Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Vai trò của quân và dân miền đông nam bộ trong chiến tranh biên giới tây nam (1975 1979)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.41 MB, 144 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

VŨ THỊ DUYÊN

VAI TRÒ CỦA QUÂN VÀ DÂN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
(1975-1979)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8 22 90 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ

BÌNH DƯƠNG - NĂM 2020


ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

VŨ THỊ DUYÊN

VAI TRÒ CỦA QUÂN VÀ DÂN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
(1975-1979)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8 22 90 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN THỦY



BÌNH DƯƠNG - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn “Vai trị của quân và dân miền Đông Nam Bộ
trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979)” là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực,
khách quan, khoa học, có xuất xứ rõ ràng, trích dẫn đầy đủ.
Bình Dương, ngày 22 tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn

Vũ Thị Duyên

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn, tôi đã nhận được sự
hỗ trợ, giúp đỡ của quý thầy cô, các cơ quan, tổ chức, đồng nghiệp, gia đình và
bạn bè. Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin bày tỏ lịng biết ơn
chân thành tới q thầy, cơ trong Ban Giám hiệu, Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo
sau Đại học của Trường Đại học Thủ Dầu Một; đồng thời gửi lời cảm ơn đến
lãnh đạo chỉ huy và đồng nghiệp Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, Cơ quan
lưu trữ Quân khu 7 đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian
học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tơi kính gửi lời tri ân sâu sắc đến Thầy hướng dẫn TS. Nguyễn
Văn Thủy - Trưởng khoa Lịch sử/Trường Đại học Thủ Dầu Một đã tận tình
hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học
để tơi hồn tất đề tài nghiên cứu.

Để hồn thành luận văn, tơi xin gửi lời cảm ơn đến các chuyên gia: Đại tá,
PGS.TS. Hồ Sơn Đài - Nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7;
Thượng tá, ThS. Nguyễn Văn Xâm - Phó Trưởng phịng Khoa học qn sự Qn
khu 7 đã có những góp ý mang tính khoa học giúp tơi có phương pháp nghiên
cứu đúng trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn những người thân trong gia đình - nguồn động lực thúc đẩy
tơi trong q trình học tập, thực hiện và hồn thành luận văn.
Bình Dương, tháng 12 năm 2020
Vũ Thị Duyên

ii


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………...

1

1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………...

1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ……………………………………………

2

3. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu….……………………………………

3


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu……………………………….………

5

5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………...

6

6. Nguồn tài liệu…………………………………………………………

6

7. Cấu trúc luận văn……..……………………………………………….

6

Chương 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN VAI TRỊ CỦA QN VÀ DÂN MIỀN ĐƠNG NAM
BỘ TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM...…

8

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu….………………

8

1.2. Vài nét về miền Đông Nam Bộ……………………………………...

9


1.2.1. Địa lý tự nhiên và hành chính……………………………………..

9

1.2.2. Tình hình dân cư, kinh tế - xã hội ………..…………...………….

12

1.3. Bối cảnh lịch sử quan hệ Việt Nam - Campuchia và hành động gây
chiến tranh xâm lược của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary..………………...

14

1.3.1. Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử..…..………….......

14

1.3.2. Sự phản bội và hành động gây chiến tranh xâm lược của tập đoàn
Pol Pot - Ieng Sary ………………………………………………………

18

1.4. Chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam sau giải
phóng và đường lối đối ngoại đối với nhà nước Campuchia dân chủ.......

21

1.4.1. Một số chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
sau chiến tranh giải phóng 1975………………………………………....


21

1.4.2. Đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta đối với Nhà nước
Campuchia dân chủ……………………………………………………...

24

* Tiểu kết chương 1……………………………………………………...

26

iii


Chương 2. QUÂN VÀ DÂN CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC Ở BIÊN
GIỚI TÂY NAM……………………………………………………...
2.1. Chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cuộc chiến tranh bảo vệ biên
giới Tây Nam (5-1975 - 4-1977)……………………………….………

28

2.1.1. Đấu tranh ngoại giao …………………….……………………….

28

2.1.2. Chuẩn bị thế trận và lực lượng chiến đấu bảo vệ biên giới………

31


2.2. Chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc
(5-1977 - 5-1978)………………………………………………………..

37

2.2.1. Bảo vệ thành quả cách mạng, chống địch khiêu khích vũ trang,
lấn chiếm biên giới (5-1975 – 4-1977)….……………………..

38

2.2.2. Chiến đấu phòng ngự bảo vệ biên giới và giúp nhân dân
Campuchia lánh nạn, xây dựng lực lượng (5-1977 - 5-1978)…………

42

2.3. Tham gia phản công và tiến cơng giải phóng Campuchia thốt khỏi
ách diệt chủng (6-1978 - 1-1979)….…………………………………..
2.3.1. Tham gia phản công, đuổi địch lùi xa sang bên kia biên giới ….

28

58
58

2.3.2. Tham gia cuộc tổng tiến cơng giải phóng nhân dân Campuchia
khỏi họa diệt chủng …….........................................................................

60


2.4 Quân và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ giúp nhân dân Campuchia
bảo vệ thành quả cách mạng …………………………………………….

62

2.4.1. Phối hợp truy quét tàn quân địch, xây dựng chính quyền nhân dân

62

2.4.2. Cứu đói, cứu đau, giúp dân phục hồi sản xuất, ổn định đời sống

64

* Tiểu kết chương 2……………………………………………………...

68

Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VAI TRÒ CỦA QUÂN VÀ
DÂN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ
BIÊN GIỚI TÂY NAM……………………………………….……….
3.1. Đặc điểm …………………………………………………….……...

71

3.1.1. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam diễn ra
trong bối cảnh có nhiều mới mẻ và bất ngờ…………………………….
3.1.2. Là cuộc chiến tranh nhân dân chống chế độ phản động Khmer Đỏ
và thảm họa diệt chủng ở Campuchia……………..........………………
3.1.3. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam có dấu ấn
nghệ thuật quân sự “Tiên phát chế nhân” của cha ơng xưa……………

3.1.4. Q trình diễn biến phức tạp nhưng khi diễn ra lại hết sức nhanh
chóng…………………………………….……………………………...

iv

71
71
73
74
75


3.2. Ý nghĩa lịch sử…………………………………….………………..

76

3.2.1. Góp phần bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc trên biên giới Tây
Nam……………………………………………………………………...

77

3.2.2. Góp phần củng cố thế trận quốc phịng tồn dân và phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn miền Đơng Nam Bộ ……………………………

79

3.2.3. Góp phần giúp nhân dân Campuchia thốt khỏi họa diệt chủng và
thắt chặt tình đồn kết hữu nghị giữa nhân dân và quân đội hai nước…..

82


3.3. Bài học kinh nghiệm………………………………………………...

84

3.3.1. Về đánh giá tình hình, xác định đối tượng trong bảo vệ biên giới
Tây Nam Tổ quốc………………………………………………………

84

3.3.2. Về xây dựng tiềm lực,lực lượng và thế trận cho nhiệm vụ chiến
đấu bảo vệ biên giới Tây Nam …………………………………………

86

3.3.3. Về nghệ thuật tổ chức và tiến hành chiến tranh nhân dân của quân
và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ……………………………………..

88

3.3.4. Về phát huy yếu tố thời đại, vừa chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và
làm tròn nghĩa vụ quốc tế ……………………………...………………..

90

* Tiểu kết chương 3……………………………………………………...

92

KẾT LUẬN………………………………………………………………


94

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….

98

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do thực hiện đề tài
Đông Nam Bộ là vùng đất nằm trên nửa phía Đơng của Nam Bộ, có diện
tích tự nhiên 23.552,6km2. Trong thời kỳ nhân dân Việt Nam chiến đấu chống
quân Pol Pot xâm lược, miền Đơng Nam Bộ gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bà
Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Sông Bé1, Tây Ninh và phần phía Đơng của tỉnh
Long An; có đường biên giới chung với vương quốc Campuchia dài gần 616km,
đối diện với các tỉnh Preyveng, Svayrieng, Kampong Cham2, Kratie và Modulkiri
của Vương quốc Campuchia. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, Đơng
Nam Bộ có 3 tỉnh (Tây Ninh, Long An, Sông Bé) trực tiếp là tuyến đầu trong
cuộc chiến chống xâm lược do bọn phản động Pol Pot - Ieng Sary tiến hành, là
các địa phương có đóng góp quan trọng vào nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam,
giúp Campuchia đánh đuổi tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Sary, hồi sinh và
phát triển.
Là vùng đất “gian lao mà anh dũng” trong tiến trình lịch sử dân tộc, miền
Đơng Nam Bộ có vị trí chiến lược chiến lược đặc biệt quan trọng với một loạt
các sự kiện lịch sử hào hùng trong thời cận đại và hiện đại; là địa bàn chiến lược
có vị trí địa chính trị, địa quân sự quan trọng với Nam Bộ và miền Nam trong hai
cuộc kháng chiến và trong cả thời kỳ đất nước thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã
hội; có vị trí và đóng góp to lớn trong cơng cuộc củng cố và bảo vệ toàn vẹn lãnh

thổ Tổ quốc trong giai đoạn 1975-1979.
Sau ngày Việt Nam và Campuchia được giải phóng khỏi ách xâm lược của
đế quốc Mỹ (1975), chế độ Khmer Đỏ do tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary làm đại
điện, vừa thực hiện chính sách diệt chủng ở trong nước, vừa tiến hành đường lối
đối ngoại thù địch với Việt Nam. Chúng liên tục tổ chức các hoạt động gây hấn,
xâm lấn đột nhập giết người, cướp của, phá hoại tài sản và nghiêm trọng hơn,
quân Khmer Đỏ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên
giới Việt Nam - Campuchia. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, nhân dân và lực
1
2

Nay là Bình Dương, Bình Phước.
Nay là Tbong Khmom.

1


lượng vũ trang Việt Nam, trong đó có quân và dân miền Đông Nam Bộ đã đứng
lên chiến đấu, đánh đuổi quân xâm lược Khmer Đỏ ra khỏi biên giới, bảo vệ
vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Từ đó đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước,
các cuộc hội thảo khoa học về đề tài chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, tuy
nhiên chưa có các cơng trình chun khảo trình bày một cách hệ thống vai trị
của qn và dân miền Đông Nam Bộ trong cuộc chiến này; đặc biệt chưa có các
nghiên cứu làm rõ vai trị của quân và dân miền Đông Nam Bộ trong chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc. Việc nghiên cứu làm rõ vai trị của qn và
dân miền Đơng Nam Bộ trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam chống
tập đoàn Khmer Đỏ xâm lược ở các tỉnh thuộc Đông Nam Bộ trong giai đoạn
1975-1979 sẽ cung cấp một số luận cứ khoa học, góp phần làm rõ thêm những
đóng góp quan trọng của Đơng Nam Bộ trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất

nước ở biên giới Tây Nam, giữ vững ổn định biên giới, duy trì nền hịa bình, hữu
nghị và hợp tác phát triển với quốc gia láng giềng Campuchia trong thời kỳ hội
nhập và phát triển đất nước. Việc nghiên cứu cịn có ý nghĩa thiết thực, phục vụ
cho chương trình giảng dạy các chuyên đề về cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Qua nghiên cứu cuộc chiến tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ở biên
giới các tỉnh Đông Nam Bộ sẽ cho thấy cuộc chiến tranh do tập đoàn Khmer Đỏ
phát động xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, lại được các lực lượng phản
động quốc tế xúi giục; vai trị của thế trận tồn dân trong cuộc chiến đấu chính
nghĩa bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và những bài học kinh nghiệm cho việc
xây dựng nền quốc phịng tồn dân để có thể đối phó những kẻ thù xâm lược.
Vì những lý do trên, học viên chọn Đề tài “Vai trò của quân và dân miền
Đông Nam Bộ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979)” làm luận văn
cao học lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đề tài chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam nói chung, vai trị của qn
và dân miền Đơng Nam Bộ nói riêng đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của các cơ

2


quan nghiên cứu và nhà khoa học, được phản ánh thơng qua các cơng trình
nghiên cứu, sách, tạp chí chun khảo, chun ngành.
2.1. Nhóm cơng trình đề cập chung liên quan đến đề tài
- Nhóm các cơng trình trong nước: Một số cơng trình tiêu biểu như:
Sách Về vấn đề Campuchia của Trường Chinh (Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1979). Sách chỉ rõ tập đoàn phản động Bắc Kinh dung dưỡng cho thế lực Khmer
Đỏ phát động chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam.
Sách Lịch sử quân sự Việt Nam tập 13 của Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011) trình bày khái quát nguyên nhân, diễn biến và
kết quả cuộc chiến đấu chống quân Khmer Đỏ xâm lược.

Sách 40 năm ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của
Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng 7-1-1979 7-1-2019 của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Nxb. QĐND, Hà Nội, 2018) giới
thiệu 82 tham luận khoa học về chủ đề nói trên do Bộ Quốc phịng phối hợp với
Ban Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy An Giang tổ chức.
Sách Một số vấn đề về chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam
(Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2018) trình bày 37 tham luận
về đề tài nói trên do Hội Khoa học lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức,…
- Nhóm các cơng trình hoặc tác giả nghiên cứu nước ngồi: Có khơng ít
cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố liên quan đến đề tài luận văn, như:
Sách Tam giác Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam của Winfred
Burchett (Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986) tố cáo bản chất thoái hóa, phản
bội chủ nghĩa Marx của tập đồn Khmer Đỏ và bản chất cuộc chiến tranh xâm
lược phi nghĩa do Khmer Đỏ phát động chống Việt Nam.
Sách Campuchia: Từ thảm họa đến hồi sinh của E.V.Cobelep (Nxb. Tiến
bộ, Matxcơva, 1986) giới thiệu tuyển tập các bài báo của các tác giả Liên Xơ và
nước ngồi kể lại tấm thảm kịch dân tộc mà nhân dân Campuchia đã trải qua và

3


những bước tiến vững chắc trên con đường hàn gắn những vết thương của quá
khứ và hồi sinh dân tộc, trong đó có sự giúp đỡ của nhân dân Việt Nam.
2.2. Nhóm cơng trình đề cập trực tiếp đến đề tài
Nhóm các cơng trình trong nước: Cơng trình đề cập trực tiếp đến đề tài
vai trò của quân và dân miền Đông Nam Bộ trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên
giới Tây Nam:
Báo cáo tổng kết chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm
nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia của Quân khu 7 (1977-1989) do Hồ Sơn Đài làm

chủ biên (đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Quốc phịng, nghiệm thu năm
2007), trình bày diễn biến, kết quả và bài học kinh nghiệm cuộc chiến đấu bảo vệ
biên giới Tây Nam của lực lượng vũ trang và nhân dân miền Đông Nam Bộ.
Sách Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010), do Hồ Sơn Đài
chủ biên (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010), đề cập đến vai trò của quân và
dân miền Đông Nam Bộ trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.
Ngoài ra, một số sách về lịch sử lực lượng vũ trang địa phương đề cập trực
tiếp đến quân và dân tại chỗ trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, như: Lịch sử
Đảng bộ quân sự tỉnh Tây Ninh 1945-2015 (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2015); Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Bình Phước 1945-2010 (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2010); Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Long An 1945-2005
(Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005).
- Nhóm các cơng trình hoặc tác giả nghiên cứu nước ngoài: Một số tác giả
ngoài nước viết sách về tình hình Campuchia và nhân vật lịch sử của Vương
quốc Campuchia, nhưng có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến vai trò của lực
lượng vũ trang Quân khu 7 và nhân dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Sách Từ cuộc chiến chống CIA đến người tù của Khmer Đỏ của Norodom
Sihanouk (Nxb. Công an Nhân dân, 2003) kể về sự phản bội và cuộc xâm lược
Việt Nam của tập đoàn Pol Pot.
Sách Hun Sen, nhân vật xuất chúng của Campuchia của Haríh C. MehtaJulie B. Mehta (Nxb. Văn học, Hà Nội, 2008) nói về quá trình hoạt động của Thủ
tướng Campuchia Hun Sen, trong đó đề cập khá chi tiết sự giúp đỡ của Quân khu

4


7 và nhân dân miền Đông Nam Bộ trong việc đón nhận và giúp đỡ nhân dân
Campuchia chạy nạn và xây dựng lực lượng làm lại cuộc cách mạng.
Ngoài một số cơng trình tiêu biểu nêu trên, cịn có nhiều đề tài nghiên cứu,
sách, bài báo khoa học khác. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu
chun khảo nào trình bày một cách hệ thống vai trị của qn và dân miền Đông

Nam Bộ trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Dù vậy, những cơng trình khoa
học được cơng bố đã cung cấp nhiều luận điểm khoa học và tư liệu cho luận văn.
3. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những nhân tố tác động đến vai trị của
qn và dân miền Đơng Nam Bộ trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam,
hoạt động của quân và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong cuộc chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc; làm nổi bật vai trò của quân và dân miền
Đông Nam Bộ trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam; rút ra bài học kinh
nghiệm để có thể vận dụng vào thực tiễn, góp phần vào cơng cuộc xây dựng bảo
vệ Tổ quốc hướng biên giới Tây Nam trong tình hình mới.
Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở thu thập, xử lý và trình bày một cách có
hệ thống nguồn tư liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, luận văn nhằm làm rõ
những yếu tố tác góp phần phục dựng bức tranh tồn cảnh cuộc chiến đấu chống
quân xâm lược Pol Pot - Ieng Sary; khẳng định và làm rõ vai trò của quân và dân
miền Đông Nam Bộ trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam; cung cấp tư
liệu cho việc nghiên cứu thực hiện các đề tài lịch sử và làm tài liệu phục vụ công
tác giảng dạy, giáo dục lịch sử, truyền thống.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của quân và dân miền Đông
Nam Bộ trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (1975-1979). Đó là vai trị
của nhân dân và lực lượng vũ trang ba tỉnh biên giới (Tây Ninh, Sơng Bé, Long
An) cùng Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Luận văn cũng đề cập đến vai trò của lực lượng vũ trang Quân khu 7 đứng chân
trên địa bàn nghiên cứu.

5


Phạm vi địa bàn nghiên cứu gồm các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trọng tâm
là 3 tỉnh biên giới (Long An, Tây Ninh, Bình Phước) của Quân khu 7 và 5 tỉnh:

Preyveng, Svayrieng, Kampong Cham (Tbong Khmom), Kratie và Modulkiri của
Campuchia trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979).
Phạm vi thời gian nghiên cứu từ tháng 9-1977 (khi quân đội Pol Pot - Ieng
Sary tiến công xâm lược Việt Nam trên tồn tuyến biên giới miền Đơng Nam Bộ)
đến tháng 1-1979 (khi Nhà nước Việt Nam và lực lượng vũ trang miền Đơng
Nam Bộ đánh đuổi hồn tồn qn xâm lược ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, đồng
thời phối hợp với nhân dân và lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia tiến cơng
giải phóng Phnom Penh khỏi ách thống trị của chế độ diệt chủng. Luận văn cũng
đề cập đến giai đoạn (5-1975 - 8-1977), từ sau ngày miền Nam hồn tồn giải
phóng đến trước khi qn đội Khmer Đỏ tiến công xâm lược Việt Nam trên
tuyến biên giới miền Đông Nam Bộ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng, luận văn vận dụng
hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Ngoài ra, học viên cũng kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
đặc biệt là phương pháp chuyên gia để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
6. Nguồn tài liệu
Tài liệu để thực hiện luận văn dựa vào nguồn tài liệu gốc về cuộc chiến
tranh bảo vệ biên giới Tây Nam lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng,
Quân khu 7 và các tỉnh miền Đơng Nam Bộ; các cơng trình khoa học đã được
cơng bố lưu trữ tại các thư viện, Viện nghiên cứu, Trường Đại học và lời kể của
nhân chứng dưới dạng các bài đăng nhật báo, tuần báo, hồi ký đã xuất bản, băng
ghi âm các cuộc tọa đàm… được lưu tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7,
các cơ sở lưu trữ tại các tỉnh của miền Đông Nam Bộ.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:

6



Chương 1: Một số khái niệm và những nhân tố tác động đến vai trị của
qn và dân Đơng Nam Bộ trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.
Chương 2: Quân và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam.
Chương 3: Một số nhận xét về vai trò của quân và dân Đông Nam Bộ
trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.

7


Chương 1.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN VAI TRỊ CỦA QN VÀ DÂN MIỀN ĐƠNG NAM BỘ TRONG
CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
Vai trị: Theo Từ điển Tiếng Việt thơng dụng là “tác dụng, chức năng
trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó” (Nxb. Dân Trí, 2019).
Qn và dân: Là lực lượng gồm cả lực lượng vũ trang (bộ đội thường trực
Quân khu 7, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ); thanh niên xung phong và các
tầng lớp nhân dân.
Miền Đông Nam Bộ: Là vùng đất nằm trên nửa phía đơng của Nam Bộ,
ngày nay thuộc địa bàn các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh, Long An và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ diễn
ra cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, miền Đông Nam Bộ
gồm các tỉnh Đồng Nai (gồm cả Bà Rịa và Đặc khu Vũng Tàu - Côn đảo), Sông
Bé (gồm cả Bình Dương, Bình Phước), Tây Ninh, Long An và Thành phố Hồ
Chí Minh. Về biên giới, trên đất liền, miền Đơng Nam Bộ có đường biên giới
chung với Vương quốc Campuchia dài gần 616km; đối diện với các tỉnh Long

An, Tây Ninh, Bình Phước của miền Đơng Nam Bộ - Việt Nam là các tỉnh Prey
Veng, Svay Rieng, Kampong Cham (nay là Tbong Khmom), Kratie và Modulkiri
của Campuchia. Miền Đông Nam Bộ cùng với miền Tây Nam Bộ, Trung Bộ và
Bắc Bộ cấu thành lãnh thổ quốc gia Việt Nam thống nhất.
Chiến tranh bảo vệ: Là cuộc chiến tranh do một quốc gia, dân tộc tiến
hành nhằm chống lại sự xâm lược của nước ngoài để bảo vệ độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và thành quả của quốc gia, dân tộc đó. Chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc mang tính chất chính nghĩa, cách mạng, tồn dân và quốc tế.
Xuất phát từ các khái niệm trên, đề tài xác định vai trò của quân và dân
miền Đông Nam Bộ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979) là vị trí,

8


tác dụng của lực lượng vũ trang (bao gồm cả bộ đội thường trực, bộ đội địa
phương, dân quân tự vệ) và nhân dân địa phương các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia chuẩn bị và thực hành chiến đấu trong cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, giai đoạn từ 1975 đến 1979. Vai trò ở đây
bao gồm: chuẩn bị chiến đấu (đánh giá âm mưu hành động của địch, tổ chức lực
lượng quân sự, chính trị, hậu cần - kỹ thuật, tổ chức chiến trường); thực hành
chiến đấu (trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu); xây dựng tuyến phòng thủ
bảo vệ biên giới.
Trên cơ sở vai trò của quân và dân miền Đông Nam Bộ trong chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam (1975-1979) để làm rõ và sâu sắc thêm về cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc trên hướng biên giới Tây Nam của quân và dân miền Đông
Nam Bộ. Khẳng định: Đây không chỉ là chiến tranh của các binh đồn chủ lực
mà cịn là cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh với sự tham gia
trực tiếp chiến đấu của các lực lượng tuyến trước cùng với sự chi viện tích cực
của các đơn vị, hậu phương phía sau.

1.2. Vài nét về miền Đông Nam Bộ
1.2.1. Địa lý tự nhiên và hành chính
Miền Đơng Nam Bộ là vùng đất phù sa cổ, nằm trên nửa phía Đơng của
Nam Bộ - vùng đất “gian lao mà anh dũng” trong lịch sử dân tộc. Theo sự phân
chia hành chính, ngày nay miền Đơng Nam Bộ được xác định bao gồm Thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu và Long An. Có diện tích tự nhiên hơn 23.564,4km2, dân số trên
17.825.907 người (theo Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019).
Về vị trí địa lý tự nhiên, miền Đơng Nam Bộ nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa
cao nguyên miền Nam với đồng bằng Sông Cửu Long, lưng dựa vào dải Trường
Sơn và vùng rừng núi Đông Dương, mặt hướng xuống đồng bằng và biển Đơng.
Với địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình chuyển dịch trong biên độ
từ 20m đến 200m so với mực nước biển theo hướng Tây Nam lên đông bắc. Bề
mặt địa hình Đơng Nam Bộ được chia thành 4 vùng chính: vùng đất đỏ bazan ở

9


phía đơng bắc (bắc tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Bình Long, Phước Long trước
đây); vùng đất phù xa cũ thuộc khu vực trung du (các tỉnh Biên Hịa, Bình
Dương, Tây Ninh trước đây); vùng đất phù sa mới gồm rẻo phía Nam (từ tỉnh lỵ
các tỉnh Biên Hịa, Bình Dương về phía biển) và vùng đồng bằng trũng thấp
Đồng Tháp Mười.
Miền Đơng Nam Bộ có các tỉnh giáp với Vương quốc Campuchia là Tây
Ninh, Bình Phước, Long An. Địa hình bằng phẳng, có đường giao thơng thủy bộ thuận tiện, cư dân hai nước vùng giáp biên giới có tập quán thường xuyên qua
lại trao đổi, buôn bán làm ăn và có truyền thống đồn kết chống qn xâm lược.
Núi ở miền Đơng Nam Bộ có rải rác và phân bố ở hầu khắp các tỉnh Tây
Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Biên Hịa. Cao nhất là núi Bà Đen tỉnh
Tây Ninh (986m), núi Chứa Chan ở tỉnh Đồng Nai (818m), Bà Rá tỉnh Bình
Phước (783m), Mây Tàu tỉnh Bà Rịa (716m), Thị Vải tỉnh Bà Rịa (446m),…
Ngoài ra cịn có núi Cậu, núi Lớn, núi Nhỏ, núi Nứa, núi Minh Đạm, Bửu Long,

Châu Diên,… [27, tr16].
Rừng ở miền Đơng Nam Bộ chiếm 1/3 diện tích đất tự nhiên (khơng kể
vùng rừng tràm gió mạn đơng bắc Đồng Tháp Mười, vùng đám lá tối trời ở Gị
Cơng, hạ lưu sơng Vàm Cỏ). Bao phủ hầu hết vùng phía Bắc và đông bắc là
những cánh rừng nguyên sinh với thảm thực vật và động vật có đầy đủ đặc trưng
của vùng Á nhiệt đới. Mạn Đông Nam Thành phố Hồ Chí Minh kéo về phía biển
là khu rừng ngập mặn với diệt tích 600km2 với hàng nghìn chủng loại thủy sản.
Ngồi ra, miền Đơng Nam Bộ cịn có các trảng cây thấp như dầu, ngành ngạch,
le, rừng Khộp và hàng ngàn héc-ta rừng cao su trải dài hầu khắp các tỉnh.
Phần vùng biển ở miền Đông Nam Bộ nằm trong khu vực Biển Đông, trải
dài ở các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận
thuộc mảng châu Á, nơi tiếp giáp Thái Bình Dương với đảo Philippin và giáp với
mảng Âu - Úc với đảo Java - Sumatra của Indonexia. Biển ở Đơng Nam Bộ có
độ dài sát mép nước trên 130km, ngồi khơi xa là Cơn Đảo. Ngồi ra, Đơng Nam
Bộ cịn có nhiều cửa biển quan trọng như Sồi Rạp, Đồng Tranh, Cần Giờ, Lòng
Tàu, Cái Mép, Hồ Cốc, Lộc An,… Đa phần các con sông lớn chảy qua miền

10


Đông Nam Bộ đều bắt nguồn từ miền biên giới và cao ngun phía bắc đổ xi
về phía Nam, đơng nam và ra biển Đông (sông Đồng Nai, sông La Ngà, sơng Bé,
sơng Sài Gịn, sơng Vàm Cỏ Đơng và Vàm Cỏ Tây). Ngồi các con sơng lớn nói
trên, Đơng Nam Bộ cịn nhiều sơng, kênh rạch khác như sơng Thị Vải, sông
Dinh, sông Ray, sông Bến Cát, kênh Bến Nghé, rạch Thị Nghè,…
Giao thông ở miền Đông Nam Bộ, bên cạnh hệ thống kênh rạch chằng chịt
của miền Nam, mạng lưới đường bộ chiếm địa vị chủ yếu về lưu thơng trên vùng
đất này. Có Thành phố Hồ Chí Minh là nơi gặp gỡ của những con đường chiến
lược huyết mạch của Đông Dương. Từ đây tỏa đi khắp nơi có các tuyến đường
sắt Sài Gịn - Hà Nội, Sài Gòn - Lộc Ninh, Sài Gòn - Mỹ Tho trước đây và các

quốc lộ quan trọng như quốc lộ 1, 13, 14, 15, 16 (nay là quốc lộ 1, 20, 22, 27,
51). Ngồi ra cịn có hàng chục liên tỉnh lộ, hàng trăm tỉnh lộ và hương lộ khác
chạy dọc ngang, đan xen trong lịng miền Đơng Nam Bộ.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, miền Đơng Nam Bộ có hai
mùa mưa và khơ rõ rệt, mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 11. Do mùa mưa
với lượng mưa tập trung nhiều (trung bình trong năm từ 1.300mm đến 2.000mm)
trong thời gian ngắn tạo nên sự xói mịn mạnh mẽ trên những địa hình đồi núi,
những nơi có độ dốc cao, đặc biệt ở những nơi thiếu thảm thực vật che phủ đã
làm thay đổi cấu trúc địa hình, làm biến đổi độ phì nhiêu của thổ nhưỡng và ảnh
hưởng tới sự phát triển của giới sinh vật và cuộc sống của con người. Thời gian
từ tháng 12 năm trước đến cuối tháng 4 năm sau là mùa khơ, với sự xâm nhập
của khối khí tuyến hải dương và tín phong, độ ẩm thường xuyên của gió tín
phong đơng bắc (gió chướng) hoạt động với cường độ mạnh (từ cấp 5 đến cấp 6)
có đặc tính khơ hanh làm cho nơi đây có mùa khơ nóng kéo dài gay gắt,… là khu
vực ít chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gió bão so với các tỉnh thành trên cả nước.
Địa lý hành chính ở miền Đơng Nam Bộ như thời kỳ trước năm 1945,
gồm các tỉnh, thành phố như: Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Bà Rịa,
Biên Hòa, Chợ Lớn, Gia Định, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Tân An, Vũng Tàu.
Tháng 5-1951, thực hiện sáp nhập các tỉnh gần nhau có cùng một đặc điểm về địa
lý theo chủ trương của Trung ương Cục miền Nam; cùng với việc thực hiện

11


Nghị định số 252/NĐ-51 của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ về việc sát
nhập 20 tỉnh của Nam Bộ thành 11 tỉnh. Gồm: Gia Định Ninh (các tỉnh cũ Gia
Định, Tây Ninh và các huyện Đức Hòa, Trung Huyện, khu Đông Thành thuộc
tỉnh Chợ Lớn); Thủ Biên (gồm các tỉnh cũ Thủ Dầu Một, Biên Hòa và huyện Thủ
Đức thuộc tỉnh Gia Định); Bà Chợ (gồm các tỉnh cũ Bà Rịa, Chợ Lớn và huyện
Long Thành thuộc tỉnh Biên Hòa, huyện Nhà Bè thuộc tỉnh Gia Định); Mỹ Tho

(gồm các tỉnh cũ Mỹ Tho, Tân An, Gị Cơng); Long Châu Sa (gồm tỉnh Sa Đéc
cũ và phần Châu Đốc, Long Xuyên, mạn tả ngạn sông Hậu). Thành phố Sài Gòn
- Chợ Lớn và một phần các huyện sát ven đơ như huyện Thủ Đức, Gị Vấp, Nhà
Bè (thuộc tỉnh Gia Định cũ), Trung huyện (thuộc tỉnh Chợ Lớn cũ)… tách riêng
thành lập đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn [27, tr18].
1.2.2. Tình hình dân cư, kinh tế - xã hội
Dân cư các tỉnh miền Đông Nam Bộ chủ yếu là cư dân bản địa và lưu dân
từ phía Bắc, thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Phần lớn
là người Kinh chiếm 92,46%, chủ yếu là nông dân, định cư ở các đô thị, miền
đồng bằng, dọc ven biển và hai bên bờ các con sơng lớn; cơng nhân tập trung ở
hai khu vực chính là khu kỹ nghệ, khuân vác ở Sài Gòn, Biên Hòa và các đồn
điền cao su. Đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm 7,54% gồm hơn 40 dân tộc
khác nhau như Xtiêng, Mạ, Chơro, Mnông, Chăm, Hoa, Khmer,… Người Xtiêng
ở bắc Thủ Dầu Một, bắc Biên Hòa; người Mạ, Cơho ở bắc Biên Hòa; người Hoa
ở Chợ Lớn (chiếm 75%) và các đô thị, đồng bằng; người Khmer ở Tây Ninh, Tân
An, Gia Định [27, tr.21]. Ở vùng địa hình đất đỏ bazan thuộc miền Đơng Nam
Bộ, dân cư thưa, chủ yếu là các dân tộc Chăm, Kinh,… sinh sống tập trung tại
các điểm dân cư, thị trấn, thị xã, thành phố và những vùng có nước quanh năm.
Ở vùng đồng bằng phù sa cũ thuộc miền Đông Nam Bộ, mật độ dân cư
trong khu vực khá dày, từ 180 đến 240 người/km2. Tập trung chủ yếu là các dân
tộc Kinh, Hoa, Khmer, Nùng, Chăm, Stiêng, Mơ Nông, Mạ, Chơ Ro... các dân
tộc hòa nhập phần lớn vào cộng đồng người Kinh, nhưng vẫn giữ được những nét
văn hóa đặc thù riêng của từng tộc người.

12


Dân cư các tỉnh biên giới trước khi xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam
phân bố không đều, các hộ dân tập trung chủ yếu dọc theo các trục đường, hai
bên sông và các thung lũng, tạo ra hệ thống làng xã liên hoàn trong các cụm

tuyến dân cư. Trong chiến tranh giải phóng, nhân dân các huyện biên giới có
truyền thống u nước, đồn kết chống giặc ngoại xâm. Khi chiến tranh xảy ra,
nhân dân đã phát huy truyền thống đó vào cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc, góp phần
quan trọng vào nhiệm vụ củng cố thế trận khu vực phòng thủ, tạo hậu phương
vững chắc cho các lực lượng phòng thủ, phòng ngự ở tuyến biên giới. Tuy nhiên,
một bộ phận dân cư do đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp; hiểu
biết về quốc gia, biên giới, luật pháp hạn chế. Chiến tranh xảy ra trong điều kiện
cịn nhiều thành phần sót lại của chế độ cũ chưa ra trình diện, chưa được cải tạo
nên có biểu hiện nhen nhóm, tập hợp lực lượng, móc nối với địch, xúi giục, kích
động hận thù dân tộc, gây chia rẽ trong nhân dân và lực lượng vũ trang,...
Về kinh tế - chính trị - xã hội: Sau những năm dài chiến tranh, dưới chế độ
thực dân mới, xã hội miền Nam, đặc biệt tại Sài Gòn đầy rẫy các tệ nạn như cờ
bạc, nghiện hút, ăn xin, mại dâm, trộm cướp,... Nhiều đảng phái, tổ chức phản
động vẫn đang lén lút hoạt động. Một bộ phận dân cư bị ảnh hưởng tuyên truyền,
xuyên tạc của Mỹ - ngụy, sống bất hợp tác với cách mạng hoặc che giấu cho các
phần tử phản động phá hoại cách mạng. Chính quyền ngụy tan rã, nhưng chính
quyền cách mạng ở cơ sở xã, ấp, huyện, tỉnh, thành phố phần lớn chưa kịp thành
lập. Nhiều cơ quan, công sở, kho tàng, nhà máy quan trọng cần phải được thu
hồi, bảo quản, quản lý kịp thời, tránh bị ăn cắp, phá hoại, gây thiệt hại tài sản
chung cho đất nước.
Cùng với việc ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội sau ngày
giải phóng, các tỉnh khu vực miền Đông Nam Bộ đã phải tổ chức cứu trợ cho
hàng nghìn gia đình nghèo đói. Từ tháng 5 đến tháng 6-1975, bộ đội phải bớt
khẩu phần ăn và thu gom lương thực từ các kho tàng để tổ chức cứu đói cho dân
với trên 6 trăm tấn gạo (661 tấn), 27 tấn lúa và 475 giạ lúa, 8 triệu đồng tiền mặt.
Tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn trên 53.000.000 đồng; thực hiện cứu tế, cứu
đói cho công nhân 450.000 đồng, 42.000kg gạo, khôi phục lại các nhà trẻ, mở

13



thêm trường học. Hội chữ thập đỏ các tỉnh đã tổ chức tiêm phòng dịch, khám và
trị bệnh cho 101.681 người dân, lập tủ thuốc nhân dân ở các trạm y tế xã để phục
vụ nhân dân khám và điều trị bệnh [85, tr10].
Nhằm giảm bớt dân số tập trung quá đông ở thành phố, Ủy ban quân quản
tại các địa phương chỉ đạo giãn dân về nông thôn, vận động các gia đình thành
phố tránh chiến sự trước đây trở về quê làm ăn và trợ giúp nhu yếu phẩm. Trong
2 tháng (5 và 6-1975) đã có 213.031 người dân được đưa giãn khỏi Sài Gòn và
trung tâm các tỉnh về huyện và các xã.
Việc khôi phục sản xuất cơng nghiệp, nơng nghiệp được chú trọng. Tính
đến cuối tháng 6-1975, các tỉnh miền Đông Nam Bộ đã khôi phục 11 đồn điền
cao su và 17/27 xí nghiệp Khu kỹ nghệ Biên Hịa được khơi phục hoạt động.
Trong cơng tác cán bộ, đào tạo nguồn, các địa phương cũng lựa chọn ra
những người cốt cán để tập trung đào tạo, bồi dưỡng về cơng tác chính quyền và
đồn thể, từ đó thành lập nên bộ máy chính quyền ở cơ sở. Trong tháng 5 và
tháng 6-1975, các tỉnh miền Đông Nam Bộ đã thành lập 104 ủy ban xã và 404 ủy
ban ấp với hơn 3.000 ủy viên [85, tr22].
1.3. Bối cảnh lịch sử quan hệ Việt Nam - Campuchia và hành động
gây chiến tranh xâm lược của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary
1.3.1. Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử
Trên bán Đảo đông Dương, Việt Nam - Campuchia là hai dân tộc láng
giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa và phong tục tập quán, từng có truyền
thống hữu nghị trong nhiều thời kỳ lịch sử. Tuy chế độ chính trị có khác nhau và
trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, nhưng điều đó khơng ngăn cản mối
quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Campuchia, Campuchia - Việt Nam,
được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dầy công vun đắp, không những
trên cơ sở những nét tương đồng về địa lý, lịch sử, văn hóa, điều kiện kinh tế - xã
hội của mỗi nước, mà còn bởi một bề dày đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau,
vượt qua những khác biệt và trở ngại do lịch sử để lại, đáp ứng nguyện vọng
chính đáng của hai dân tộc là chung sống hòa hiếu, bạn bè tốt, đối tác tin cậy;

biết dựa vào nhau để chống kẻ thù chung với phương châm: “Muốn phòng thủ

14


Kim Biển Thành (Phnom Penh) thì phải phịng thủ Gia Định Thành (Sài Gòn) và
ngược lại, muốn phòng thủ Gia Định Thành thì phải phịng thủ Kim Biên Thành”
[49, tr20]. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, hai nước đã kề vai sát
cánh chống kẻ thù chung và đã giành được những thắng lợi to lớn, là nền tảng
vững chắc cho mối quan hệ giữa hai nước.
Từ cuối thế kỷ XIX, Việt Nam - Campuchia cùng bị thực dân Pháp đặt ách
xâm lược và thống trị tàn bạo. Việt Nam là một quốc gia mặt hướng biển Đông
nên được coi là “lá chắn” án ngữ hướng tiến vào lục địa từ phía biển. Để xâm
chiếm bán đảo Đơng Dương, đế quốc Pháp đã tiến đánh Việt Nam trước (1858).
Chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ3 Việt Nam năm 1862, thực dân Pháp
lấy đó làm căn cứ tiến công xâm lược Campuchia. Hậu quả của sự thống trị của
chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đơng Dương là tồn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
Campuchia, Lào bị xâm hại nặng nề. Biên giới giữa ba quốc gia bị xáo trộn, gây
nên tình trạng tranh chấp lãnh thổ sâu sắc.
Bất chấp những âm mưu thủ đoạn “chia để trị” tàn bạo của thực dân Pháp,
thái độ đầu hàng và nối giáo cho giặc của một bộ phận phong kiến cầm quyền ở
Việt Nam, Campuchia, Lào, quần chúng nhân dân ở cả ba nước tỏ rõ ý thức trách
nhiệm và tinh thần vì nghĩa cả đối với vận mệnh của cả dân tộc cũng như đối với
vận mệnh của dân tộc bạn. Những hoạt động liên minh chiến đấu chống kẻ thù
chung xuất hiện cùng với cuộc chiến đấu chống xâm lược ở mỗi nước, đáp ứng
những đòi hỏi khách quan cấp thiết của lịch sử: đoàn kết là sống, chia rẽ là chết.
Đó là sự hưởng ứng và tham gia tích cực của nhân dân miền Đơng Nam Bộ (Việt
Nam) đối với cuộc khởi nghĩa Acha Soa (Campuchia) những năm 1864-1866; là
khối liên minh chiến đấu Trương Quyền - Pucômbô (1866-1867) trên địa bàn
biên giới Việt Nam - Campuchia (có cả sự tham gia của nghĩa quân Lào), là sự

ủng hộ rộng rãi của nhân dân Việt Nam đối với cuộc khởi nghĩa của Hồng thân
Xivơtha (1855-1891), là sự giúp đỡ của nhân dân Lào đối với phong trào Cần
Vương của Việt Nam (1885-1895), là sự phối hợp chiến đấu giữa nhân dân Việt
Nam với nhân dân Lào trong cuộc khởi nghĩa Sầm Nưa (1914-1916) và đặc biệt
3

Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.

15


là phong trào chống Pháp rầm rộ của thủ lĩnh người Mông Chạu Phạpắtchau
(1918-1922) trên địa bàn biên giới Việt Nam - Lào,… đã thể hiện truyền thống
yêu nước chống giặc ngoại xâm bất khuất của mỗi dân tộc và truyền thống đoàn
kết đùm bọc nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Từ sau Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã xác định con đường giải phóng và phát triển của dân
tộc Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng, thực hiện quyền độc lập dân
tộc, quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Đến tháng 10-1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, mở rộng phạm vi lãnh đạo ra
tồn Đơng Dương thuộc Pháp gồm 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hội
nghị xác lập các nguyên tắc, các phương hướng đường lối chính trị và những
nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của ba dân tộc ở Đông Dương; đề ra
những chủ trương và giải pháp cụ thể đối với phong trào đấu tranh của nhân dân
3 nước Đông Dương cũng như xây dựng quan hệ mật thiết, nương tựa lẫn nhau
của hai dân tộc Việt Nam và Campuchia trên hành trình đấu tranh giành tự do,
độc lập cho mỗi dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào đấu tranh
của quần chúng nhân dân được phát động mạnh mẽ.

Tại Việt Nam, phong trào đấu tranh dâng cao nhất là ở Nghệ An và Hà
Tĩnh, tuy nhiên phong trào đấu tranh của nhân dân đã bị thực dân Pháp và tay sai
đàn áp khốc liệt. Trong hoàn cảnh khó khăn, nhiều cán bộ, đảng viên ở Nam Kỳ
đã sang Campuchia vừa để lánh địch, vừa tiến hành xây dựng tổ chức Đảng và tổ
chức quần chúng, gây ảnh hưởng của Đảng trên đất Campuchia.
Tại Campuchia, trước những năm 1930 đã có cơ sở của Thanh niên cao
vọng Đảng của Nguyễn An Ninh và cơ sở của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên. Cuối năm 1930, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Xứ ủy Nam
Kỳ (phụ trách cả địa bàn Campuchia) cử cán bộ sang Campuchia hoạt động trong
công nhân, người lao động và học sinh Việt kiều, gây dựng một chi bộ Đảng tại
Trường Trung học Sisovát ở Phnom Penh gồm 7 đảng viên, có một đảng viên là

16


sinh viên người Campuchia và một số chi bộ trong công nhân người Kongpong
Cham. Tuy nhiên, do sự khủng bố của kẻ thù, các chi bộ này không tồn tại được.
Sau khi đảo chính Pháp (3-1945), Nhật chủ trương thành lập chính phủ
Trần Trọng Kim ở Việt Nam và chính phủ Sơn Ngọc Thành tại Campuchia, làm
chỗ dựa tiếp tục kéo dài chiến tranh. Đến tháng 8-1945, nhân dân Việt Nam chớp
thời cơ tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa thành cơng, lập nên Nhà nước Cộng hịa
dân chủ vào ngày 2-9-1945. Tại Campuchia, do cơ sở Đảng bị đánh phá, khơng
có hạt nhân lãnh đạo nên khơng diễn ra khởi nghĩa giành chính quyền như ở Việt
Nam và Lào. Ở thời kỳ này, trong hoàn cảnh bị địch khủng bố, nhiều cán bộ,
đảng viên Việt Nam đã sang Campuchia tạm lánh và được nhân dân Campuchia
che chở, đùm bọc,… ngược lại, những cán bộ, đảng viên người Việt Nam đã hoạt
động, xây dựng những cơ sở yêu nước và cách mạng ở Campuchia, đặt nền tảng
quan trọng cho sự hình thành liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam Campuchia trong chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai ở Đông Dương
(1945-1951). Tuy nhiên, việc liên minh chiến đấu giữa hai nước còn nhiều hạn
chế, nhất là thiếu sự thống nhất trong lãnh đạo và chỉ đạo liên minh giữa hai bên.

Do đó, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thống nhất các tổ
chức Đảng hoạt động Campuchia, đồng thời giúp Campuchia thống nhất các lực
lượng kháng chiến của nhân dân Campuchia trong trận đấu tranh chung.
Với sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lượng kháng chiến Campuchia phát
triển về mọi mặt. Cuối năm 1949, tồn Campuchia có 418 phum, 40 sóc trong 10
tỉnh được giải phóng với 100.000 hội viên Issarak [81, tr38]. Tháng 3-1950, Xứ
ủy Nam Bộ tổ chức Hội nghị cán bộ toàn Campuchia để thống nhất chỉ đạo hoạt
động cán bộ, chiến sĩ Việt Nam cơng tác tại Campuchia, chính thức thành lập
“Ban cán sự toàn Miên” thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua đường lối
cách mạng Campuchia, sắp xếp lại địa bàn, bố trí lại cán bộ trên phạm vi toàn
Campuchia… từ đây phong trào kháng chiến của nhân dân Campuchia phát triển
mạnh mẽ và gắn kết với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Như vậy, ở Đông Dương mọi hoạt động phản kháng Pháp, dù lớn hay nhỏ,
dù bằng bạo lực hay phi bạo lực nếu xảy ra đơn độc, cơ lập đều dễ bị chính

17


quyền thực dân bóp chết. Mọi hoạt động cứu nước ở Việt Nam, Campuchia, Lào
đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng lẫn nhau. Vấn đề đặt ra là cần một đường
lối một tổ chức nhằm xây dựng lực lượng, huy động nội lực của mỗi nước, trên
cơ sở đó quy tụ sức mạnh đoàn kết của ba nước trong cuộc chiến đấu chống kẻ
thù chung.
1.3.2. Sự phản bội và hành động gây chiến tranh xâm lược của tập
đoàn Pol Pot - Ieng Sary
Từ những năm 1972, chính quyền Khmer Đỏ do Pol Pot - Ieng Sary đứng
đầu đã từng bước thao túng quyền lãnh đạo ở Campuchia, cấu kết với tập đoàn
phản động quốc tế quay súng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Trong những năm chống Mỹ, Pol Pot đã thi hành chính sách hai mặt vừa tỏ ra
hữu nghị, đoàn kết để tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của Việt Nam, vừa tiến hành

các hoạt động thù địch gây khó khăn cho việc vận tải tiếp tế, tập kích vào kho
tàng, bệnh viện và các tập đoàn vận tải của ta để cướp vũ khí, tấn cơng vào các
đơn vị nhỏ, lẻ,... gây ra thương vong cho cán bộ, chiến sĩ ta đang hoạt động trên
đất Campuchia. Để biện minh cho hành động phản bội này, Pol Pot - Ieng Sary
đã xuyên tạc lịch sử và vu cáo Việt Nam đã xâm lược Campuchia; đồng bằng
Nam Bộ là đất của Campuchia; Sài Gòn là đất của Campuchia,... nay Campuchia
phải đòi lại! Chúng phủ nhận thực tế lịch sử cũng như các hiệp định có giá trị
pháp lý quốc tế đã được ký kết, trong đó có cả phía Campuchia.
Chúng ra sức kích động hận thù dân tộc, phát động cuộc chiến tranh xâm
lược biên giới Tây Nam, gây ra những tội ác đẫm máu đối với người dân vô tội;
xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam;
chà đạp lên những giá trị tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai
dân tộc Việt Nam - Campuchia. Với bản chất của những kẻ “dân tộc hẹp hòi”,
đội lốt cách mạng để thực hiện những hành động phản cách mạng, phản bội lại
bạn bè và hủy diệt dân tộc mình; chúng đề ra cái gọi là “Đường lối chiến đấu
mới”, trong đó xác định “Chiến tranh giữa ta và Việt Nam là lâu dài, có tính chất
gặm nhấm, ta khơng đánh nó trước thì ta không thắng,... chỉ cần mỗi ngày diệt
vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn, thì có thể đánh 10, 15

18


×