Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Trách nhiệm của người quản lý, điều hànhtrong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.41 KB, 55 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được cơng bố trong các cơng trình
khác. Nếu khơng đúng như trên, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về đề tài của
mình.
Người cam đoan

Nguyễn Hồng Hạnh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4
5. Bố cục khóa luận .......................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU
HÀNH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG
TY CỔ PHẦN ....................................................................................................... 5
1.1. Khái quát về người quản lý, điều hành công ty cổ phần? ......................... 5
1.1.1. Người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần? .............................. 5
1.1.2. Mối quan hệ giữa người quản lý, điều hành với chủ sở hữu trong công
ty cổ phần ......................................................................................................... 7
1.2. Khái quát về trách nhiệm của người quản lý, điều hành công ty trong công
ty cổ phần? .......................................................................................................... 8
1.2.1. Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty là gì?......... 8
1.2.2. Những trách nhiệm cơ bản mà người quản lý, điều hành phải thực hiện
khi quản lý, điều hành công ty cổ phần? ......................................................... 9
1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ


phần

........................................................................................................... 15

1.3. Vai trò của việc xác định người quản lý, điều hành và trách nhiệm của
người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần............................................... 18


CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 ..... 20
2.1. Người quản lý, điều hành công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014?
20
2.2. Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp 2014? ......................................................................................... 21
2.2.1. Trách nhiệm thực hiện đúng điều lệ, nghị quyết của đại hội đồng cổ
đông, luật doanh nghiệp và luật có liên quan. ............................................... 23
2.2.2. Trách nhiệm cẩn trọng....................................................................... 24
2.2.3. Trách nhiệm trung thành ................................................................... 24
2.2.4. Trách nhiệm thơng báo kịp thời, đầy đủ, chính xác về doanh nghiệp
mà họ và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần
chi phối........................................................................................................... 28
2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần
theo luật doanh nghiệp 2014? ........................................................................... 29
2.4. Thực tiễn thi quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về người quản lý, điều
hành và trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. Một
số vấn đề pháp lý đặt ra..................................................................................... 30
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN............. 38
3.1. Các yếu tố tác động đến pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, điều
hành trong công ty cổ phần ............................................................................... 38

3.2. Một số biện pháp để “các quy định pháp luật về trách nhiệm của người
quản lý, điều hành trong cơng ty cổ phần” thực thi có hiệu quả trên thực tế…40


3.3. Một số kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người
quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. ........................................................ 42
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề quản trị công ty cổ phần là một trong những nội dung trọng tâm của
pháp luật về công ty cổ phần. Trong công ty cổ phần, các cổ đông nhỏ lẻ chiếm số
lượng lớn và không thể thường xuyên theo dõi hoạt động quản lý, điều hành của
công ty. Để bảo vệ các nhà đầu tư, những người nắm giữ cổ phần, thì việc quy
định rõ về trách nhiệm quản lý, điều hành công ty cổ phần là vấn đề rất quan trọng.
Người quản lý trong công ty cổ phần tham gia vào quản lý, điều hành các
hoạt động diễn ra thường xuyên của công ty. Một người quản lý tốt, trung thành
với lợi ích của cổ đơng của cơng ty sẽ khiến công ty phát triển. Tuy nhiên, trong
nội bộ doanh nghiệp, có thể thấy, người quản lý có thể lạm dụng vị trí, có những
hành vi tư lợi để làm hại đến lợi ích của những chủ sở hữu, nhà đầu tư khác.
Từ luật công ty năm 1999 đến nay, pháp luật Việt Nam đã luôn quan tâm đến
các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý, điều hành. Tuy vậy, luật
doanh nghiệp 2014 vẫn còn thiếu những quy định cụ thể về các trách nhiệm cơ
bản đó để điều luật có thể được áp dụng. Khi pháp luật khơng có các quy định,
hoặc quy định không rõ trách nhiệm, nghĩa vụ hợp lý cho người quản lý điều hành
trong cơng ty cổ phần thì việc áp dụng các quy định pháp luật về quản trị công ty
sẽ kém hiệu quả, không thể bảo vệ được quyền lợi của các cổ đơng và các bên có
liên quan như chủ nợ, người lao động và khách hàng của công ty.
Trong quản trị công ty, việc xác định đầy đủ, hợp lý và cụ thể trách nhiệm

của người quản lý, điều hành dựa trên cơ sở các quy định hiện hành của pháp luật
là một trong những cơ sở đảm bảo cho việc thiết lập và quản trị công ty một cách
hiệu quả.

1


Chính bởi các lý do trên, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm của
người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp
2014” làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về quản trị cơng ty nói chung và trách nhiệm của người quản lý,
điều hành nói riêng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó phải
kể đến một số cơng trình nghiên cứu như sau:
Luận văn “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị cơng ty cổ phần”,
2014, Hồng Thị Mai, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
Trong luận văn này, tác giả đã tập trung nghiên cứu về quản trị cơng ty nói chung,
nghiên cứu các thiết chế: đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc,
ban kiểm soát; luận văn đã so sánh pháp luật quản trị của Việt nam với các nước
trên thế giới, từ đó chỉ ra yêu cầu khách quan cần hoàn thiện pháp luật.
Luận văn “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Pháp luật Việt Nam”,
2015, Nguyễn Hoàng Duy, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà nội;
luận văn đã nêu được khái niệm người quản lý, nguồn gốc của nghĩa vụ, những
trách nhiệm cơ bản mà người quản lý phải có và hướng hồn thiện pháp luật.
Bài viết của PGS. TS Bùi Xuân Hải: “Người quản lý công ty theo Luật Doanh
nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh” đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý
Tháng 4 năm 2005 và bài viết: “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong pháp
luật công ty Việt nam” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007; Bài viết
của Lê Đức Nghĩa “Trách nhiệm người quản lý theo luật cơng ty Việt nam” trên
tạp chí nghiên cứu lập pháp;


2


Sách “CEO và Hội đồng quản trị” của Phạm Trí Hùng; cuốn “Luật Doanh
nghiệp Vốn và quản lý trong công ty cổ phần của ThS. Nguyễn Ngọc Bích
(2006),…
Có thể thấy, tới nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu
về vấn đề quản trị cơng ty nói chung; những khuyến nghị của OECD đối với quản
trị công ty cổ phần ở Việt Nam và các vấn đề về trách nhiệm, nghĩa vụ của người
quản lý, điều hành. Các cơng trình này đã đóng góp khơng nhỏ cho khoa học pháp
lý và tạo dựng nền tảng lý luận vững chắc cho các bước nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, khơng phải vì thế mà chúng ta khơng cần tiếp tục nghiên cứu về
quản trị cơng ty nói chung cũng như trách nhiệm của người quản lý, điều hành.
Hiện nay, Luật doanh nghiệp 2014 được áp dụng được hơn hai năm, tuy nhiên
thực tiễn thi hành pháp luật về người quản lý, điều hành cơng ty cịn nhiều bất cập.
Vậy nên, việc nghiên cứu về “trách nhiệm của người quản lý, điều hành” vẫn là
mảnh đất cần được khai phá.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực đề tài này, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng chủ yếu
trong Chương 1 khi nghiên cứu những vần đề chung về người quản lý, điều hành
và trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong cơng ty cổ phần.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được sử dụng chủ yếu ở
Chương 2 khi phân tích các quy định của Pháp luật hiện hành về trách nhiệm của
người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần và thực thi những quy định đó trên
thực tế.

3



- Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để
đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người quản
lý, điều hành trong công ty cổ phần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Theo đề tài này, mục tiêu của tác giả là tìm hiểu, phân tích và làm rõ các vấn
đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về người quản lý, điều hành công ty trong công
ty cổ phần, trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong cơng ty cổ phần; từ đó
giúp hồn thiện pháp luật về quản trị cơng ty nói chung và trách nhiệm người quản
lý, điều hành trong công ty cổ phần nói riêng.
Đề tài tập chung xác định giới hạn người quản lý, điều hành trong công ty cổ
phần, những quy định trong luật doanh nghiệp 2014 về trách nhiệm cơ bản của
người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. Đề tài cũng tìm hiểu thực trạng
việc thực thi những quy định pháp luật đó tại Việt Nam và chỉ ra những điểm còn
bất hợp lý của pháp luật, từ đó kiến nghị hồn thiện pháp luật về trách nhiệm người
quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.
5. Bố cục khóa luận
Khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người quản lý, điều hành và trách nhiệm
của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.
Chương 2: Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần
theo Luật Doanh Nghiệp 2014 và Thực tiễn thi hành các quy định.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, điều hành
trong công ty cổ phần.

4


CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về người quản lý, điều hành công ty cổ phần.
1.1.1. Khái niệm người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.
Chúng ta đã biết, khi nói đến mơ hình quản trị cơng ty cổ phần có nghĩa là
nói đến cấu trúc của bộ máy quản lý – điều hành, vậy nên căn cứ theo các mơ hình
quản trị phổ biến trên thế giới, ta có thể xác định được người quản lý chính trong
cơng ty cổ phần.
Xét mơ hình quản trị một tầng (one tier board model): mơ hình này phổ biến
ở các nước theo hệ thống luật Anh- Mỹ. Bộ phận quản lý – điều hành chỉ do một
cơ quan đảm nhiệm là hội đồng giám đốc (board of directors). Hội đồng giám đốc
gồm các giám đốc (directors). Các thành viên của hội đồng giám đốc có trách
nhiệm quản lý hoạt đồng hàng ngày của công ty, tham gia quyết định những vấn
đề quan trọng của cơng ty thuộc thẩm quyền của mình. [21] Giám đốc (diretors) ở
đây không để chỉ chức vụ, một “director” có thể là chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng
hay thư ký. [5] Theo Luật công ty 2008, “director” được định nghĩa là thành viên
trong hội đồng giám đốc (de jure director) hoặc người giữ vị trí, vai trò như một
giám đốc bất luận chức danh của họ là gì (de factor director) hoặc người đưa ra
các chỉ đạo để các người quản lý khác làm theo (shadow director). [19] Các
“directors” có thể được bầu thơng qua quyết định thông thường của đại hội đồng
cổ đông bầu ra hoặc quyết định bổ nhiệm của ban giám đốc. [17]
Như vậy, người quản lý trong công ty theo hệ thông luật Anh – Mỹ được xác
định khá rộng, những người quản lý, điều hành không chỉ được xác định trên chức
5


danh mà còn được xác định trên hành động thực thế của họ. Chúng ta có thể thấy
ở đây có một tấm lọc lưới 3 tầng: tầng thứ 1 là các “de jure director” – người được
bổ nhiệm chức danh quản lý; tầng thứ 2 là các “de factor director” – người quản
lý thực tế, không được bổ nhiệm chức danh quản lý nhưng giữa vai trị vị trí như

một người quản lý; tầng thứ 3 là các “shadow director” – người quản lý giấu mặt,
những người mong muốn sử dụng cơng ty và lợi ích các quy định về người quản
lý, điều hành để đẩy trách nhiệm cho người khác. [8]
Xét mơ hình hai tầng (two tier board model): mơ hình này phổ biến ở các
nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa. Ở mơ hình này, cấu trúc quản lý- điều
hành gồm 2 bậc là hội đồng giám sát (supervisory board) và ban quản trị
(management board). Về hội đồng giám sát, hội đồng giám sát do đại hội đồng cổ
đông bầu ra, song người lao động cũng có quyền bầu thành viên hội đồng giám
sát, số lượng thành viên hội đồng giám sát bầu ra tùy thuộc vào quy mô người lao
động của công ty. Hội đồng giám sát tham gia trực tiếp vào việc đưa ra quyết định
quan trọng trong quản trị công ty.Về ban quản trị, ban quản trị do hội đồng giám
sát có thẩm quyền bầu, bổ nhiệm. Ban quản trị thực hiện chức năng điều hành hoạt
động kinh doanh hàng ngày của công ty. [25] Như vậy, có thể thấy, đối với mơ
hình quản trị hai tầng, người quản lý, điều hành công ty cổ phần được xác định là
những thành viên của hội đồng giám sát và thành viên của ban quản trị.
Tóm lại, qua phân tích, khơng có khái niệm chung về người quản lý, điều
hành nhưng có thể hiểu người quản lý, điều hành là những người được cơ quan
chủ sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra, những người này có thể giữ hoặc khơng
giữ chức danh quản lý nhưng tham gia vào ra quyết định, định hướng phát triển
công ty; tham gia việc quản lý, điều hành hoạt động hàng ngày của công ty.

6


1.1.2. Mối quan hệ giữa người quản lý, điều hành với chủ sở hữu trong cơng ty cổ
phần
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa người quản lý
và chủ sở hữu trong công ty là mối quan hệ đại diện. [10] Người quản lý là những
người được cơ quan sở hữu là đại hội đồng cổ đông trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra
để quản lý, điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Các cổ đông của công ty

trao quyền và nghĩa vụ cho người quản lý thông qua bản điều lệ của công ty, bản
điều lệ sẽ quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ mà người quản lý được phép làm.
Trong mối quan hệ giữa người quản lý và chủ sở hữu ln tồn tại nguy cơ
xung đột lợi ích. Theo quan điểm của một số học giả, mâu thuẫn lợi ích này xuất
phát từ vị thế mà người quản lý được hưởng. Người quản lý công ty, cho dù họ có
là cổ đơng hay là thành viên của cơng ty hay khơng thì họ đều có rất nhiều cơ hội
để tư lợi cho riêng mình hay cho những người mà họ mong muốn. Có rất nhiều
cách thức mà người quản lý cơng ty có thể kiếm chắc, từ lợi từ doanh nghiệp mình
quản lý, chẳng hạn thơng qua các giao dịch, hợp đồng với những người không liên
quan, hay tiết lộ những bí mật của cơng ty cho người khác,… [3]
Hơn nữa, giữa người quản lý và chủ sở hữu không phải lúc nào cũng cùng
chung mục tiêu theo đuổi. Ví dụ như đối với những người quản lý ưa mạo hiểm,
đặc biệt là các trường hợp giám đốc/ tổng giám đốc không phải cổ đông của công
ty, họ được thuê về để quản lý công ty; họ mong muốn mở rộng hơn nữa thị phần
của công ty, nhưng điều đó đơi khi rất rủi ro, trong khi đó, nhiều cổ đông những
người chủ sở hữu của công ty chỉ mong muốn có lợi nhuận ổn định ít rủi ro.
Tóm lại, bản chất quan hệ giữa người quản lý và chủ sở hữu là quan hệ đại
diện, người quản lý đại diện cho các chủ sở hữu điều hành hoạt đồng hàng ngày
của cơng ty. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm của người quản lý trong công ty là

7


rất quan trọng đối với lợi ích của các chủ sở hữu nói riêng và sự phát triển cơng ty
nói chung.
1.2.

Khái quát về trách nhiệm của người quản lý, điều hành công ty trong

công ty cổ phần.

1.2.1. Khái niệm trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty.
Trong tiếng Anh, có hai thuật ngữ cùng được hiểu là “trách nhiệm”:
“responsibility” và “accountability”. Hai thuật ngữ này thường được dùng thay thế
cho nhau, nhưng có một sự khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ này. Trách nhiệm
với nghĩa là “responsibility” thường được hiểu là việc phải làm, như là bổn phận,
nghĩa vụ. Cịn "accountability" có nghĩa rộng hơn “responsibility”, khơng chỉ có
nghĩa là những việc phải làm, mà còn bao gồm việc đứng ra nhận và chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện những việc đó.
Theo Từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Nghĩa thứ nhất: Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo
đảm làm tròn, được hiểu là nghĩa vụ, bổn phận; Nghĩa thứ hai: Sự ràng buộc đối
với lời nói, hành vi của họ, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần
hậu quả. [6]
Như vậy, khi nói đến trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong cơng
ty có thể được hiểu là những bổn phận, nghĩa vụ mà người quản lý, điều hành phải
thực hiện. Cũng có thể hiểu trách nhiệm của người quản lý, điều hành là những
bổn phận phải thực hiện và việc phải chịu trách nhiệm cho những hành vi thực
hiện trái với bổn phận, nghĩa vụ đó.
Trong đề tài khóa luận lần này, tác giả khóa luận xin đề cập chủ yếu đến nội
hàm từ trách nhiệm người quản lý, điều hành là bổn phận, nghĩa vụ mà người quản

8


lý, điều hành phải thực hiện, những điều người quản lý, điều hành được phép làm,
không được làm và nên làm.
1.2.2. Những trách nhiệm cơ bản mà người quản lý, điều hành phải thực hiện khi
quản lý, điều hành công ty cổ phần.
Như đã phân tích ở trên, người quản lý, điều hành có thể xem là người đại
diện cho chủ sở hữu. Nhưng khơng phải lúc nào lợi ích của người sở hữu và người

quản lý, điều hành cũng giống nhau. Vì vậy, việc quy định rõ về trách nhiệm của
người quản lý, điều hành là rất cần thiết. Pháp luật của hầu hết các nước trên thế
giới đều có quy định về hai trách nhiệm cơ bản mà người quản lý cơng ty phải
thức hiện đó là:
- Trách nhiệm cẩn trọng (duty of care)
- Trách nhiệm trung thành (duty of loyalty)
1.2.2.1. Trách nhiệm cẩn trọng (Duty of care).
Trách nhiệm cẩn trọng của người quản lý, điều hành hay bổn phận cẩn trọng
(duty of care), hiểu một cách đơn giản là người quản lý, điều hành đã hoàn toàn
nghiêm túc khi đưa ra quyết định. Cụ thể hơn là người quản lý, điều hành đó phải
hành xử với kỹ năng, sự thận trọng, sự chú ý của một người bình thường trong
tình huống đó. [24]
Theo Pháp luật của Anh Quốc, Điều 174 Luật Công ty của Anh (2006) yêu
cầu thành viên của hội đồng quản trị phải có sự cẩn trọng (care), kỹ năng (skills)
và sự thận trọng (diligence) ở mức độ hợp lý. [17] Sự cẩn trọng, kỹ năng và sự
thận trọng này sẽ được đánh giá qua hành vi của một người bình thường với những
kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm chung chung mà một thành viên Hội đồng quản
trị phải có (ojecttive test). Tuy nhiên, cịn tùy thuộc vào năng lực và trình độ của
từng thành viên Hội đồng Quản trị mà sự cẩn trọng, kỹ năng và sự thận trọng trên
9


được đánh giá cụ thể hơn (subjective test). [9] Ví dụ A là thành viên Hội đồng
Quản trị của công ty X, công ty X cần quyết định nhanh việc mua một con tàu. Giả
định A khơng biết gì về tàu biển thì bổn phận cẩn trọng sẽ dẫn A đến quyết định
mời một đơn vị giám định tàu biển để xác định giá trị con tàu mà Công ty X sẽ
mua. Tuy nhiên, nếu A đã có kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực tàu biển và
việc mời một đơn vị định giá có thể khiến cho cơ hội ký kết của Công ty X vuột
mất, trách nhiệm cẩn trọng của A được nâng lên một mức cao hơn. Tức là A có
thể bị coi là vi phạm bổ phận cẩn trọng khi mời công ty giám định tàu biển.

Pháp luật Hoa Kỳ thì quy định về bổn phận cẩn trọng từ việc quy định về vi
phạm bổn phận cẩn trọng. Về cơ bản thì có hai loại vi phạm là khơng làm gì
(nonfesanse) và làm sai (misfesanse). [9]
Khơng làm gì: trong trường hợp này, người quản lý khơng làm gì cả hoặc gần
như khơng làm gì cả, để mặc doanh nghiệp. Ví dụ khơng tham gia các cuộc họp
Hội đồng Quản trị, không đọc các tài liệu liên quan, không xử lý các báo cáo,…
Làm sai: trong trường hợp này, người quản lý 'có hành động” và việc hành
động đó gây hại cho cơng ty. Cổ đơng kiện họ vì đã khơng sử dụng các kỹ năng,
kiến thức và kinh nghiệm mà một người bình thường ở vị trí của họ phải sử
dụng. Để xem xét việc người quản lý, điều hành có hành động đúng với các kỹ
năng, kiến thức và kinh nghiệm của một người bình thường ở vị trí của họ phải sử
dụng khơng. Tịa án nước này áp dụng một quy tắc có tên là: “business judgment
rule” (quy tắc phán đoán trong kinh doanh). Quy tắc này phản ánh những nguyên
tắc cơ bản trong kinh doanh, xoay quanh vấn đề người quản lý, điều hành khi đưa
ra quyết định phải:
(i)

Quyết định đưa ra một cách thiện chí

(ii)

Quyết định đó vì lợi ích tốt nhất của cơng ty

(iii)

Khơng vì lợi ích của bản thân,
10


(iv)


Thông báo cho chủ thể của quyết định mà họ cho là hợp lý. [23]

Nếu người quản lý, điều hành công ty thực hiện đầy đủ các yếu tố trên thì dù
kết quả quyết định có dẫn đến kinh doanh thua lỗ thì người quản lý điều hành cũng
khơng phải chịu trách nhiệm. Điều này là hợp lý vì người quản lý không thể đảm
bảo tuyệt đối là các quyết định của họ luôn dẫn đến thành công. Thẩm phán sẽ
xem xét trách nhiệm của người quản lý trên khía cạnh tuân thủ các trình tự/thủ tục
hợp lý để ra quyết định chứ không xác định quyết định kinh doanh của họ trên
việc có gây thua lỗ cho cơng ty không.
Để hiểu rõ hơn về trách nhiệm cẩn trọng của người quản lý điều hành, chúng
ta cùng xem xét vụ kiện “Russell P.Miller v. American Telephone & Telegraph
Company (hereinaffer referred to as AT&T)” được tóm tắt và phân tích dưới đây:
“Các cổ đông của công ty Telephone & Telegraph Company nhân danh công
ty đã kiện các thành viên của hội đồng giám đốc vì đã khơng thu hồi nợ khoảng
1,5 triệu USD sau khi cung cấp dịch vụ cho Đảng Dân Chủ tại thời kì Đại hội
Đảng Dân Chủ. Nguyên đơn cho rằng: “không thành viên nào của ban giám đốc
có hành động nào đó để thu hồi số nợ kể từ ngày 20/08/1968 (ngày phát sinh nợ)
đến ngày (31/03/1972), do đó đã vi phạm nghĩa vụ của người quản lý điều hành là
khơng kiên trì mẫn cán trong q trình điều hành cơng ty. Bên bị kiện thì viện dẫn
quy tắc phán đoán trong kinh doanh rằng: hành vi chậm trễ của họ là có cơ sở và
vì lợi ích của công ty. Câu hỏi đặt ra ở đây là, liệu các thành viên của hội đồng
giám đốc có vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng. Và cuối cùng, toà án đã ra phán quyết,
việc không thu hồi khoản nợ 1,5 triệu USD đã vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, lý do
các cổ đơng khởi kiện là hồn tồn chính xác. Các thành viên giám đốc đã hành
động không thiện chí, khơng vì lợi ích của cơng ty”. [11]

11



1.2.2.2. Trách nhiệm trung thành (Duty of loyalty).
Trách nhiệm trung thành hay bổn phận trung thành, như tên gọi của nó, liên
quan đến các xung đột lợi ích, khi mà người quản lý đã đặt quyền lợi cá nhân của
mình lên trên quyền lợi của doanh nghiệp.
Trách nhiệm trung thành ngồi buộc người quản lý phải hành động vì lợi ích
cao nhất của cơng ty cịn được thể hiện bởi việc người quản lý điều phải giữ bí
mật của cơng ty, khơng được tiết lộ, sự dụng bất kì thơng tin nào họ được biết với
tư cách làm người quản lý điều hành để tư lợi, người quản lý điều hành phải báo
cáo mọi xung đột lợi ích có thể xảy ra. [20]
Pháp luật công ty Hoa kỳ pháp điển hóa bổn phận trung thành bằng cách đưa
ra khái niệm chung là người quản lý phải thực hiện nhiệm vụ của mình theo cái
cách mà người đó đánh giá một cách hợp lý là vì lợi ích cao nhất của cơng ty.
Và tựu trung lại thì bổn phận trung thành được thể hiện qua ba nhóm hành vi
sau:
(i)

Khơng tự trục lợi (self-dealing);

(ii)

Không tước đoạt cơ hội kinh doanh của công ty và

(iii)

Không tham gia vào các hoạt động cạnh tranh với công ty. [9]
Không tự trục lợi:
Một cách đơn giản đó là việc người quản lý đứng ở cả hai đầu của giao

dịch. Ví dụ: X là giám đốc của Công ty A ký một hợp đồng sử dụng dịch vụ của
công ty B mà X là một cổ đông lớn. Dĩ nhiên, tự thân việc tham gia một giao dịch

tự trục lợi khơng tự nó vi phạm bổn phận trung thành. Bổn phận này chỉ bị vi phạm
khi X tác động đến Công ty A để doanh nghiệp này ký một hợp đồng có thể gây
tổn hại cho chính họ.
Như vậy, xác định giao dịch tư lợi dựa trên ba yếu tố:
12


(i)

Thành viên và công ty là hai bên đối nghịch nhau

(ii)

Thành viên gây ảnh hướng để công ty ký kết giao dịch

(iii)

Thành viên có một lợi ích về tiền bạc mà có tiềm năng là trái ngược với
lợi ích tài chính của cơng ty. [5]

Tuy nhiên, trên thực tế người quản lý khi tham gia các giao dịch này vẫn có
thể đem đến nhiều quyền lợi hơn cho cơng ty. Vậy nên, theo Luật Mỹ, một giao
dịch giữa công ty và người quản lý, điều hành sẽ không bị vô hiệu nếu đáp ưng
điều kiện:
(i)

Được thông qua hoặc được phê chuẩn bởi thành viên hội đồng giám đốc,
sau khi đã được giải trình đầy đủ và biểu quyết khơng có sự tham gia của
thành viên liên quan đến lợi ích từ giao dịch đó


(ii)

Được thơng qua hoặc phê chuẩn bởi các cổ đơng (khơng có sự tham gia
số cổ đơng thuộc quyền sở hữu hay được biểu quyết dưới sự kiểm sốt
của người quản lý đó)

(iii)

Giao dịch là “cơng bằng”

Ở đây, chúng ta hiểu rang các điều kiện (i) và (ii) đã bao gồm yếu tố công
bằng, loại trừ yếu tố lừa dối, lạm quyền. Đây chính là điều kiện áp dụng cho các
giao dịch giữa hai công ty mà thành viên hội đồng giám độc của công ty này cũng
là thành viên hội đồng giám đốc công ty kia. [11]
Không tước đoạt cơ hội kinh doanh của Công ty:
Nghĩa vụ này được hiểu là việc người quản lý của cơng ty khơng lợi dụng
các thơng tin mà mình có trên vị trí của mình để trục lợi cho bản thân.
Để xem xét người quản lý có tước đoạt cơ hội kinh doanh của công ty, vi
phạm nghĩa vụ trung thành khơng, Pháp luật Mỹ có quy định quy tắc “Corporate
opportunity rule” (cơ hội kinh doanh). Theo học thuyết cơ hội kinh doanh này,
13


thì cơ hội kinh doanh đầu tiên được trao cho cơng ty, và nó chỉ được trao cho
người quản lý, điều hành khi công ty từ chối cơ hội kinh doanh đó. [21]
Dưới đây, chúng ta cùng xem xét vụ kiện “Broz v. Cellular Information
systems, Inc” để hiểu rõ về việc áp dụng thuyết cơ hội kinh doanh trong xem xét
trách nhiệm của người quản lý, điều hành:
Tóm tắt vụ kiện: công ty CSI (nguyên đơn) kiện Robert Broz (bị đơn) là
giám đốc công ty CSI, cũng đồng thời là chủ tịch và cổ đông duy nhất của công ty

RFBC, một đối thủ cạnh tranh của của CSI trong thị trường dịch vụ điện thoại di
động. Vào thời điểm bấy giờ, CSI đã trải qua những khó khăn về tài chính và bắt
đầu tháo bỏ những giấy phép của mình. Một bên cung cấp dịch vụ di động thứ 3
là Mackinac đang tìm cách bán giấy phép của mình và họ đã tìm đến Broz. Broz
đã nói chuyện khơng chính thức với các giám đốc khác trong CSI, tất cả họ nói
rằng CSI khơng quan tâm đến giấy phép và kể cả khi có quan tâm thì họ cũng
khơng có khả năng. Vào thời điểm đó thì có Pricellular, tiến hành thảo luận mua
CSI và thảo luận mua giấy phép của Mackinac. Sau đó thì Mackinac đã bán giấy
phép cho RFBC nơi Broz làm chủ tịch. Khi hoàn tất mua CSI, cơng ty này đã kiện
Broz vì khơng đưa cơ hội kinh doanh cho CSI. [16]
Tòa án kết luận: Broz không vi phạm thuyết cơ hội kinh doanh bởi lập luận,
một cơ hội kinh doanh tồn tại cho công ty khi:
(i)

Cơng ty có khả năng tài chính để khai thác cơ hội;

(ii)

Cơ hội nằm trong ngành kinh doanh của công ty;

(iii)

Cơng ty có lãi suất hoặc kỳ vọng trong cơ hội đó.

Và người quản lý, điều hành của cơng ty sẽ có được cơ hội kinh doanh khi:
(i) Cơ hội đã được trình bày cho hội đồng giám đốc và cơng ty khơng có năng
lực thực hiện
14



(ii) Cơ hội khơng đem lại lợi ích cho cơng ty
(iii) Giám đốc không sử dụng sai các nguồn lực để thực hiện cơ hội kinh doanh
đó. [21]
Ở đây, Broz đã có cuộc gặp gỡ khơng chính thức với hội đồng giám đốc của
CSI và họ cũng đã đồng ý là CSI khơng có khả năng mua giấy phép đó. Vậy nên,
Broz không vi phạm quy tắc cơ hội kinh doanh.
Không tham gia vào các hoạt động cạnh tranh với công ty:
Được hiểu là người quản lý không thực hiện các hoạt động cạnh tranh trực
tiếp với Công ty X. Việc cạnh tranh cũng có thể chấp nhận khi:
(i)

Hành động một cách ngay tình và việc cạnh tranh khơng làm tổn hại
Cơng ty hoặc

(ii)

Thơng báo về hoạt động đó cho những người không liên quan của Công
ty X và nhận được sự chấp thuận của những người này.

Tuy nhiên, nếu người quản lý, điều hành có hành động cạnh tranh trực tiếp
với cơng ty thì hoạt động cạnh tranh như vậy nó cũng phần nào khiến Cơng ty X
bị tổn hại. Ngồi ra việc những người quản lý khác khơng liên quan chấp thuận
cho một người quản lý với chính doanh nghiệp cũng đặt chính người quản lý đó
vào tình huống vi phạm trách nhiệm cẩn trọng của chính họ.
Vì vậy, pháp luật mỗi nước quy định khác nhau về những điều kiện người
quản lý, điều hành được phép cạnh tranh với công ty.
1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần
Như đã phân tích ở phần trên, trách nhiệm nói chung của người quản lý, điều
hành có thể hiểu theo hai cách, bao gồm: bổn phận, nghĩa vụ hoặc việc phải chịu
trách nhiệm cho những hành vi của mình.

15


Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu trách nhiệm pháp lý của người quản lý,
điều hành trong công ty, tức là tìm hiểu về việc người quản lý, điều hành phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những hành động sai trái trong hoạt động quản lý,
điều hành.
Theo giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, trách nhiệm pháp lý
là hậu quả bất lợi do nhà nước áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp
luật, theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật phải chịu những chế tài được quy
định tại phần chế tài của quy phạm pháp luật
Tùy theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi
phạm phải gánh chịu những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm
hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự, trách nhiệm kỷ
luật.
Như vậy, hiểu rộng ra, trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành
trong công ty cổ phần là hậu quả bất lợi do nhà nước áp dụng đối với người quản
lý, điều hành trong công ty nếu vi phạm pháp luật. Hơn nữa, người quản lý, điều
hành trong cơng ty cịn phải gánh hậu quả bất lợi khi vi phạm các thỏa thuận, quy
định trong điều lệ, văn bản nội bộ của công ty.
Như vậy, các dạng trách nhiệm pháp lý mà người quản lý điều hành có thể
phải gánh chịu bao gồm:
 Trách nhiệm hình sự
 Trách nhiệm hành chính
 Trách nhiệm dân sự
 Trách nhiệm kỷ luật

16



Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất
do Tòa án nhân danh nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội
được quy định trong bộ luật hình sự.
Đối với người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần, nếu họ thực hiện các
hành vi trái quy định của pháp luật mà hành vi đó cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan
quản lý nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật hành
chính.
Người quản lý, điều hành trong cơng ty cổ phần có những hành vi vi phạm
pháp luật, xâm phạm trật tự công cộng mà khơng đến mức cấu thành tội phạm thì
có thể bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án áp dụng
đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật dân sự.
Người quản lý, điều hành thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật,
của điều lệ công ty, dẫn đến gây thiệt hại cho các chủ thể khác: bản thân cơng ty,
cổ đơng,… thì phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật
Trách nhiệm pháp lý kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trường các
cơ quan, xí nghiệp, áp dụng đối với cán bộ, cơng nhân vien của cơ quan xí nghiệp
mình khi họ vi phạm nội quy, quy chế nội bộ cơ quan.
Người quản lý, điều hành khi vi phạm quy định pháp luật hoặc quy định nội
bộ như nội quy lao động, điều lệ của cơng ty thì theo quy định của cơng ty đó
người đó có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật như: hạ lương, thôi giữ chức vụ,…

17


Trong cơng ty cổ phần nói chung, hoạt động quản lý, điều hành của người
quản lý, điều hành mang tính chất tư nên trách nhiệm pháp lý người quản lý, điều
hành thường phải chịu là trách nhiệm dân sự và trách nhiệm kỷ luật.

1.3.

Vai trò của việc xác định người quản lý, điều hành và trách nhiệm của

người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần
Thực tế, người quản lý trong cơng ty cổ phần có thể là người có chức danh
hoặc là những người thực hiện cơng việc như người quản lý hoặc là những người
chỉ đạo người quản lý thực hiện. Vậy nên, nếu chỉ xác định người quản lý trong
công ty cổ phần theo các chức danh quản lý mà bỏ quả người quản lý thực tế (de
jure directors), người quản lý bóng tối (de factor directors) thì có thể gây hậu quả
đáng tiếc trong việc xác định không đầy đủ những người phải chịu trách nhiệm khi
vi phạm pháp luật, điều lệ công ty,…
Hơn nữa, việc xác định rõ người quản lý cũng là để đảm bảo cho quyền lợi
của cổ đông, của các chủ nợ, của khách hàng,… Bởi lẽ, khi xác định rõ người quản
lý, điều hành, những người này sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật, điều
lệ,… mà không thể trốn tránh là đó khơng phải trách nhiệm của mình. Mặt khác,
khi xác định đúng người quản lý thì các cơ chế giám sát trong công ty như: đại hội
đồng cổ đơng, ban kiểm sốt,… mới có thể theo dõi và buộc họ phải thực hiện
đúng trách nhiệm của mình.
Việc quy định rõ trách nhiệm của người quản lý trong công tỷ cổ phần giúp
ngăn chặn các xung đột lợi ích giữa người quản lý và chủ sở hữu. Ngay từ đầu,
khi đảm đương nhiệm vụ người quản lý, điều hành, họ đã biết rõ được những trách
nhiệm của mình là gì, từ đó họ có thể cẩn trọng khi thực hiện các hành vi. Thêm
nữa, quy định rõ trách nhiệm của người quản lý, điều hành cũng là đảm bảo quyền
là lợi ích hợp pháp khác của họ.

18


Kết luận Chương 1

Chương 1 đã làm rõ khái niệm thế nào là người quản lý, điều hành và những
vấn đề trách nhiệm của người quản lý, điều hành. Người quản lý, điều hành là
những người thường xuyên đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến công ty nên vấn
đề quy định cụ thể trách nhiệm này sẽ làm hạn chế sự lạm dụng quyền lực ảnh
hưởng đến lợi ích của công ty, của các cổ đông khác. Tuy nhiên, vấn đề quy định
về người quản lý, trách nhiệm của người quản lý có thể phụ thuộc vào thể chế
chính trị, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng nước, dẫn đến sự khác biệt
giữa các hệ thống pháp luật.

19


CHƯƠNG 2.
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
2.1. Người quản lý, điều hành công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014.
Khái niệm người quản lý được quy định tại Khoản 18, Điều 3, Luật Doanh
nghiệp 2014:
“Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý
doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ tịch doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp
danh, chủ tịch hội đồng thành viên, thành viên hội đồng thành viên, chủ tịch công
ty, chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc tổng
giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công
ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.”
Như vậy, theo luật Doanh nghiệp 2014 người quản lý trong công ty cổ phần
bao gồm: thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hồi đồng quản trị, giám đốc/ tổng
giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công
ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ cơng ty.
Có thể thấy, nhìn vào điều khoản quy định trên, ta có thể đưa ra ba nhận định
cơ bản:

Thứ nhất, luật Doanh nghiệp 2014 đã sử dung cụm từ “người quản lý” không
chỉ để chỉ những người quản lý mà còn chỉ người điều hành các công việc hàng
ngày của công ty: giám đốc/ tổng giám đốc.
Thứ hai, một số chức danh quản lý ln có trong các cơng ty cổ phần: thành
viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc/ tổng giám đốc; ngoài

20


những cá nhân quản lý trên, thì tùy quy mơ của công ty cổ phần, công ty sẽ quy
định các cá nhân quản lý khác trong điều lệ
Thứ ba, pháp luật hiện hành của nước ta vẫn xác định người quản lý của công
ty thông qua các chức danh quản lý mà khơng dựa vào có hay khơng hành vi quản
lý điều hành diễn ra trên thực tế.
Tóm lại, qua những nhận định trên có thể thấy, pháp luật hiện hành tuy đã
quan tâm đến vấn đề cần phải xác định rõ người quản lý trong công ty nhưng vẫn
chưa chú trọng đến việc xác định người quản lý là người trực tiếp thực hiện công
việc quản lý điều hành trên thực tế.
Thành viên hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cơng ty, có tồn quyền nhân danh công
ty để quyết định thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm
quyền của đại hội đồng cổ đồng. Thành viên hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ
đông bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Số lượng thành viên hội đồng quản trị từ 3 đến
11 thành viên, tùy vào quy mô công ty. Các thành viên trong hội đồng quản trị bầu
ra một người làm chủ tịch hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể
kiểm giám đốc/ tổng giám đốc công ty trừ trường hợp điều lệ và pháp luật quy
định khác. [1]
Giám đốc/Tổng giám đốc
Giám đốc/ Tổng giám đốc do hội đồng quản trị bầu từ một trong các thành
viên hội đồng quản trị hoặc thuê từ bên ngoài. Giám đốc/ Tổng giám đốc là người

điều hành công việc kinh doanh hang ngày của công ty. [1]
2.2. Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp 2014

21


×