khơng cổ phần hoá được sẽ phải bán hoặc phá sản. Các nhà máy được
chuyển đổi sở hữu hoạt động theo hướng có hiệu quả hơn, trong cơ cấu giá thành,
mức khấu hao và trả lãi suất đầu tư giảm đáng kể, sẽ vào khoảng 850 đ/kg trở
xuống. Đây là một thuận lợi lớn cho các nhà máy đường Việt Nam chuẩn bị khi
tham gia hội nhập.
1.5. Sản xuất mía nguyên liệu tiếp tục bị cạnh tranh gay gắt bởi các cây trồng
khác có hiệu quả hơn
18



×