Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.21 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ HÀ XUYÊN

THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI-2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ HÀ XUYÊN

THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh doanh

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn : ThS.NCS.Trần Anh Tú

Hà Nội-2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Hà Xuyên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI........................................................................ 6
1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại. ......................................................... 6
1.2 Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại .............................. 10

1.2.1 Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại .... 10
1.2.2 Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại ................................ 12
1.3 Phân biệt thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm quyền của tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại ................................ 17

CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH..................................................................................................... 22
2.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền của
trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật trọng tài thương mại năm 2010. ......... 22


2.1.1 Giai đoạn sơ khai (Trước năm 2003) ............................................... 22
2.1.2 Giai đoạn chuyển tiếp ( 2003-2010) ................................................ 29
2.2 Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương
thương mại theo Luât trọng tài thương mại 2010 .................................................. 33

2.2.1 Các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp lệ và có thể thực
hiện được trên thực tế. .............................................................................. 33
2.2.2 Quy định tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài thương
mại.............................................................................................................40
2.3 Phân định thẩm quyền của Trọng tài thương mại và Toà án theo pháp luật
Việt Nam hiện nay. ................................................................................................ 47
2.4 Thực tiễn thi hành các quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại tại
Việt Nam trong thời gian qua: ............................................................................... 51


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY. .................................................................................................... 56
3.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền trọng
tài thương mại ........................................................................................................ 56

3.1.1 Cơ sở lý luận ................................................................................... 56
3.1.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................. 56
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương
mại.........................................................................................................................60
3.3 Những giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. ................................ 66


KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73


DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT
STT
1.

Viết tắt

Nội dung từ

Luật Trọng tài thương

Luật Trọng tài thương mại ngày 17 tháng

mại 2010

06 năm 2010 của Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.

Pháp lệnh Trọng tài

Pháp lệnh trọng tài thương mại số

thương mại 2003

08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02

năm 2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hơi
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

3.

VIAC

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(Vietnam International Arbitration Centre)

4.

UNCITRAL

Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương
mại quốc tế(United Nations Commission
on International Trade Law)


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu bảng,biểu đồ
Biểu đồ 1

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Thống kê Trọng tài viên

54



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,Việt
Nam ghi nhận ngày càng nhiều những mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là với các
nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác nhau với tính chất và quy mô phức tạp
hơn. Cơ hội mới đồng thời cũng mang đến cho doanh nghiệp những rủi ro
mới. Chính vì vậy, hiện nay phương thức giải quyết tranh chấp được thừa
nhận là một bộ phận quan trọng trong việc kiểm sốt rủi ro liên quan đến q
trình hoạt động. Bên cạnh rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp, trọng
tài với lợi thế là thủ tục tố tụng nhanh gọn, kín đáo tiết kiệm hơn về thời gian,
chi phí đã trở thành một trong những phương thức giải quyết tranh chấp hấp
dẫn. Rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển đã tạo mọi điều kiện cho
hoạt động của trọng tài thương mại phát triển nhằm đa dạng hóa việc giải
quyết tranh chấp, tăng cơ hội lựa chọn cho các bên và giảm áp lực lên cơ quan
tư pháp.
Việt Nam vì vậy ngày càng quan tâm hơn đến giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật trọng tài thương mại
để thay thế Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, với nhiều quy định mới về
cơ bản phù hợp với pháp luật và thơng lệ quốc tế trong đó có quy định về mở
rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại đã thu hút
được rất nhiều sự quan tâm của các chuyên gia pháp lý, các nhà hoạt động
thực tiễn và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thực tế
trọng tài chưa trở thành một hình thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án được
ưu chuộng. Trọng tài Việt Nam rất ít được sử dụng để giải quyết các tranh
chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngồi nhất là các
hợp đồng có giá trị lớn hầu như không lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải
quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải

quyết thơng qua hệ thống tịa án hoặc trọng tài nước ngoài. Việc chậm phát
1


triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thực tiễn cuộc
sống do nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần lớn xuất phát từ hệ thống
quy phạm pháp luật hiện hành về trọng tài thương mại chung và đặc biệt là
các quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại nói riêng.Với mong
muốn được luận bàn chun sâu, góp phần hồn thiện pháp luật trọng tài ở
Việt Nam, tác giả chọn đề tài: “ Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay”.
2.

Tình hình nghiên cứu

Các vấn đề lý luận và thực tiễn về Trọng tài thương mại trong khoa học
pháp lý nói chung và khoa học pháp lý ở Việt Nam nói riêng đã được nghiên
cứu, phân tích khá kỹ lưỡng bởi nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học của
các tác giả khác nhau. Các sách chuyên khảo, luận văn, xã luận, bài viết được
công bố tính đến thời điểm hiện nay đều đã đề cập được phần nào những vấn
đề cốt lõi của phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng
tài thương mại. Cụ thể ở cấp độ luận văn thạc sỹ có thể kể đến các cơng trình
như: Luận văn “Pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại” của Tống Thị
Lan Hương- do PGS.TS Nguyễn Văn Tý hướng dẫn; Luận văn “Về pháp luật
trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy – do
PGS.TS Dương Đăng Huệ hướng dẫn; Luận văn “Thẩm quền của hội đồng
trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Đặng Minh
Phương do TS.Phan Thị Thanh Thủy hướng dẫn; Luận văn “So sánh pháp
luật về trọng tài thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” của Nguyễn Thị Liên
do GS.TSKH Đào Trí Úc hướng dẫn.

Ở cấp độ bài báo khoa học có thể kể đến các tác phẩm như: Tác giả
Nguyễn Vũ Hoàng với bài viết “Luật áp dụng trong lĩnh vực trọng tài thương
mại quốc tế” đăng trên Tạp chí Luật học, Số đặc san về giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế năm 2012; Tác giả Trần Quỳnh Anh với bài viết “Một số
vướng mắc và hoàn thiện Luật trọng tài thương mại” đăng trên Tạp chí Luật
học số 7/2012.
2


Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đề cập một cách khái quát về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa có cơng
trình nào đề cập một cách chuyên sâu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài. Vì vậy, trên cơ sở tham khảo một số tài liệu có liên quan, tác giả
sẽ tiếp cận nghiêm túc và tìm hiểu một cách tồn diện nhất về vấn đề này,
đồng thời đưa ra một số giải pháp,kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật
trong nước.
3. Mục tiêu của Luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật
trọng tài thương mại trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời,
phân tích các quy định hiện hành của pháp luật trọng tài thương mại về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; đánh giá thực trạng áp dụng các
quy định đó trong thực tiễn từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc đang và sẽ
gặp phải liên quan đến việc áp dụng quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại. Từ đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cần thiết cho việc đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của trọng tài thương mại trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
 Đối tượng nghiên cứu:

Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chủ yếu nghiên cứu những vấn đề lý
luận và tiễn về thẩm quyền của trọng tài thương mại được trong Luật Trọng
tài thương mại năm 2010.
 Phạm vi nghiên cứu:
 Về mặt nội dung:
Nội dung nghiên cứu của đề tài tiếp cận vấn đề thẩm quyền của trọng
tài thương mại trên hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên
3


cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền của hội đồng trọng tài và thực
tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương
mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, tác giả đưa ra những
đánh giá khách quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền của trọng tài tại Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
 Về mặt thời gian:
Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn, luận
văn lấy mốc nghiên cứu từ năm 2010- năm Luật trọng tài thương mại ban
hành cho đến nay. Nội dung luận văn cũng có sự nghiên cứu đối với các quy
định pháp luật trước năm 2010, đặc biệt là các quy định trong Pháp lệnh về
Trọng tài thương mại năm 2003. Khi đề xuất giải pháp, luận văn nêu ra những
kiến nghị, đề xuất thực hiện trong thời gian 5-10 năm tới.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng

của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề phát triển kinh tế, tìm ra các phương hướng giải quyết

tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngồi ra, cịn sử dụng các thành tựu của
các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà
nước và pháp luật, xã hội học pháp luật.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề
như: phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,…Đồng
thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước
và giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
6.

Kết cấu của luận văn:

Ngồi phần mở, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của trọng tài thương mại
4


Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của trọng tài
thương mại và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại tại Việt Nam
hiện nay.

5


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại.

Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp xuất hiện từ lâu trên thế giới.Phương thức này ngày càng được giới kinh
doanh ưu tiên lựa chọn để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy
ra tranh chấp vì những ưu thế vượt trội của nó so với các hình thức tài phán
khác.
Hiểu rõ khái niệm trọng tài thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc làm sáng tỏ thẩm quyền của trọng tài. Trong khoa học pháp lý, trọng tài
thương mại được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện
nay có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài thương mại được ghi nhận.
 Khái niệm trọng tài
Một trong những định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công
ước La Hay năm 1988, theo đó: “Trọng tài là nhằm giải quyết những bất
đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn
trên cơ sở tơn trọng pháp luật”
Tiếp đó, Hiệp định La-Hay 1907 quy định: “Trọng tài quốc tế có đối
tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của
những trọng tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở tôn
trọng pháp luật”
Tuy nhiên, hai cách định nghĩa này chỉ mới đưa ra một cách diễn giải
về hoạt động của trọng tài mà chưa thấy được bản chất của sự việc.
Ở một góc nhìn khác Luật sư tòa thượng thẩm Paris, Didier Skonicki
định nghĩa ngắn gọn: “Trọng tài là tịa án tự, do ý chí của đơi bên tranh chấp.
Nó cũng xét xử như tịa án nhà nước”.
Một định nghĩa phổ biến hơn và thường được các quốc gia sử dụng như
một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng pháp luật nước mình là trong cuốn
sách trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL cho rằng: “Trọng tài là
6


những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được

xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng
buộc đối với hai bên”.
Theo hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) – một tổ chức trọng tài đã có về dày
lịch sử hoạt động thì: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách
đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ
sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải
thi hành”.
Theo cuốn “Đại từ điển kinh tế thị trường” thì: “Trọng tài là một
phương thức giải quyết một cách hịa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên
đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho
bên thứ ba có tư cách cơng bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người
này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”
Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 quy
định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại”
Về mặt học thuật, trên thế giới cũng có nhiều học giả quan tâm và
nghiên cứu từ nhiều năm qua.
Theo Okezie Chukwumerije: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các
bên lựa chọn hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất
định được lựa chọn bởi chính các bên”
Với một quan điểm tương tự James anh Nicolas cho rằng: “Trọng tài
được coi là một tiến trình tư được mở ra theo sự thoả thuận của các bên
nhằm giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một
hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên”.
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài được nhìn từ
những góc độ khác nhau, song nhìn chung có thể thấy tất cả các định nghĩa
trên đều hiểu trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài
7



phán phi nhà nước. Trọng tài là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp
chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ
sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên.
 Khái niệm trọng tài thương mại.
Khái niệm trọng tài thương mại là không giống nhau tùy thuộc vào quy
định của pháp luật mỗi quốc gia, trong đó khái niệm “thương mại” có ảnh
hưởng rất lớn.
Cho đến nay khơng tồn tại khái niệm thương mại nào được chấp nhận
chung bởi tất các quốc gia trên thế giới. Pháp luật của mỗi quốc gia đều có
cách tiếp cận đặc thù về vấn đề này. Tuy nhiên sự không thống nhất này được
quốc tế công nhận và tôn trọng, trong công ước New York 1958 về Công
nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài dù đã nỗ lực ghi nhận một
sự giải thích về thuật ngữ “thương mại” nhưng lại dành cho các nước thành
viên quyền bảo lưu đối với khái niệm này: “Quốc gia đó cũng có thể tuyên bố
chỉ áp dụng công ước đối với các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng mà theo pháp luật quốc gia đó quy
định là quan hệ thương mại”(Điều 1 Khoản 3). Hay như trong công ước
Giơnevơ 1972 cũng quy định: “Mỗi nước tham gia hợp đồng có thể giới hạn
nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng được coi là thương mại do luật quốc gia
quy định”
Một trong những định nghĩa khá đầy đủ và được biết đến rộng rãi nhất
phải kể đến là quy định tại phần chú thích tại Luật Mẫu trọng tài thương mại
quốc tế Liên hợp quốc (1985), tuy nhiên nó cũng chỉ được các quốc gia sử
dụng như một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng khái niệm thương mại
trong pháp luật nước mình. Khái niệm thương mại ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương
mại, dù là có hợp đồng hay khơng có hợp đồng. Theo đó những quan hệ được
cho là có bản chất thương mại bao gồm: “ Bất kỳ giao dịch buôn bán nào
nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại

8


diện thương mại hoặc đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị,
xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li- xăng (mua bán sáng chế phát minh), đầu
tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển
nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh, vận tải hàng hố hoặc hành khách bằng đường khơng, đường biển,
đường sắt đường bộ” [40, Điều 1].
Dưới góc độ của mỗi quốc gia, ở các quốc gia phát triển cao, thường
sử dụng khái niệm thương mại và quy định phạm vi của nó khá rõ ràng trong
các văn bản pháp luật với phạm vi rộng. Các quan hệ thương mại được phân
biệt với các quan hệ dân sự ở mục đích của chúng: các quan hệ thương mại là
các quan hệ nhằm mục đích thu lợi nhuận cịn các quan hệ dân sự chỉ nhằm
mục đích tiêu dùng cá nhân.
Bộ luật Thương mại cộng hòa Pháp hiện hành bao gồm các quy định về
thương nhân, về chứng từ lưu thông, về thương mại hàng hải…Luật Thương
mại Philipin định nghĩa thương mại là hoạt động của con người nhằm thúc
đẩy sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận và bao gồm
các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận chuyển
hành khách và hàng hóa. Bộ luật Thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều
chỉnh khá rộng, bao gồm mua bán hàng hóa, thuê tài sản thuê mua tài sản, tín
dụng, thế chấp, đại diện, mơi giới, bảo hiểm, công ty hợp danh…
Tại Việt Nam theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2010
quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Quy định này có nghĩa khái niệm
thương mại được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ là các hoạt động mua bán hàng hoá
và những hoạt động gắn liền việc mua bán hàng hoá.
Qua việc phân tích các nội dung cơ bản của trọng tài thương mại, có thể

kết luận rằng: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp mà
sự bắt đầu của nó dựa trên thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp nhằm
9


giải quyết các tranh chấp có yếu tố thương mại bởi một hội đồng bao gồm
một hoặc nhiều trọng tài viên.
Với bối cảnh kinh tế xã hội phát triển như hiện nay, những tranh chấp
trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thường xuyên xảy ra. Để giải quyết
tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn một hay nhiều phương thức phù hợp
với nhu cầu của mỗi bên. Trọng tài thương mại chính là một phương thức giải
quyết tranh chấp bên cạnh các phương thức khác là thương lương, hòa giải
hay giải quyết bằng tòa án. So với các phương thức còn lại, Trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp kết hợp nhiều ưu điểm của của các phương
thức này, như: Đảm bảo sự tự do thỏa thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các
bên, giữ được quan hệ giữa các bên sau khi giải quyết như phương thức
thương lượng, hòa giải; đảm bảo sự chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài
phán như hình thức tòa án. Ở các nước phát triển, trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phổ biến và được các thương nhân cũng như các nhà
kinh doanh lựa chọn tối ưu để giải quyết tranh chấp.
1.2 Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại
1.2.1 Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại
Thứ nhất, Trọng tài thương mại là thiết chế “tài phán tư”
Thẩm quyền của trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận trao
cho.Thẩm quyền này khơng mang tính chất đương nhiên và khơng mang tính
quyền lực nhà nước. Tính chất phi chính phủ của phương thức này được thể
hiện:


Về tổ chức: Hội đồng trọng tài, tổ chức trọng tài được thành lập


theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép. Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, hoạt
động theo quy định của pháp luật và quy tắc tố tụng riêng. Mỗi trung tâm
trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng với các trung tâm
trọng tài khác. Các tổ này hoạt động theo nguyên tắc tự hoạch toán, tự trang
trải, lấy thu bù chi mà khơng được cấp kinh phí hoạt động trong ngân sách
10


nhà nước. Chính vì vậy, Hội đồng trọng tài, các tổ chức trọng tài không nằm
trong thiết chế nào của bộ máy nhà nước và không phải là cơ quan xét xử của
Nhà nước.


Về trọng tài viên: Trọng tài viên là những người hành nghề tự

do, không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh cá nhân hoặc trung
tâm trọng tài. Họ không phải là công chức nhà nước, không được hưởng
lương từ ngân sách nhà nước mà hưởng thù lao theo từng vụ việc tranh chấp.
Đặc điểm này đảm bảo cho trọng tài thương mại thuần túy mang tính xã hội,
khơng chịu áp lực của các cơ quan nhà nước, tăng tính độc lập và khách quan
cho các quyết định của trọng tài. Đồng thời cũng tránh được sự cồng kềnh,
quá tải cho bộ máy nhà nước.


Về hiệu lực các phán quyết: Các phán quyết trọng tài không có

bộ máy cưỡng chế riêng để đảm bảo thi hành. Để phán quyết này được thực
thi, các bên phải sử dụng thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết trọng

tài theo công ước NewYork 1958 hoặc được pháp luật quy định.
Thứ hai, trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp
gắn với hoạt động thương mại
Tồ trọng tài là một trong những hình thức cổ xưa nhất để giải quyết
bất hoà giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Hình thái đấu tiên
về trọng tài có thể bắt nguồn từ các quốc gia thành bang cổ Hy Lạp, cổ La Mã
và thời Xn Thu Chiến Quốc cũng có ghi chép lại hình thức trọng tài này.
Quy định sơ khai về trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái
bn được tự phân xử bất hịa của mình khơng cần có sự can thiệp của nhà
nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ
trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa,
có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu. Nhìn chung, chế độ trọng
tài thời xưa chủ yếu dùng để giải quyết tranh chấp giữa các thương nhân.
Ngày nay mặc dù thẩm quyền của trọng tài thương mại đã được mở
rộng, nhưng hầu hết các tranh chấp được giải quyết bằng hình thức trọng tài
11


vẫn là các tranh chấp thương mại mà chủ yếu là tranh chấp từ hợp đồng
thương mại. Đới với các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác như : Hôn nhân
gia đình, sở hữu trí tuệ, tranh chấp liên quan đến quyền của người thứ ba
trong vụ phá sản, tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh, tranh chấp lao động ,
nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc giải quyết tại toà án
hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất định.
Thứ ba, Trọng tài thương mại đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương
sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến lợi ích tư
Xét về bản chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên
sự lựa chọn tự nguyện của các bên tranh chấp. Để được giải quyết bằng
phương thức trọng tài, các bên cần phải có thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau
khi xảy ra các tranh chấp thương mại. Bằng một điều khoản trọng tài (trong

hợp đồng kinh tế thương mại) hay bằng một thoả thuận trọng tài (lập ra sau
khi sau khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp ra giải
quyết bằng một cơ quan trọng tài (uỷ ban trọng tài hoặc trọng tài viên) do các
bên lựa chọn. Thỏa thuận giữa các bên về tranh chấp là điều kiện tiên quyết
để làm phát sinh thẩm quyền trọng tài. Như vậy, thẩm quyền của cơ quan
trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện”
do các bên tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm. Tuy nhiên một khi đã được thoả
thuận thì phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên
tuân thủ.
Hơn thế nữa, về nguyên tắc thẩm quyền của quyết trọng tài không bị giới
hạn bởi pháp luật, phương thức trọng tài tôn trọng quyền tự định đoạt của các
bên: từ việc xác định phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được giải quyết, lựa
chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp
dụng đối với tranh chấp đến việc phán quyết của trọng tài được thực hiện ra
sao ... tất cả đều do các bên trong tranh chấp tự thoả thuận.
1.2.2 Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại
Trọng tài là một loại hình cơ quan tài phán, do đó vấn đề đầu tiên mà nhà
12


nước nào cũng phải quan tâm là vấn đề về thẩm quyền của trọng tài. Dựa trên
các cơ sở lý luận đã nêu trên có thể thấy phạm vi thẩm quyền của trọng tài
thương mại được xác định dựa trên các yêu tố sau:
Thứ nhất, dựa trên sự thỏa thuận của các bên trước hoặc sau khi xảy ra
tranh chấp bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
Như đã phân tích ở trên, thẩm quyền của trọng tài khơng phải là thẩm
quyền đương nhiên mà là thẩm quyền theo sự lựa chọn, nghĩa là trọng tài chỉ
có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được các bên lựa chọn bằng một
thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.Vì vậy, ý định sử dụng trọng tài phải được
hiện thực hóa bằng một thỏa thuận trọng tài và được đàm phán giữa các bên

liên quan. Một tranh chấp chỉ được giải quyết bằng hình thức trọng tài nếu các
bên có thoả thuận trọng tài.
Quy định này khác với tố tụng toà án, theo đó khi xảy ra tranh chấp thì bất
cứ bên nào cũng có quyền u cầu tồ án xem xét giải quyết mà không cần
được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của Tồ án là đương nhiên. Nhưng trọng
tài thì khơng như vậy, nếu các bên khơng có thoả thuận giải quyết bằng trọng
tài thì trọng tài tuyệt nhiên khơng có thẩm quyền gì. Thoả thuận giữa các bên
tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm quyền của trọng tài.
Thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên tranh chấp thống nhất giao cho trọng
tài quyền thay mặt họ trong việc xem xét nội dung tranh chấp và đưa ra phán
quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.Vai trò của một thỏa thuận
trọng tài được thể hiện ở những phương diện:
 Một là, do thỏa thuận trọng tài được xác lập trên cơ sở tự nguyện và
bình đẳng của chính các bên nên một khi đã xác lập thỏa thuận trọng tài thì
khơng bên nào được thối thác việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
 Hai là, một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cho phép khẳng định tịa án
khơng có thẩm quyền và phải từ chối thụ lý vụ án khi một bên khởi kiện ra
tòa, trừ trường hợp thoả thuân trọng tài vô hiệu hoặc không thực hiệu được.
Điều 5 luật Mẫu thể hiện rất rõ vấn đề này: “những vấn đề chi phối bởi luật
13


này, khơng một tồ án nào được phép can thiệp ngoại trừ Toà án được luật
này cho phép”. Luật Mẫu yêu cầu toà án tư pháp của các quốc gia phải từ chối
thụ lý vụ tranh chấp nếu đã và sẽ có một thỏa ước trọng tài giữa các bên tranh
chấp, hoặc phải thông báo cho các bên tranh chấp biết được tinh thần của luật
Mẫu về sự từ chối thụ lý của toà án. Toà án tư pháp chỉ can thiệp trong trường
hợp một thoả ước trọng tài bị vô hiệu tuyệt đối (tức là trường hợp một thoả
ước trọng tài vi phạm những quy định về nội dung và những quy phạm về
hình thức) hoặc khơng có khả năng thi hành.



Ba là, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác định thẩm quyền trọng

tài.Trọng tài chỉ được giải quyết một số loại tranh chấp nhất định và theo cách
thức nhất định do các bên lựa chọn và thoả thuận trong điều khoản trọng tài
hoặc thoả thuận trọng tài. Nếu trọng tài vượt quá thẩm quyền được uỷ quyền
hoặc không tuân thủ các nguyên tắc tố tụng trọng thoả thuận trọng tài, không
thực hiện đầy đủ, đúng đắn, khách quan, vô tư, công bằng trách nhiệm được
các bên giao phó thì theo ngun tắc đại diện, các quyết định của trọng tài sẽ
bị chính các bên tranh chấp yêu cầu huỷ bỏ, không công nhận và không cho
thi hành để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hộ và để thưc thi công lý.


Bốn là, thỏa thuận trọng tài cho phép lựa chọn nơi tiến hành tố

tụng trọng tài, luật áp dụng, ngôn ngữ trọng tài trong những điều kiện phù hợp
nhất.
Tuy nhiên một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi nó đáp ứng được
yêu cầu của pháp luật về nội dung và hình thức. Pháp luật các nước khác nhau
quy định không giống nhau về nội dung thỏa thuận của trọng tài thương
mại.Tuy nhiên, về cơ bản điểm chung của các nước thường đặt ra những yêu
cầu về tính rõ ràng, sự chính xác của thỏa thuận trọng tài theo đó có thể dễ
dàng xác định thẩm quyền xét xử của một Hội đồng trọng tài cụ thể, theo một
quy tắc tố tụng nhất định.
Thứ hai, dựa trên các quy định của pháp luật về những loại việc thuộc
thẩm quyền của trọng tài.
14



Nếu như tố tụng tòa án sử dụng các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo
lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ của bị đơn và sự thỏa thuận của nguyên đơn thì
thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc nếu được các bên có vụ
việc lựa chọn đích danh. Trong lịch sử, trọng tài đã được sử dụng để giải
quyết nhiều loại tranh chấp khác nhau: tranh chấp giữa các quốc gia, tranh
chấp kinh doanh thương mại, tranh chấp lao động…Tuy nhiên, theo xu hướng
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì trọng tài được thành lập chủ
yếu để giải quyết các tranh chấp phát sinh hoạt động thương mại. Phạm vi các
vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại rộng hay hẹp vì
vậy chịu ảnh hưởng rất lớn vào quy định của mỗi quốc về khái niệm “thương
mại”.
Nghiên cứu pháp luật của các quốc gia trên thế giới cho thấy trọng tài có
một quyền năng rất rộng. Tùy theo quan điểm của mỗi nước mà thẩm quyền
của trọng tài có các quy định khác nhau nhưng nhìn chung các quy định này
thường được thiết lập dựa trên hai phương pháp chính là phương pháp loại trừ
và phương pháp liệt kê:
- Theo phương pháp loại trừ:
Đối với nhiều nước, để mở rộng thẩm quyền trọng tài, pháp luật trọng
tài không liệt kê những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài mà
chỉ liệt kê những loại việc mà trọng tài khơng được giải quyết. Ví dụ như:
Luật trọng tài Đức 1998 có nêu ra bất kỳ khiếu nại nào liên quan đến một lợi
ích kinh tế đều có thể là đối tượng của thỏa thuận trọng tài, trọng tài có quyền
giải quyết ngoại trừ tranh chấp về hợp đồng thuê nhà trên lãnh thổ Đức thì
trọng tài khơng có quyền giải quyết. Tương tư, Luật trọng tài Nhật Bản 2003
tại khoản 1 Điều 13 cũng quy định thẩm quyền theo phương pháp loại trừ,
theo đó: “trừ khi được quy định bởi pháp luật, một thỏa thuận trọng tài sẽ có
hiệu lực chỉ khi nội dung của nó là một tranh chấp dân sự mà có thể được
giải quyết bằng cách giàn xếp giữa hai bên (trừ việc ly dị hay ly thân)”. Như
vậy tất cả các tranh chấp dân sự đều thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
15



tài, nếu hai bên có thỏa thuận ngoại trừ trường hợp ly dị hoặc ly thân. Bộ luật
tố tụng dân sự Indonexia cũng quy định thẩm quyền trọng tài cụ thể tại Điều
615 và Điều 616 cho phép các bên có thể đưa thỏa thuận đưa ra trọng tài giải
quyết mọi vấn đề mà họ quan tâm trừ vấn đề liên quan đến tài sản tặng cho và
thừa kế để cấp dưỡng, ni ăn, mặc, ở; hơn nhân gia đình, về hộ tịch và một
số vấn đề khác theo luật định.
- Theo phương pháp liệt kê:
Phương pháp này được một số nước áp dụng để quy định thẩm quyền
trọng tài như: Braxin, Nga, Việt Nam…Theo phương pháp này, pháp luật
trọng tài chỉ giải quyết các loại tranh chấp được quy định cụ thể trong văn bản
pháp luật. Ví dụ, theo Điều 1 Luật trọng tài Braxin 1996 thì “những người có
khả năng kí kết hợp đồng có thể đưa ra trọng tài để giải quyết tranh chấp liên
quan đến các quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định”. Hay tại khoản 2
Điều 1 Luật trọng tài quốc tế Liên bang Nga 1993 quy định: “theo thỏa thuận
trọng tài, các bên có thể đưa ra xét xử tại trọng tài thương mại quốc tế: các
tranh chấp từ các quan hệ hợp đồng và các quan hệ pháp luật dân sự khác
phát sinh trong khi thực hiện thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương và
các mối quan hệ kinh tế quốc tế khác nếu một trong các bên ở nước ngoài và
của các liên hiệp và các tổ chức quốc tế thành lập trên lãnh thổ Liên bang
Nga với nhau, tranh chấp giữa các thành viên của họ cũng như tranh chấp
giữa họ với các chủ thể luật pháp khác của Nga”
Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 cũng đi theo xu hướng quy định
thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp liệt kê. Theo đó, Điều 2 Luật
trọng tài thương mại 2010 quy định ba nhóm việc thuộc phạm vi thẩm quyền
giải quyết tranh chấp trọng tài bao gồm: nhóm tranh chấp giữa các bên phát
sinh từ hoạt động thương mại, nhóm các tranh chấp giữa các bên trong đó có
ít nhất một bên có hoạt động thương mại và nhóm tranh chấp giữa các bên mà
pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.

16


1.3

Phân biệt thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm

quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan
của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần
phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong
hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Trong rất
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, nổi bật lên là phương
thức giải quyết bằng trọng tài thương mại và phương thức giải quyết bằng toà
án. Sự khác nhau cơ bản về thẩm quyền của trọng tài với thẩm quyền của toà
án cũng chính là điểm khác biệt giữa hai hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại này.
Thứ nhất, thẩm quyền của toà án là thẩm quyền đương nhiên trong
việc giải quyết tranh chấp. Nếu các bên có tranh chấp thương mại như hợp
đồng, và các tranh chấp khác bên bị vi phạm có quyền sử dụng quyền khởi
kiện dân sự của mình để thực hiện việc khởi kiện ra tồ án mà không cần bất
kỳ sự cảnh cáo, sự thoả thuận hay đồng ý của bên đối phương. Ngược lại, xét
về bản chất, trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự
nguyện của các bên. Các bên tự thoả thuận về phạm vi các tranh chấp mà
trọng tài được quyền giải quyết, thoả thuận về luật áp dụng, về tính chung
thẩm và hiệu lực bắt buộc của phán quyết trọng tài đối với các bên tranh chấp.
Như vậy thẩm quyền của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp
đồng” hay “quyền lực đại diện” do các bên tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm.

Thẩm quyền này tạo cho các bên đương sự linh hoạt trong việc lựa chọn cơ quan
giải quyết tranh chấp là trọng tài mà khơng mang tính chất đóng như tồ án.
Thứ hai, giữa tịa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất
pháp lý.
Tịa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Trong q trình tố tụng, tịa án nhân danh nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm
17


pháp luật nhằm duy trì trật tự cơng cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên. Các bản án quyết định của toà án được có hiệu lực bắt buộc
đối với mọi cơng dân, tổ chức có liên quan và đảm bảo thi hành bằng sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ngược lại, trọng tài mang đậm tính chất phi
chính phủ. Tính phi chính phủ này thể hiện ở chỗ, các trung tâm trọng tài
không do nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận
xin phép nhà nước để được thành lập. Trung tâm trọng tài là tổ chức xã hội
nghề nghiệp và không nằm trong cơ cấu thiết chế của bộ máy nhà nước. Đối
với trọng tài vụ việc, trọng tài cũng hoàn toàn do các bên tự thành lập và
khơng phải là cơ quan nhà nước. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa tòa án và
trọng tài đã quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng tòa án và
tố tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
Thứ ba,về thủ tục tố tụng.
Thủ tục tố tụng toà án áp dụng cho các tranh chấp trong thương mại do
toà án thực hiện được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một
số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như:
về hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng. Thủ tục tố tụng của
toà án bắt buộc tuân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự cho nên đặc
trưng của tố tụng toà án là các quy tắc thủ tục nghiêm ngặt, thường khá cứng
nhắc. Còn thủ tục tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thoả thuận và
tài phán. Cụ thể, thoả thuận làm tiền đề cho phán quyết . Thủ tục tố tụng trọng

tài vì vậy mang tính linh hoạt cao. Các bên tuỳ ý tổ chức tố tụng bằng cách
dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc soạn thảo quy tắc riêng.
Thứ tư, thẩm quyền theo vụ việc:
Dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, tịa án có thẩm quyền rộng hơn
so với trọng tài. Tịa án có thẩm quyền giải quyết hầu như tất cả các loại tranh
chấp phát sinh trong cuộc sống như kinh doanh thương mại, thừa kế, hơn
nhân gia đình, trách nhiệm ngồi hợp đồng, v.v. Tịa án cũng có thể giải quyết
những việc dân sự khơng phải là tranh chấp. Trong khi đó, trọng tài chỉ có
18


×