Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Chuyên đề GIẢI PHÁP về tổ CHỨC dạy học sử LIỆU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.22 KB, 11 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA LỊCH SỬ

ĐỀ TÀI

SỬ LIỆU HỌC: NỘI DUNG, CHƢƠNG TRÌNH
VÀ TỔ CHỨC GIẢNG DẠY Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
 

Chuyên đề

GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC DẠY HỌC
SỬ LIỆU HỌC

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp

NGƢỜI THỰC HIỆN
TS. Nguyễn Đình Thống



BÌNH DƢƠNG - THÁNG 12 NĂM 2014


Chuyên đề

GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC DẠY HỌC
SỬ LIỆU HỌC


1. Tầm quan trọng của việc tổ chức dạy học sử liệu học
Sử liệu học là bộ mơn khoa học có tính nền tảng, trang bị cho sinh viên
ngành Sử và ngành Lưu trữ những tri thức cơ bản về quá trình hình thành và
phát triển của Khoa học sử liệu, về các nguồn sử liệu (nhất là các nguồn sử liệu
ở Việt Nam); giới thiệu các phương pháp sưu tầm, phân loại, phân tích, phê
phán sử liệu; rèn luyện kỹ năng khai thác, xử lý các nguồn sử liệu,… phục vụ
cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như dạy học Lịch sử và các ngành học
có liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, nhiều trường đại học – cao đẳng
(từ đây gọi chung là đại học), trong đó có cả một số trường đại học lớn, sinh
viên ngành Sử vẫn chưa được học môn này. Lý do có nhiều, trong đó có phần
liên quan đến nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của mơn học; chương
trình chưa thống nhất và chưa đảm bảo tính khoa học; chưa có giáo trình, tài liệu
dạy học,… Một số trường tổ chức dạy học mơn này có tính chất chiếu lệ,… nên
chất lượng không cao.
Nhận thức được rằng, đây là một môn học quan trọng, cần nghiên cứu kỹ
lưỡng để đảm bảo dạy học đạt chất lượng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường nói chung, của ngành Lịch sử nói riêng, nhất là sau khi sinh viên
tốt nghiệp sẽ tự tin hơn trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sử liệu, Sử liệu học cũng
như vấn đề dạy học bộ môn Sử liệu học ở các trường đại học – cao đẳng ở Việt
Nam.
Cung cấp những kiến thức về Lịch sử Sử học và Sử liệu học ở trình độ
cao và chuyên sâu đồng thời bổ sung một số kiến thức về lịch sử, văn hóa,
xã hội... liên quan đến Lí luận Sử học. Những kiến thức này sẽ giúp Nghiên
cứu sinh đi sâu vào chuyên ngành hẹp, nắm vững các hướng nghiên cứu và các
vấn đề khoa học thuộc Lịch sử Sử học và Sử liệu học.
Nghiên cứu sinh lịch sử được đào tạo theo khung chương trình này sẽ
trở thành những chun gia sử học có trình độ cao về lí thuyết và thực hành,
hiểu biết sâu sắc chuyên ngành Lịch sử Sử học và Sử liệu học. Có năng lực
sáng tạo, độc lập nghiên cứu, phát hiện và giải quyết được các vấn đề trong

khoa học lịch sử.
Nghiên cứu sinh tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Sử học và Sử liệu học
có thể làm cơng tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử tại các viện nghiên cứu, các
1


trường đại học hoặc các cơng việc có liên quan đến kiến thức lịch sử.
Cung cấp phương pháp xử lí các vấn đề về Lịch sử sử học và Sử liệu học,
các kĩ năng thực hành trên cơ sở hệ thống lí luận cơ bản và hiện đại, làm cho
Nghiên cứu sinh nắm vững các thao tác nghiệp vụ và có khả năng thích ứng với
các cơng việc liên quan đến những vấn đề khác nhau thuộc khối khoa học xã
hội và nhân văn. Tập hợp và đánh giá giá trị lịch sử của các nguồn sử liệu lịch
sử Việt Nam, xác định độ tin cậy của những thông tin lịch sử trong các sử liệu.
Các xu hướng nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam. Hệ thống lí thuyết sử học
ở Việt Nam. Tư tưởng và phương pháp nghiên cứu của các sử gia lớn trong lịch sử
Việt Nam. Sự thay đổi trong nhận thức một số vấn đề lịch sử trong sử học Việt
Nam. Quá trình nghiên cứu các vấn đề lịch sử trong sử học hiện đại Việt Nam.
Các trường phái sử học thế giới. Các phương pháp nghiên cứu lịch sử hiện đại
2. Tổ chức dạy học ở trƣờng đại học, cao đẳng
Trên cơ sở nghiên cứu kỹ về quá trình hình thành và phát triển của các
loại sử liệu, của Sử liệu học (lý luận và thực tiễn),… cũng như việc tổ chức dạy
học Sử liệu học ở một số trường đại học, đề tài thiết kế một chương trình Sử liệu
học trên cơ sở kế thừa và phát triển chương trình Sử liệu học của các trường đại
học, đề xuất nội dung cụ thể của giáo trình Sử liệu học và nêu một số đề xuất,
kiến nghị về việc tổ chức dạy học bộ môn Sử liệu học ở các trường đại học, mà
trước hết là đối với Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Phƣơng án 1:
Tên mơn học
Số
STT

tín chỉ
I
1.

Khối kiến thức chung
Triết học

11
4

2.

Ngoại ngữ chung

4

3.

Ngoại ngữ chuyên ngành

3

II

Khối kiến thức cơ sở và chuyên ngành

36

II.1. Bắt buộc
4. Một số vấn đề cơ bản về lí luận sử học

Quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội trong
5.
lịch sử
6. Một số vấn đề cơ bản về lịch sử văn hoá - tư tưởng Việt
Nam
7. Việt
Lịch
Nam sử các vấn đề về tôn giáo ở Việt Nam
8. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt
9.

Quan
Nam điểm quốc tế của cách mạng Việt Nam
2

30
2
2
2
2
2
2


10. Vấn đề văn hố Đơng Nam Á và lịch sử quá trình hội

2

11. Thành
nhập phần tộc người và quan hệ dân tộc ở Việt Nam

12. Sự xuất hiện các nền kinh tế sản xuất đầu tiên trên thế

2

13. Một
giới số vấn đề cơ bản về lịch sử Nhà nước và Pháp luật
14. Một
số các vấn đề làng xã và nông dân Việt Nam trong
Việt Nam

2

15. Tổng
lịch sửquan phương pháp nghiên cứu khu vực học
16. Tư tưởng sử học qua các thời đại

2

17. Các khuynh hướng sử học Việt Nam cận – hiện đại

2

18. Các phương pháp sử liệu học

2

II.2. Lựa chọn

2
2

2

6/14

19. Các trường phái triết học lịch sử hiện đại

2

20. Văn bản học

2

21. Một số vấn đề về lịch sử địa phương và lịch sử ngành

2

22. Tạp chí nghiên cứu lịch sử – Những vấn đề lịch sử sử học

2

Áp dụng các phương pháp phân tích định lượng trong
24.
sửcứu
xuấtlịch
bảnsửsách ở Việt Nam
nghiên
23. Lịch
25. Sử học Việt Nam trong thời kì Đổi Mới
III


22
2

Luận văn

13

Tổng cộng:

60

Phƣơng án 2:
Tên mơn học

STT

Số
tín chỉ
11
4

I
1.

Khối kiến thức chung
Triết học

2.

Ngoại ngữ chung


4

3.

Ngoại ngữ chuyên ngành

3

II

Khối kiến thức cơ sở và chuyên ngành

36

Bắt buộc
Một số vấn đề cơ bản về lí luận sử học

30
2

5.

Q trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử

2

6.

2


7.

Một
số vấn đề cơ bản về lịch sử văn hoá - tư tưởng Việt Nam
Việt Nam
Lịch sử các vấn đề về tơn giáo ở Việt Nam

2

8.

Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam

2

II.1.
4.

3


Quan điểm quốc tế của cách mạng Việt Nam

2

10.

Vấn đề văn hố Đơng Nam Á và lịch sử q trình hội nhập


2

11.

Thành phần tộc người và quan hệ dân tộc ở Việt Nam

2

12.

Sự xuất hiện các nền kinh tế sản xuất đầu tiên trên thế giới

2

13.

Một số vấn đề cơ bản về lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt

2

14.

2

15.

Một
Nam số các vấn đề làng xã và nông dân Việt Nam trong lịch
Tổng quan phương pháp nghiên cứu khu vực học
sử


16.

Tư tưởng sử học qua các thời đại

2

17.

Các khuynh hướng sử học Việt Nam cận – hiện đại

2

18.

Các phương pháp sử liệu học

2

II.2.
19.

Lựa chọn
Các trường phái triết học lịch sử hiện đại

20.

Văn bản học

2


21.

Một số vấn đề về lịch sử địa phương và lịch sử ngành

2

22.

Tạp chí nghiên cứu lịch sử – Những vấn đề lịch sử sử học
Áp dụng các phương pháp phân tích định lượng trong

2

9.

23.

2

6/14
2

2

24.

nghiên cứu lịch sử
Lịch sử xuất bản sách ở Việt Nam


25.

Sử học Việt Nam trong thời kì Đổi Mới

2

III

3

IV
26.

Ngoại ngữ chuyên ngành nâng cao
Khối kiến thức chuyên đề tiến sĩ
Các nguồn sử liệu chữ viết lịch sử Việt Nam

27.

Hệ thống nghiên cứu các vấn đề lịch sử trong sử học Việt Nam

2

28.

Một
số vấn đề cơ bản về lịch sử sử học phong kiến Việt Nam
hiện đại
Nhận thức mới một số vấn đề lịch sử trong sử học Việt Nam


2

29.

2

6/18
2

2
2

31.

thời kì
Một số vấn đề về lí luận sử học hiện đại
Đổi
Các mới
trường phái sử học hiện đại

32.

Quá trình hình thành và phát triển của Việt Nam học trên thế

2

33.

Các
giới tác gia sử học Việt Nam hiện đại

Giới thiệu một số trường phái khu vực học tiêu biểu trên thế
giới và bước đầu vận dụng nghiên cứu ở Việt Nam
Luận án

2

Tổng cộng:

56

30.

34.
V

4

2

2


Một trong những yêu cầu quan trọng của công cuộc đổi mới nền sử học
nước ta hiện nay là tăng cường việc mở rộng tiếp cận và sử dụng một cách có
hiệu quả các nguồn sử liệu, sử liệu trong nước, sử liệu nước ngồi, sử liệu chính
thống và phi chính thống,… để nâng cao giá trị khoa học của các cơng trình sử
học. Việc đào tạo các thế hệ sử gia được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản
về sử liệu và Sử liệu học là yêu cầu khơng thể thiếu đước, vì vậy, các trường đại
học cần nhanh chóng đưa mơn Sử liệu học vào chương trình đào tạo.
Hiện nay, các trường đại học việc tổ chức dạy học môn Sử liệu học chưa

được thống nhất (ở các ngành học và các bậc học). Thiết nghĩ, trước hết cần đưa
Sử liệu học vào chương trình đào tạo bậc đại học cho các chuyên ngành thuộc
Khoa học Lịch sử và Lưu trữ học. Ở bậc cao học và nghiên cứu sinh, có thể
chọn các chuyên đề thuộc Sử liệu học để giảng dạy nhằm nâng cao tầm hiểu biết
và đặc biệt là tăng cường tính thực hành trong nghiên cứu.
Cần xóa bỏ quan niệm cho rằng, chỉ có các trường đào tạo cử nghiên
nghiên cứu lịch sử mới cần thiết trang bị kiến thức về sử liệu và Sử liệu học, cịn
ở mơi trường sư phạm, sinh viên khi tốt nghiệp ra trường chỉ làm công tác giảng
dạy, tức chỉ “công bố” thành quả nghiên cứu nên không cần thiết phải học Sử
liệu học. Quan điểm này có vẻ lạc hậu trước yêu cầu phát triển của Sử học và
Dạy học lịch sử, nhất là trong công cuộc đổi mới Sử học hiện nay. Thiết nghĩ,
người giáo viên trong quá trình giảng dạy phải kết hợp nghiên cứu, và xem đó
như là một nhiệm vụ khơng thể thiếu được. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp giáo
viên nâng cao trình độ chun mơn và sẽ hỗ trợ đắc lực cho phần nghiệp vụ của
mình, chí ít cũng tạo cho mình một sự tự tin nhất định trước học sinh.
Thực tế cho thấy, nhiều thầy cô giáo giảng dạy ở các trường phổ thông đã
đạt được những thành quả đáng trân trọng trong công tác nghiên cứu lịch sử và
góp phần xứng đáng vào sự phát triển của nền Sử học nước nhà. Tuy nhiên,
cũng từ thực tế đó, nhiều thầy cơ giáo cịn tỏ ra lúng túng khi tiếp cận với các
nguồn sử liệu trong nước cũng như tài liệu nước ngoài. Hơn nữa, sách giáo khoa
thường lạc hậu so với sự phát triển của khoa học chuyên ngành, người giáo viên
trong quá trình giảng dạy cần cập nhật thông tin khoa học từ nhiều nguồn khác
nhau để tăng hàm lượng khoa học của bài giảng, tăng thêm phần thuyết phục đối
với học sinh là hết sức cần thiết. Trong trường hợp này, với sự hiểu biết về Sử
liệu học sẽ giúp người giáo viên biết lựa chọn nguồn thông tin sử liệu đáng tin
cậy để sử dụng một cách có hiệu quả là việc làm có ý nghĩa. Vì vậy, theo chúng
tơi, việc trang bị những kiến thức cơ bản về Sử liệu học cho sinh viên ngành Sư
phạm lịch sử xem ra là một yêu cầu không thể thiếu.
Để phục vụ tốt cho việc dạy học môn Sử liệu học, cần thiết phải tổ chức
biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo. Cơng việc này trước mắt có khó khăn,

5


bởi chưa có giáo trình nào để tham khảo, nhưng nếu có sự đầu tư thích đáng có
thể thực hiện được trong vài ba năm tới. Có thể các trường đại học mạnh dạn
hợp tác để biên soạn giáo trình. Cần có sự đột phá và tiên phong.
Trong việc nghiên cứu, biên soạn giáo trình và tổ chức giảng dạy mơn Sử
liệu học, theo chúng tơi, cần có sự tiếp sức, hỗ trợ của các nhà Sử liệu học, các
nhà Lưu trữ học trong nước.
Lịch sử phát triển xã hội lồi người chính là q trình hoạt động thực tiễn
của xã hội loài người trong quá khứ, là hiện thực quá khứ khách quan (bản thể
luận); sử học hay khoa học lịch sử là nhận thức của con người về lịch sử xã hội
loài người, về hiện thực quá khứ khách quan, về hoạt động thực tiễn của xã hội
loài người trong quá khứ (nhận thức luận).
Con người đã sáng tạo ra lịch sử của mình, sáng tạo ra lịch sử xã hội loài
người và tiến hành nhận thức lại q trình đó. Do vậy, q trình sáng tạo và
nhận thức lịch sử xã hội loài người, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể.
Chủ thể của quá trình sáng tạo ra lịch sử xã hội lồi người, nhưng vừa là khách
thể (đối tượng nhận thức) của quá trình nhận thức lịch sử, vừa là chủ thể của q
trình nhận thức lịch sử đó.
Chủ thể sáng tạo trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa con người là
chủ thể sáng tạo ra lịch sử xã hội, lịch sử loài người, lịch sử một quốc gia, dân
tộc, hay trong một phạm vi hẹp hơn, nhưng không phải khi nào con người cũng
sáng tạo ra lịch sử theo mong muốn chủ quan của mình, mà hiện thực lịch sử
bao giờ cũng diễn ra theo sự chi phối của các quy luật tự nhiên và xã hội, ngồi
ý muốn của chính những người làm ra lịch sử.
Cùng với quá trình sáng tạo ra lịch sử, con người cũng nhận thức lại lịch
sử của chính mình. Kết quả nhận thức lịch sử được biên soạn thành sử sách:
Lịch sử nước Mỹ, Lịch sử nước Pháp, Lịch sử Trung Quốc, Lịch sử Việt Nam,...
đó là là sử học, là Khoa học Lịch sử.

Các tác phẩm, cơng trình sử học nói trên là sản phẩm của tư duy khoa
học, vốn hữu hạn, ln có một khoảng cách, không đồng nhất với hiện thực lịch
sử vốn là vô hạn. Nhận thức của mỗi nhà khoa học, mỗi thời đại về lịch sử
đương thời là rất hạn hẹp và phiến diện so với sự phong phú và đa dạng của hiện
thực lịch sử đã diễn ra, nhất là khi sử liệu còn bị che dấu, phủ mờ bởi sự nghiệt
ngã của thời gian, khí hậu, chiến tranh,... hoặc bị xuyên tạc trong những cuộc
xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, sắc tộc, tư tưởng bá quyền,…
Lịch sử xã hội lồi người với vơ số hiện tượng, biến cố đã xảy ra, cố định
trong một thời gian, không gian nhất định trong quá khứ, tồn tại một cách tự
6


thân, khách quan, hoàn toàn độc lập với nhận thức của con người, đó là lịch sử
(bản thể luận). Việc nhận thức, tái dựng lịch sử là sử học, là khoa học lịch sử
(nhận thức luận). Thiết nghĩ, điều này cần được làm rõ, phân biệt rõ, nhất là đối
với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập ngành sử học.
Sự phát triển liên tục của sử học là hành trình khơng mệt mỏi của con
người để tìm hiểu bản chất và quy luật phát triển của xã hội loài người. Sử liệu
học chính là chìa khóa để giải mã sử liệu, là tiền đề phát triển sử học.
Việc nhận thức, tái dựng lại hiện thực lịch sử là nhiệm vụ của sử học, của
khoa học lịch sử. Muốn thực hiện điều này, các nhà nghiên cứu lịch sử phải dựa
vào các nguồn sử liệu – dấu tích, di tồn cịn lại của hoạt động thực tiễn của xã
hội lồi người trong quá khứ. Chúng chính là cơ sở, là phương tiện để nhận thức
lịch sử. Nhà sử học Ba Lan J. Topolski đã viết: “Nguồn sử liệu luôn luôn là tài
sản quý giá nhất của nhà sử học, không có nó ơng ta khơng thể là nhà sử học”.1
Dựa vào các nguồn sử liệu, các nhà sử học nghiên cứu, tái dựng lại hiện
tượng, biến cố bằng các sự kiện sử học, nghĩa là tiệm cận sự kiện sử học đến sự
kiện lịch sử, đến hiện thực quá khứ khách quan, với kỳ vọng tìm ra chân lý lịch
sử. Như vậy, rõ ràng sự kiện sử học mang tính chất hai mặt: một mặt nó là một
trong những mắt xích (sử liệu) của hiện thực lịch sử (bản thể luận), mặt khác nó

là tri thức của lồi người về hiện thực lịch sử (nhận thức luận).
Thông qua các nguồn sử liệu (thông tin và kênh thông tin), nhà nghiên
cứu lịch sử vận dụng tri thức của mình vào việc xử lý thông tin của sử liệu để tái
dựng “sự kiện lịch sử” bằng “sự kiện sử học”. Nói cách khác “sự kiện sử học”
chính là “hình ảnh” của “sự kiện lịch sử” tương ứng mà nó mơ tả thơng qua các
nguồn sử liệu và tri thức của nhà sử học.
Nghiên cứu lịch sử là hoạt động nhận thức quá khứ đi từ đơn giản đến
tổng quát, tiệm cận “sự kiện sử học” dần tới “sự kiện lịch sử”, đồng hình với
chỉnh thể (bản thể luận). Trong cơng tác của mình, người nghiên cứu phải cần
đến những thơng tin từ sử liệu. Những thơng tin này có thể là những thông tin
trực tiếp và thông tin gián tiếp. Nguồn thông tin trực tiếp có được từ nguồn sử
liệu trực tiếp, nguồn thơng tin gián tiếp có từ nguồn sử liệu gián tiếp. Những sử
liệu đã từng tham gia vào sự kiện như là một mảnh, một phần, một bộ phận của
sự kiện lịch sử thì đó là những sử liệu trực tiếp; những sử liệu cung cấp thông tin
về sự kiện lịch sử thông qua nhận thức của chủ thể trung gian và sự xuất hiện

1

J. Topolski: phương pháp luận sử học

7


của nó khơng liên quan trực tiếp tớỉ tiến trình vận động của sự kiện lịch sử thì đó
là sử liệu gián tiếp.
Xét mối quan hệ giữa sử liệu - sự kiện sử học ta thấy cả hai đều là hình
thức biểu hiện trừu tượng của hiện thực lịch sử, được phản ánh trong ý thức của
con ngườỉ. Đối với sự kiện lịch sử, nguồn sử liệu là hình thức biểu hiện trừu
tượng thứ nhất, đồng thời làm cơ sở cho việc xây dựng sự kiện sử học. Sự kiện
sử học là hình thức biểu hiện trừu tượng thứ hai trên cơ sở các nguồn sử liệu và

tri thức của nhà sử học trong việc tái hiện sự kiện lịch sử.
Sử liệu không phải là sự thật lịch sử được sao chép lại một cách đầy đủ,
trọn vẹn, mà nó chỉ là sự phản ánh trìu tượng một phần, một bộ phận, từng
mảng, hoặc từng chi tiết của sự thật lịch sử. Nhà sử học quan sát, nghiên cứu sự
phản ánh ấy trong các nguồn sử liệu. Bản thân sự phản ánh này (nhận thức của
tác giả sử liệu) chưa phải là tri thức lịch sử mang tính chất khoa học. Nhà sử học
khơng thu nhận ngay trí thức có sẵn ban đầu này, mà chỉ dựa vào nó để tạo rа tri
thức khoa học của mình phục vụ cho đối tượng nghiên cứu. Một điểm khác biệt
giữa tri thức từ nguồn sử liệu và tri thức về khoa học lịch sử biểu hiện ở nội
dung của chúng. Mặc dù dựa vào nguồn sử liệu, nhưng nội dung của sự kiện lịch
sử lại phong phú hơn, phức tạp hơn rất nhiều so với nội dung thông tin của các
nguồn sử liệu.
Sử liệu học giúp các nhà nghiên cứu phân tích sự tác động, chi phối của
điều kiện tự nhiên và hồn cảnh xã hội đến sử liệu, định lượng tính chủ quan của
tác giả sử liệu, bóc tách sự chi phối của ý thức hệ giai cấp, khắc phục tính giản
đơn, hạn chế và sai sót trong từng sử liệu và tổng hợp biến cố từ nhiều nguồn sử
liệu, để sự kiện lịch sử gần hơn với hiện thực lịch sử.
Nói một cách khác, sử liệu học là cơng cụ giúp cho sử học trở thành khoa
học – Khoa học lịch sử, giúp cho con người nhận thức gần đúng hơn về lịch sử
xã hội lồi người. Điều đó có nghĩa là trong nhận thức lịch sử, khoảng cách giữa
những điều đã biết với những điều chưa biết sẽ được khắc phục từng bước nhờ
sự phát triển của Sử liệu học, mà hệ quả của nó là thúc đẩy sự phát triển của
Khoa học lịch sử.
Sự lý giải trên cho ta thấy vai trò to lớn của sử liệu đối với sử học, trong
nghiên cứu, tái dựng lịch sử và cả trong việc giảng dạy, học tập lịch sử ở các
trường đại học, cao đẳng – những trường có ngành sử học.
Thực tiễn sử học cho thấy, nhiều tác phẩm, cơng trình sử học ra đời
thường xuất hiện sự chơng vênh nhau về mặt sử liệu. Sự chơng vênh đó xuất
hiện ngay trong một cơng trình, tác phẩm sử học, do vậy nếu xem xét giữa các
8



cơng trình sử học cùng phản ánh về một chủ đề thì sự chơng vênh đó càng lớn.
Để khắc phục điều này, sử liệu cần đến vai trò của Sử liệu học.
Sử liệu học là một ngành học quan trọng, trang bị những kiến thức cơ bản
mang tính nền tảng về sử liệu, từ việc nghiên cứu lý luận đến công tác thực tiễn
của sử liệu.
Về lý luận, Sử liệu học phân tích, lý giải q trình hình thành, phát triển
của sử liệu, khái quát những quy luật; các yếu tố tác động, chi phố đến quá trình
hình thành sử liệu và nội dung thông tin của sử liệu. Xây dựng các phương pháp,
nguyên tắc, cách thức phát hiện, xử lý, khai thác, sử dụng các nguồn sử liệu
phục vụ công tác nghiên cứu tái dựng hiện thực quá khứ khách quan.
Về cơng tác thực tiễn, đó là cơng tác phát hiện, sưu tầm, chọn lọc, phân
loại, phê phán, khai thác, sử dụng các nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên
cứu sử học. Đặc biệt là việc phát hiện các nguồn sử liệu, cơng tác phê phán tính
xác thực của sử liệu, phê phán độ tin cậy của các thông tin sử liệu, xác định giá
trị thông tin lịch sử của các nguồn sử liệu đối với hoạt động nhận thức lịch sử...
Ngành Sử liệu học ra đời, sự “ngổn ngang” của những dấu tích, di tồn cịn
lại của xã hội loài người trong quá khứ trở nên “trật tự, ngăn nắp”. Được trang bị
cả về lý luận, lẫn kinh nghiệm thực tiễn, các nhà nghiên cứu tự tin hơn trong
việc tiếp cận với các nguồn sử liệu, tự tin hơn trong việc sử dụng chúng vào việc
nghiên cứu phục dựng hiện thực quá khứ khách quan.
Từ những nhận thức cơ bản về mối quan hệ giữa lịch sử với sử học, sử
liệu với sử học, sử liệu với sử liệu học, việc hiểu biết về các nguồn sử liệu Việt
Nam trở thành một là một yêu cầu mang tính tiên quyết để phục vụ cho nghiên
cứu, học tập ngành sử học Việt Nam nói riêng, ngành lịch sử nói chung.
Các nguồn sử liệu về lịch sử Việt Nam nhìn tổng thể khá phong phú về cả
loại hình đến nội dung sử liệu. Tuy nhiên, các nguồn sử liệu phân bố không đều,
một số thời kỳ, giai đoạn lịch sử còn thiếu vắng sử liệu, đặc biệt là từ thời kỳ
Hùng Vương dựng nước kéo đài đến tận thế kỷ thứ X sau Công nguyên, do vậy

đã tạo nên những “khoảng trắng” trong nghiên cứu lịch sử dân tộc2.
Sử liệu Việt Nam ở mỗi giai đoạn lịch sử đều xuất hiện và tồn tại một
cách khách quan, phản ánh trình độ phát triển của dân tộc và những đặc điểm

2

. Đơn cử như, ở Bình Dương cư dân Phú Chánh xuất hiện vào khoảng từ thế kỷ III đến thế kỷ I trước Công
nguyên, tương ứng với giai đoạn Đông Sơn. Với “nhà sàn dựng trên cọc gỗ”, cuộc sống thoáng mở với sự giao
lưu kinh tế - văn hóa với nhiều vùng, nhiều miền; nhưng “bổng dưng biến mất”, khơng để lại bất kỳ dấu tích nào
cho đến thế kỷ XVII khi người Việt vào khai phá.

9


trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Việc bảo tồn sử liệu tùy thuộc những điều
kiện tự nhiên và lịch sử cũng như ý thức và khả năng bảo quản của con người,
nhất là của các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, các nguồn sử liệu còn bị
tác động bởi nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan. Do vậy, việc tìm hiểu các
nguồn sử liệu Việt Nam, nơi lưu giữ, tồn tại,... sẽ giúp chúng ta tiếp cận, khai
thác dễ dàng hơn, nhằm phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học
tập lịch sử.
Đối với việc giảng dạy, học tập lịch sử ở các trường đại học, cao đẳng,
cho đến nay, các cơng trình nghiên cứu về Sử liệu học chưa nhiều, nếu khơng
muốn nói là chưa có cuốn giáo trình nào viết về Sử liệu học.
Tình trạng thiếu tài liệu dạy và học Sử liệu học là một thực trạng, “có thể
đó là lý do” để giáo viên và sinh viên “ngại” dạy và học Sử liệu học. Thậm chí,
nhiều trường đại học đến nay vẫn chưa đưa bộ môn Sử liệu học vào chương
trình đào tạo với tư cách là một môn học độc lập; mà chỉ xem Sử liệu học là một
nội dung trong Nhập môn Sử học. Trong chương trình Nhập mơn Sử học, cơ cấu
Sử liệu học dù được xem là một nội dung không thể thiếu, tuy vậy, cũng có

trường khi xây dựng đề cương môn học Nhập môn Sử học đã cắt bỏ nội dung
này. Hệ quả của sự hụt hẫng kiến thức Sử liệu học trong chương trình đào tạo là
sinh viên thiếu kỹ năng và phương pháp nghiên cứu, thụ động tiếp nhận kết quả
nghiên cứu từ các giáo trình, sách tham khảo, tiếp thu thụ động kết quả nghiên
cứu của các tác giả có tên tuổi, đánh mất thuộc tính sáng tạo vốn có của Khoa
học Lịch sử trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động sử học nói chung. Để góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường nói chung, của ngành Lịch sử
nói riêng, thiết nghĩ Sử liệu học cần được ưu tiên giảng dạy, đặc biệt đối với các
trường có ngành sử học.
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp

NGƢỜI THỰC HIỆN
TS. Nguyễn Đình Thống

10



×