Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã nông hạ huyện chợ mới tỉnh bắc cạn​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.35 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------------------------------

BÙI VIỆT DŨNG

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CHO
QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG TẠI XÃ
NÔNG HẠ HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2008


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng đóng một vai trị quan trọng đối với đời sống của con người đặc biệt
là đồng bào sống ở vùng nơng thơn miền núi có cuộc sống phụ thuộc nhiều vào
rừng. Trong những năm gần đây do sức ép về gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu sử
dụng các sản phẩm từ rừng của con người ngày càng cao nên diện tích và chất
lượng rừng khơng ngừng bị suy kiệt.
Việc quy họach, sử dụng rừng và đất rừng có hiệu quả là cơng việc được
quan tâm của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, khai thác hợp lý nguồn tài
nguyên rừng và đất rừng đang là mục tiêu chiến lược của một nền lâm nghiệp
bền vững.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của quy hoạch bảo vệ và phát triển


rừng, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách ưu tiên khuyến
khích nhằm phát triển cơng tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, tuy nhiên
vấn đề quy hoạch mới chỉ ưu tiên ở cấp quốc gia, tỉnh, huyện mà ít chú ý đến cấp
địa phương (xã) cho nên quy hoạch ở cấp xã còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng và
cần tiếp tục đưa ra nghiên cứu, thảo luận.
Trong những năm gần đây việc tiến hành quy họach bảo vệ và phát triển
rừng cấp xã có sự tham gia của người dân bước đầu được áp dụng trên địa bàn
nơng thơn, miền núi nước ta, tuy nhiên có thể thấy rằng quy họach bảo vệ và
phát triển rừng cấp xã hiện nay đang còn nhiều vấn đề như hạn chế về quan điểm
quy họach, phương pháp tiến hành lập quy họach, hệ thống chính sách phức tạp,
khơng thống nhất và khó áp dụng so với tình hình thực tế của từng địa phương,
sự phân định ranh giới, tiêu chuẩn phân chia các lọai rừng và đất rừng chưa cụ
thể gây khó khăn cho cơng tác quy họach.
Những cơ sở và thực tiễn cho việc quy họach bảo vệ và phát triển rừng
chưa được phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, công tác quy họach chủ yếu dựa
vào chỉ tiêu kinh tế là chính, ít quan tâm đến biện pháp kỹ thuật và các quy định
mang tính pháp lý từ đó dẫn đến việc khơng đồng nhất quan điểm giữa các địa


2

phương, trong công tác quy họach bảo vệ và phát triển rừng, việc quy họach bảo
vệ và phát triển rừng cấp xã thường chưa tính đến sự phát triển lâu dài của địa
phương, phương pháp quy họach thường xem nhẹ mối quan hệ tổng hòa giữa các
yếu tố liên quan vì vậy thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn khi đề ra định hướng,
chiến lược phát triển cũng như các giải pháp kinh tế, xã hội và kỹ thuật trong quá
trình quy họach bảo vệ và phát triển rừng từ đó cho thấy quy họach bảo vệ và
phát triển rừng cấp xã hiện nay còn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn.
Xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn là một xã có tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá. Xã có vị trí địa lý thuận lợi, nằm cạnh quốc lộ 3 nên có điều kiện để

giao lưu – phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên trong những năm qua do sự gia
tăng dân số cũng như các nhu cầu phát triển của xã hội đã gây ra một sức ép
khơng nhỏ tới tình hình quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng tại địa
phương, những nguyên nhân trên đã làm cho diện tích, chất lượng rừng ngày
càng bị suy giảm.
Trước thực trạng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và phương pháp lý luận
cho quy họach bảo vệ phát triển rừng tại địa phương chưa rõ ràng, những chủ
trương chính sách của Nhà nước và địa phương liên quan đến công tác quy
hoạch bảo vệ và phát triển rừng đối với Xã vẫn cịn một số hạn chế. Chúng tơi
tiến hành thực hiện Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy
họach bảo vệ và phát triển rừng tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc
Kạn”. Với mong muốn góp phần phát triển cơ sở khoa học và thực tiễn cho công
tác quy họach bảo vệ phát triển rừng cấp xã, từ đó đề xuất, kiến nghị một số vấn
đề liên quan đến công tác quy họach bảo vệ phát triển rừng tại địa phương.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên Thế giới
1.1.1. Tóm lược lịch sử quy hoạch lâm nơng nghiệp
Quy hoạch lâm nông nghiệp được xác nhận như là một chuyên ngành bắt
đầu bằng các quy hoạch vùng ngay từ thế kỷ 17. Theo Olschowy [78, tr.37-44]
vào thời gian này quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như
là một lĩnh vực phát triển ở mức cao trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất.
Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai vào năm 1929, tiếp
theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscovin.
Kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nơng nghiệp và
nghỉ ngơi giải trí. Hạn chế của quy hoạch này là tạo việc khai thác rừng quảng

canh, khơng kiểm sốt lửa rừng và chống xói mịn.
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ
trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946 Jacks G.V.
đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên ”Phân loại đất đai
cho quy hoạch sử dụng đất” [76]. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh
giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây,
nay là Cộng hồ Zimbabwe, Bộ Nơng nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn
quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Năm
1966 Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về
hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch
sử dụng đất. Ngồi ra cịn một số chuyên khảo khác cũng ra đời đề cập đến “Mơi
trường con người” trong đánh giá khả năng thích hợp của đất cho quy hoạch
nông nghiệp và lâm nghiệp.
Tại Đức, tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu ”Khái niệm về sử
dụng đất khác nhau”. Đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử dụng


4

đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái
cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh [82, tr.294298]. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp châu Âu đã phối hợp với tổ chức
FAO tổ chức nhiều hội nghị về Phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất.
Các hội nghị đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như nông
nghiệp, lâm nghiệp, chế biến loại nhỏ . . . phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai.
Năm 1969 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy
Sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn[73],[74].
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến phương pháp quy hoạch lâm nông
nghiệp cấp địa phương
Phương pháp quy hoạch lâm nơng nghiệp cấp địa phương có thể được khái
quát bằng 2 cách tiếp cận chủ yếu: tiếp cận từ trên xuống (Top-down Approach)

và tiếp cận từ dưới lên (Bottom-up Approach). Cách tiếp cận thứ nhất được hình
thành từ khi có quy hoạch ra đời cho đến nay và được áp dụng cho quy hoạch
ngành. Cách tiếp cận này ngày càng bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả vì
khơng có sự tham gia của cộng đồng khi các chương trình thực hiện ở cấp vi
mơ. Cách tiếp cận thứ 2 được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh
rằng “Sự không thể thiếu được” vai trị của cộng đồng nơng thơn trong lập kế
hoạch và quản lý tài nguyên của cộng đồng. Từ đây thuật ngữ “Quy hoạch dựa
vào cộng đồng” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện. Gilmour năm
1997 đã phân biệt 2 loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển (Classical Approach)
và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (People’s centered Approach) [75, tr.7391]. Những nghiên cứu của ông về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở
Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện kế
hoạch phát triển cộng đồng.
Từ cuối thập kỷ 70, các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống về
điều kiện vật lý sinh học như: điều tra thổ nhưỡng, đánh giá đất đai, vẽ bản đồ. . .
ít được nghiên cứu mà thay vào đó là các phương pháp điều tra đánh giá cùng


5

tham gia như Đánh giá nhanh nông thôn (RRA), Nông dân tham gia đánh giá
(PRA), Phương pháp quá trình sáng tạo. Đặc biệt là phương pháp Phân tích các
hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất vi mô được nghiên cứu rộng rãi.
Những thử nghiệm các phương pháp RRA vào thập kỷ 80 và PRA đầu thập kỷ
90 trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch sử dụng đất được thực hiện trên 30
nước phát triển cho thấy ưu thế của các phương pháp này trong lập kế hoạch lâm
nông nghiệp cấp thôn bản [68, tr. 1437-1454].
Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu á, Châu Phi
và Nam Mỹ xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một cơng cụ quy hoạch
và lập kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Luning
năm 1990, lần đầu tiên nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ

thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất [77]. Năm 1994 một nhóm chuyên gia
tư vấn của FAO đã cơng bố quy trình kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ
thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất. Phương pháp này có tên gọi là
LEFSA. Năm 1994, Anaman và một số tác giả khác đã nghiên cứu và áp dụng
LEFSA tại Thái Lan [67, tr.332-336]. Phương pháp này có hạn chế là địi hỏi hệ
thống thơng tin phân tích lớn, khó áp dụng cho quy hoạch địa phương. Theo
Erwin năm 1999, phân tích hệ thống canh tác là cơng cụ cho phân tích các trở
ngại trong hệ thống nông trại HGĐ để xác định mục tiêu quy hoạch, xác định các
kiểu sử dụng đất hiện tại và phương án sử dụng đất mới, đánh giá các phương án
sử dụng đất khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án tốt nhất[71].
1.1.3. Các nghiên cứu xây dựng qui trình quy hoạch sử dụng đất
Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất
được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một qui trình quy hoạch sử dụng
đất. Theo Purnell năm 1988, mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất đựợc các
chuyên gia xác định là “Thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt
nhất các loại đất đai nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng sản xuất
quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ mơi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải


6

trí”. 4 câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai là [79, tr.9-12]: Các vấn đề nào
đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án sử dụng đất nào?
Phương án nào là tốt nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?.
Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh
luật pháp. Ơng đề nghị ”Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển
nhằm mục đích: cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất
đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp, yêu cầu sử dụng theo qui trình kế
hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích xây
dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế” [80].

Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về qui trình quy hoạch.
Ơng khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của
các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng
đồng (xã, thơn) [70, tr. 67-76]. Ơng cịn đề xuất quá trình quy hoạch gồm 4 giai
đoạn và 10 bước.
Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm
1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính [72].
Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét
như là các bước chính trong q trình quy hoạch. Năm 1980, Buchwald đề xuất
q trình quy hoạch 8 bước, trong đó những nghiên cứu đánh giá về sinh thái và
kinh tế xã hội được đề cập tách biệt ở các bước khác nhau [81]. Điểm hạn chế
này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy hoạch. Maydell năm 1984 cho
rằng 4 điểm chính trong q trình quy hoạch nơng lâm nghiệp tại các nước nhiệt
đới là [83]: phân tích xu hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát triển; xác
định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích phương pháp và tiến hành đánh giá.
Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra đây một số qui trình quy
hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng. Theo Zimmermann năm 1989 tổ
chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại nhiều nước,
trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam. Qui trình này dựa


7

trên q trình phân tích tình hình, chuẩn đốn hiện trạng và phân tích mục tiêu.
Các kỹ thuật của phương pháp phân tích tối ưu hố mục tiêu (ZOPP) được sử
dụng [85 tr.12-15]. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước quy hoạch sử dụng đất
đa mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và chọn phương pháp lập kế
hoạch như sau: Chuẩn đốn trong thu thập thơng tin và dự đoán cơ hội, tư vấn
trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện trong điều phối và giám
sát[84].

1.1.4. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới
Tổng kết các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến quy hoạch lâm nông
nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương Đề tài rút ra một số kết luận phục vụ cho
nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã ở Việt Nam như sau:
Mặc dù đã có những nghiên cứu đề xuất và thử nghiệm về quy hoạch sử
dụng đất nhưng chưa có một lý thuyết hồn chỉnh về quy hoạch lâm nơng nghiệp
cấp địa phương, đặc biệt là phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
cho cấp xã hoặc cấp hành chính thấp nhất tại các nước phát triển. Tuy vậy,
những nghiên cứu và qui trình quy hoạch trên thế giới có thể được nghiên cứu và
áp dụng trong điều kiện ở Việt Nam theo các hướng sau:
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã phải lấy quy hoạch sử dụng
đất làm nền tảng, kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của cấp trên với nhu cầu của cộng
đồng thông qua sự tham gia trực tiếp của người dân.
- Phân tích được mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cấp quy hoạch lâm
nông nghiệp, đặc biệt là cấp địa phương: xã, thôn bản và HGĐ để xác định rõ nội
dung và phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng có tính đặc thù riêng
của mỗi cấp.
- Các phương pháp đánh giá đất đai của FAO, qui trình lập kế hoạch sử
dụng đất cần được áp dụng trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã,
nhưng đòi hỏi phải điều chỉnh phù hợp với hồn cảnh của cộng đồng nơng thơn
Việt Nam.


8

- Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác được coi là công
cụ quy hoạch cấp xã cần được vận dụng vào đặc điểm kinh tế văn hố xã hội và
thể chế chính sách của Việt Nam.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Một số chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước về quy hoạch

phát triển lâm nông nghiệp cấp xã
Đảng và Nhà nước có quan điểm rõ ràng về quy hoạch phát triển lâm nông
nghiệp. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu
“Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm
bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức,
HGĐ và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài” (Điều 13) [18]. Luật đất đai năm 2003
quy định rõ có 3 loại đất chính đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử
dụng với 6 quyền sử dụng tuỳ theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được
giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật đất đai nêu rõ trong mục 2
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại điều 23 là lập quy hoạch và kế hoạch sử
dụng đất đai là một trong những nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai [22].
Luật Đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho quy hoạch nông lâm nghiệp. Luật
bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho quy
hoạch lâm nghiệp [23]. Theo biên bản hội thảo quốc gia về “Quy hoạch sử dụng
đất và giao đất lâm nghiệp” năm 1997 nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu tính
thống nhất giữa 2 luật: Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng trong quy
hoạch và giao đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp, xác định rõ vai trò của địa
phương, đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và giao đất giao rừng. Trong Nghị
định 64/CP, điều 15 có nêu một số quyền hạn của cấp xã trong sử dụng đất cơng
ích [38], trong khi văn bản quan trọng nhất về giao đất lâm nghiệp là Nghị định
02/CP lại ít đề cập đến vai trị của cấp xã [39]. Nghị định của Chính phủ số
163/1999/NĐ-CP ra ngày 1 tháng 11 năm 1999 về giao đất, cho thuê đất lâm
nghiệp cho tổ chức, HGĐ và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm


9

nghiệp có một số điều nói tới nhiệm vụ và quyền hạn cấp xã trong quy hoạch và
giao đất lâm nghiệp [42]. Nghị định 01/CP xác định vai trò cấp xã như là cơ
quan Nhà nước chứng nhận các hộ nơng dân để được nhận khốn đất (điều 3

mục 3) [40].
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến quy hoạch nông lâm nghiệp
cấp địa phương, coi quy hoạch sử dụng đất là nền tảng cho các quy hoạch khác
và là cơ sở cho giao đất, lập kế hoạch sử dụng đất, xây dựng các dự án phát triển.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có các quy định cụ thể về quy hoạch lâm nông
nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là cấp xã. Những điểm liên quan đến quy hoạch
lâm nông nghiệp cấp xã chưa được thống nhất. Trên thực tế cấp xã mới có định
hướng và mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Ngay cả khi
xây dựng định hướng phát triển kinh tế - xã hội và sản xuất cũng gặp một số khó
khăn khi vận dụng những chính sách có liên quan. Một số vấn đề liên quan đến
Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cần thống nhất, nhất là việc phân
định các loại đất trong luật đất đai và phân loại rừng trong luật bảo vệ và phát
triển rừng. Các văn bản dưới luật cần cụ thể hoá cho từng điều kiện địa phương
đảm bảo tính đa mục đích sử dụng của đất đai, tạo điều kiện cho quy hoạch lâm
nông nghiệp tránh chồng chéo và mâu thuẫn.
1.2.2. Các quan điểm về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã
Năm 1990 Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn quy
hoạch sử dụng đất vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ[53]. Nhiều tỉnh thực hiện
quy hoạch vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên, khi triển khai gặp những khó
khăn về phương pháp chưa thống nhất. Dù sao quy hoạch vi mô cũng là tiền đề
để thay đổi cách nhìn về quy hoạch cấp xã trong những năm tiếp theo. Khi khảo
sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam Reichenberg năm 1992 cho
rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam nên được nghiên cứu để phát triển khái niệm
quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh sau [36]:


10

- Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là quy hoạch lâm nông nghiệp dựa trên
quy hoạch sử dụng đất trên tồn bộ diện tích hành chính trong xã.

- Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, nghĩa
là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan quản lý
Nhà nước quản lý.
- Quy hoạch sử dụng đất phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để sử
dụng đất tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch phát triển sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng.
- Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định.
Trong đầu những năm 90, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời năm
1991[3] Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 [21] và đặc biệt là các Nghị định 02 năm
1994, Nghị định 01 năm 1995, Nghị định 64 năm 1993 là cơ sở tiền đề cho quy
hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Cùng lúc ra đời của Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng, nhiều người cho rằng quy hoạch vĩ mô là quy hoạch phản ánh
hiện trạng và phân chia 6 loại đất sử dụng và 3 loại rừng. Hai định nghĩa mới
được xác nhận cho quy hoạch quốc gia và cấp tỉnh. Các nhà khoa học trong nước
và nước ngoài đều cho rằng quan điểm quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa
phương nên theo các hướng sau:
Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp quy hoạch lâm nông
nghiệp dựa vào chức năng sử dụng của đất với đánh giá tiềm năng của đất.
- Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích
sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy
hoạch của cộng đồng.
- Gắn 2 quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là 2 bộ phận có quan
hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp ở mỗi địa
phương, mỗi cộng đồng.


11

- Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong q trình
quy hoạch phát triển lâm nơng nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể trong

quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã.
Sự tham gia của người dân trong quá trình quy hoạch là một khái niệm mới.
Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 cho rằng "Điểm quan trọng là thu hút người
dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình quy hoạch sử dụng đất và
giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu. Sự tham gia này tất nhiên sẽ khác nhau
về phạm vi và mức độ tuỳ theo nội dung hoạt động và giai đoạn tiến hành" [25].
1.2.3. Một số nghiên cứu và thử nghiệm liên quan đến phương pháp quy
hoạch lâm nơng nghiệp cấp xã
Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm
nghiệp cấp xã được thực hiện tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà
Cò huyện Mai Châu tỉnh Hồ Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm
nghiệp từ năm 1993. Theo Nguyễn Văn Tuấn và Vũ Văn Mễ năm 1996, quy
hoạch sử dụng đất được coi là một nội dung chính và được thực hiện trước khi
giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để
lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng
bản, chính quyền xã [54]. Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy cần phải
có một kế hoạch sử dụng đất chi tiết hơn hiện nay thì mới đáp ứng được yêu cầu,
tránh được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Đề nghị ở đây
là điều chỉnh và thời sự hoá kế hoạch là hết sức cần thiết.
Chương trình phát triển nơng thơn miền núi giai đoạn 1996-2000 trên phạm
vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến hành thử
nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế
hoạch phát triển cấp thôn và HGĐ. Theo Bùi Đình Tối và Nguyễn Văn Nam
năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mơ hình sử dụng PRA để tiến hành quy
hoạch sử dụng đất, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử
dụng đất 3 cấp: xã, thôn và HGĐ. Đến năm 1998 trên tồn vùng dự án có 78


12


thôn bản được quy hoạch sử dụng đất theo phương pháp cùng tham gia. Phương
pháp quy hoạch sử dụng đất dựa trên PRA căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng
của người sử dụng đất, với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả
thi cao hơn [52]. Tuy nhiên, phương pháp trên cũng bộc lộ một số mâu thuẫn
giữa nhu cầu của cộng đồng và định hướng của Nhà nước và các kế hoạch của
tỉnh, huyện. Vấn đề này cũng xuất hiện và được phê phán trong trường hợp ở
Yên Châu tỉnh Sơn La. Vấn đề nghiên cứu ở đây là có một phương pháp quy
hoạch địa phương sao cho kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu
của cộng đồng . Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 đã thử nghiệm phương
pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người
dân tại Quảng Ninh và đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch
cấp xã đóng góp vào phát triển phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là:
Kết hợp hài hồ giữa ưu tiên của chính phủ và các nhu cầu nguyện vọng của
nhân dân địa phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các
nguồn lực hiện có của địa phương; Đảm bảo tính cơng bằng, chú ý đến cộng
đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo phát
triển bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp và hướng tới mục
tiêu phát triển cộng đồng.
Từ kết quả thử nghiệm ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sông
Bé, Vũ Văn Mễ cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất
hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu
nguyện vọng của người dân. . . ., xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử
dụng tài nguyên. Cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp với xu thế
chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp.
Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi, năm 1996 Cục kiểm lâm
cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên
địa bàn xã” [14, tr.58-79]. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung của
tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung



13

và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn
này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra
rừng trước đây.
Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm
phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2
huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai Châu) trên cơ sở hướng dẫn của
Cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy
hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội đối với
cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt. Sự khác biệt với các
chương trình khác là lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch phù hợp với đặc thù
vùng cao. Lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch và lập kế hoạch là phù hợp
với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan năm 1997 [17] ở miền
Bắc Việt Nam.
1.2.4. Một số kết luận rút ra từ kinh nghiệm quy hoạch lâm nông nghiệp cấp
xã tại Việt Nam
- Việc tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn
lực một cách chi tiết và đầy đủ.
- Quy hoạch sử dụng đất là cơ sở quan trọng cho quy hoạch lâm nông
nghiệp cấp xã.
- Tiến hành phân tích hệ thống canh tác làm cơ sở cho việc lựa chọn cây
trồng và phương thức sử dụng đất.
- Quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp
thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân như PRA.
- Tổng hợp và cân đối kế hoạch cho phạm vi cấp xã trên cơ sở: định hướng
phát triển chiến lược của huyện, tỉnh; khả năng hỗ trợ từ bên ngoài; đối thoại và
thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau, giữa đại diện các
cộng đồng với cán bộ tỉnh, huyện và dự án; có sự nhất trí chung của tồn xã
thơng qua các cuộc họp cộng đồng cấp thơn hoặc xóm.



14

Từ những kinh nghiệm của quy hoạch lâm nông nghiệp trên thế giới cũng như
ở Việt Nam, Đề tài có thể vận dụng một số kết quả vào trong nghiên cứu của luận
văn như: Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân vào quá trình quy
hoạch; Phân tích hệ thống canh tác để lựa chọn cây trồng; Phương pháp đánh giá
các phương thức sử dụng đất và qui trình lập kế hoạch sử dụng đất cũng sẽ được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu của Đề tài.


15

CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI DUNG, CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Quan điểm nghiên cứu
2.1.1 Quan điểm duy vật biện chứng
Quan điểm này được thể hiện trong nghiên cứu là đề cao tính thống nhất
của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội toàn quốc của Đảng và Nhà
nước, tính thống nhất của hệ thống kế hoạch từ trung ương tới địa phương, tính
đặc thù của mỗi loại kế hoạch ở mỗi cấp và mối quan hệ biện chứng của chúng,
đồng thời thừa kế kết quả và kinh nghiệm của từng thời kỳ phù hợp với xu thế
chung để vận dụng vào thực tế của nước ta.
2.1.2. Quan điểm sinh thái-kinh tế-nhân văn
Khi nghiên cứu, căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và văn hoá
của từng vùng để đánh giá và quy hoạch phát triển phù hợp với thực tiễn, mang
lại tính khả thi cao, từ đó lựa chọn phương pháp và điểm nghiên cứu phù hợp là
cơ sở cho quy hoạch. Các nhân tố: vật lý sinh học, kinh tế xã hội, văn hố và

chính sách được phân tích theo quan điểm hệ thống trong môi trường chung của
quốc gia và điều kiện cụ thể của từng tiểu vùng, từng cộng đồng trong vùng
Trung tâm.
2.1.3. Quan điểm quy hoạch phát triển tổng hợp và bền vững
Quan điểm này thể hiện tính liên ngành trong quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng cấp xã. Trong nghiên cứu phải đề cập tổng hợp và toàn diện. Quy
hoạch phải đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững, nghĩa là phải bảo vệ được tài
nguyên thiên nhiên, duy trì cân bằng sinh thái và phát triển kinh tế xã hội.
2.1.4. Quan điểm kết hợp giữa định hướng vĩ mô của Nhà nước với nhu cầu
của người dân trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng.


16

Quan điểm này thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ với
nhu cầu, nguyện vọng của cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng được phát huy
một cách đầy đủ để giải quyết các vấn đề của cộng đồng khi mục tiêu của cộng
đồng phù hợp với định hướng và ưu tiên của Chính phủ, mặt khác các định
hướng và ưu tiên chỉ trở thành hiện thực khi có sự tham gia của cộng đồng. Do
đó, khi nghiên cứu, vừa xem xét nhu cầu và khả năng của cộng đồng trên cơ sở
phân tích các điều kiện kinh tế xã hội và văn hoá, đồng thời phải nghiên cứu các
chính sách của Chính phủ, những khoảng trống, những điểm không phù hợp để
làm cơ sở cho các đề xuất.
2.2. Mục tiêu
Đề tài mong muốn đạt được các mục tiêu sau đây:
- Xác định được cơ sở về chính sách, cơ sở khoa học và thực tiễn cho
QHBVPTR xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn
- Đề xuất, kiến nghị liên quan đến công tác QHBVPTR tại địa phương.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau:

- Nội dung có tính chất bao trùm và thể hiện trong toàn bộ các phần của Đề
tài nghiên cứu là phân tích các cơ chế chính sách hiện hành (Nhà nước, trung
ương, địa phương). Như là cơ sở quan trọng cho QHBVPTR của địa phương
- Phân tích được các cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho QHBVPTR tại
xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn
- Những kiến nghị và đề xuất liên quan đến công tác QHBVPTR tại địa
phương.
2.4. Cơ sở lý luận cho nghiên cứu
2.4.1. Vận dụng lý thuyết hệ thống và quan điểm sinh thái-nhân văn
Nội dung của lý thuyết hệ thống và quan điểm sinh thái – nhân văn (Được
mơ tả trong hình 1) là vận dụng lý thuyết hệ thống và quan điểm sinh thái-nhân
văn vào phân tích và giải thích các nội dung nghiên cứu


17

HỆ SINH THÁI NÔNG LÂM
Tài nguyên thiên nhiên

HỆ XÃ HỘI

Hệ tư
tưởng

ĐẦU VÀO

Cơng
nghệ

Vật chất

Năng lượng
Thơng tin
Chọn lọc

CHỨC NĂNG


cấu xã
hội

Con
người

Thích ứng
Vật chất
Thơng tin

Đất

Nước

CHỨC
NĂNG
Cây gỗ
Cây CN,
Cây NN
Vật ni

Tai
hoạ


SẢN
PHẨM

Hình 1: Mơ hình quan hệ sinh thái - nhân văn
(Mô phỏng theo Lê Trọng Cúc và A. Tery Rambo, 1990)
Hệ sinh thái và hệ nhân văn bằng mối quan hệ tương tác giữa các thành
phần hay yếu tố trong mỗi hệ thống phụ và giữa hai hệ thống phụ. Sự tồn tại này
ln có q trình đấu tranh, trao đổi vật chất năng lượng, thơng tin và khả năng
thích nghi. Các hoạt động quy hoạch hay lập kế hoạch được coi là sự can thiệp
của con người vào hai hệ thống phụ và luôn bị chi phối bởi các yếu tố tác động
như: yếu tố vật lý sinh học, kinh tế xã hội, văn hoá và cơ chế chính sách. Cơ sở
này được vận dụng trong nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã.
2.4.2. Tiếp cận có sự tham gia
Don Gilmour năm 1990 đã phân ra 3 hình thức tiếp cận trong phát triển lâm
nghiệp cộng đồng, đó là tiếp cận kinh điển, tiếp cận kinh điển có điều chỉnh và
tiếp cận có người dân tham gia [75].
Ở cách tiếp cận thứ nhất, các nhà lâm nghiệp quản lý toàn bộ quá trình phát
triển từ giai đoạn xác định vấn đề, quyết định chiến lược và tổ chức thực hiện.


18

Người dân và cộng đồng của họ chỉ là những người ngồi cuộc, họ hầu như
khơng tham gia hoặc tham gia vào việc tổ chức thực hiện với tư cách là những
người làm thuê theo các công đoạn đã được xác định sẵn.
Cách tiếp cận thứ hai nhấn mạnh về kỹ thuật và công nghệ với sự phản hồi
kinh tế xã hội. ở hình thức này các nhà lâm nghiệp về cơ bản vẫn quản lý tồn bộ
q trình phát triển, tuy nhiên trong khi xác định chiến lược hay kế hoạch phát
triển và tổ chức thực hiện, đã có sự tham khảo ý kiến và huy động người dân

cùng tham gia. Tuy nhiên quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các nhà lâm
nghiệp.
Cách tiếp cận thứ 3 cho thấy vai trò và tầm quan trọng của người dân trong
việc cùng tham gia vào tất cả các giai đoạn phát triển từ nhận biết vấn đề, xác
định chiến lược và tổ chức thực hiện. Về cơ bản, quyền quyết định thuộc về
người dân.
Phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng trong nghiên cứu ở đây
là tiếp cận tổng hợp có sự tham gia của cộng đồng trong quy hoạch cấp địa
phương. Các phương pháp đánh giá nhanh nơng thơn (RRA), đánh giá nơng thơn
có sự tham gia của người dân (PRA) hay phân tích các hệ thống canh tác (FSA)
sẽ được sử dụng trong nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã.
2. 5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Chọn điểm nghiên cứu
Trước khi điều tra ngoại nghiệp, các tài liệu liên quan đến đặc điểm kinh tế,
sinh thái, nhân văn của vùng nghiên cứu được thu thập và phân tích nhằm tìm
hiểu chung về khu vực nghiên cứu. Căn cứ các tài liệu, báo cáo về kết quả rà
soát 3 loại rừng của Tỉnh. Chúng tơi xây dựng tiêu chí lựa chọn điểm nghiên cứu
như sau:
- Xã có diện tích rừng và đất rừng chiếm trên 70% diện tích đất xã
- Có kết quả báo cáo rà sốt 3 loại rừng
- Xã đã có bản quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010


19

- Chọn xã nghiên cứu: Với mục tiêu nghiên cứu những cơ sở khoa học và
thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Xã nghiên cứu phải có
đầy đủ các hoạt động sản xuất lâm nơng nghiệp để phục vụ cho việc nghiên cứu.
Vì vậy Đề tài chọn xã Nông Hạ là một Xã đáp ứng được các tiêu chí trên.
- Chọn thơn nghiên cứu: chọn thơn có cơ cấu đất đai đặc trưng cho toàn Xã

gồm: rừng tự nhiên, rừng trồng, đất trống, đồi núi trọc đồng thời thôn phải tham
gia trong vùng dự án quy hoạch. Có mật độ dân cư, trình độ dân trí, phát triển
kinh tế ở mức trung bình so với các thôn khác trong Xã. Qua phỏng vấn lãnh đạo
Xã kết hợp với phân tích những thơng tin về điều kiện dân sinh, kinh tế, Đề tài
chọn thôn Khe Thuổng là thơn đáp ứng các tiêu chí trên làm đối tượng để nghiên
cứu.
- Chọn HGĐ: chọn 30 HGĐ phỏng vấn, là những hộ trực tiếp tham gia vào
các hoạt động lâm nông nghiệp. Phương pháp lựa chọn theo các nhóm hộ, trong
đó 1/3 số hộ khá, 1/3 số hộ trung bình và 1/3 số hộ nghèo để tiến hành phỏng
vấn. Danh sách các nhóm hộ do trưởng thơn cung cấp.
2.5.2. Thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn tại địa phương.
Các tài liệu có sẵn liên quan đến địa bàn nghiên cứu được thu thập trực tiếp
từ xã, huyện và các cơ quan liên quan như chi cục lâm nghiệp, chi cục kiểm lâm,
hạt kiểm lâm và các cơ quan hữu quan khác.
Các tài liệu đã có ở địa phương được thu thập gồm:
- Thu thập các văn bản Nhà nước của trung ương và địa phương có liên quan
đến QHSD đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã.
- Các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa phương gồm: đặc
điểm địa hình, đất đai, khí hậu thủy văn, dân cư, lao động, tình hình sản xuất lâm
nơng nghiệp của xã, tình hình thực hiện các chính sách của Nhà nước và của địa
phương. Các số liệu được chọn lọc và tổng hợp trong báo cáo tình hình kinh tế xã hội, báo cáo về tình hình sản xuất lâm nghiệp hàng năm của UBND xã Nông
Hạ.


20

2.5.3. Điều tra ngoại nghiệp
2.5.3.1. Phương pháp điều tra nhanh
Phương pháp điều tra nhanh trong 2 đợt bằng các công cụ: phỏng vấn và
tiếp xúc lãnh đạo các ban ngành liên quan tại tỉnh và huyện, gặp lãnh đạo xã,

thôn và nông dân để thu thập những thông tin cơ bản, xác định các vấn đề để xây
dựng đề cương nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu.
2.5.3.2. Phương pháp điều tra chuyên đề
Điều tra chuyên đề được thực hiện trực tiếp tại xã và thôn theo mẫu biểu
của các lĩnh vực chính: trồng trọt, lâm nghiệp do cán bộ xã trực tiếp điều tra. Hệ
thống mẫu biểu và phương pháp điều tra được thiết kế để điều tra bổ sung các
thơng tin khơng có trong tài liệu PRA như:
Lĩnh vực trồng trọt điều tra theo các chỉ tiêu: các thông tin chung về cây
trồng; năng suất cây trồng của xã; mức độ thâm canh cây trồng ở thôn; tổn thất
cây trồng của xã; đầu tư của xã; thông tin về khuyến nơng khuyến lâm thơn bản;
tình hình giao đất nông nghiệp.
Điều tra lĩnh vực lâm nghiệp theo các chỉ tiêu: tình hình sử dụng đất lâm
nghiệp; tình hình giao đất lâm nghiệp; tình hình quản lý rừng; tình hình đầu tư và
phát triển rừng; tình hình lợi dụng rừng; tình hình bảo vệ rừng.
2.5.3.3. Sử dụng cơng cụ đánh giá nơng thơn có sự tham gia của người dân
(PRA)
Công cụ PRA được lựa chọn để điều tra bổ sung cho các nghiên cứu chuyên
đề. Các công cụ Đề tài sử dụng để điều tra và lập kế hoạch lâm nghiệp gồm:
- Thảo luận nhóm nơng dân bên sơ đồ về các vấn đề hiện trạng sử dụng đất
và ranh giới các loại hình sử dụng đất, nhu cầu về sản xuất và sử dụng đất,
những khó khăn và thách thức.
- Điều tra tuyến (đi lát cắt) xác minh lại trên bản đồ, đánh giá bổ sung về tài
nguyên và khoanh vùng hệ thống canh tác. Tại mỗi điểm khảo sát tiến hành thảo
luận với cán bộ kỹ thuật của địa phương và nông dân để xác định và khoanh


21

vùng các kiểu sử dụng đất, phân tích các đặc điểm được thực hiện trên phạm vi
xã và đề xuất giải pháp.

- Sử dụng các cơng cụ phân tích lịch mùa vụ cho các cây trồng hàng năm,
sử dụng lao động ở phạm vi xã và được thẩm định cho các thơn.
- Sử dụng cơng cụ phân tích xu hướng cho các lồi cây trồng chính trong
thơn.
- Họp dân trình bày kết quả và thống nhất kế hoạch của thôn
2.5.3.4. Phương pháp đánh giá đất đai
Tài nguyên đất của xã được thu thập và đánh giá dựa trên bản đồ tài nguyên
đất tỷ lệ 1:10.000, kết hợp với điều tra khảo sát bổ sung trên thực địa.
2.5.3.5. Phương pháp phân 3 loại rừng và phân cấp phòng hộ
Phân chia 3 loại rừng và phân cấp phòng hộ được thực hiện theo 2 quyết
định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cụ thể:
Quyết định số 61/2005/QĐ-BNN của Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn ra ngày 12 tháng 10 năm 2005 về việc ban hành bản quy định về tiêu chí
phân cấp rừng phịng hộ, văn bản này quy định về tiêu chí phân cấp rừng phịng
hộ, áp dụng trên phạm vi cả nước, cho tất cả đất lâm nghiệp gồm: đất của rừng
(rừng tự nhiên và rừng trồng); đất chưa của rừng, đất không của rừng và thảm
thực vật được quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp[3]
Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN của Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn ngày 12/10/2005 về việc ban hành Bản quy định về tiêu chí phân loại rừng
đặc dụng. Văn bản này quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng (khơng bao
gồm các Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học), áp ụng trên phạm vi cả
nước, cho tất cả đất lâm nghiệp gồm: Đất có rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng);
đất chưa có rừng, đất khơng cịn rừng và thảm thực vật được quy hoạch cho mục
đích lâm nghiệp[4].
2.5.3.6. Phương pháp điều tra xã hội học
Trong một xã chọn 1 thôn đại diện đặc trưng cho xã để điều tra như: dân cư
và phân bố dân cư, dân tộc, vị trí thơn, điều kiện về tự nhiên, có đầy đủ hoặc gần


22


đủ các kiểu sử dụng đất. Tiến hành phỏng vấn 30 HGĐ để bổ sung vào kết quả
PRA thực hiện trước đây. Phỏng vấn HGĐ tập trung vào các thông tin kinh tế,
xã hội và chính sách. Một số cuộc thảo luận nhóm nơng dân được tổ chức để
đánh giá các yếu tố về chính sách, tổ chức và văn hoá được thực hiện. Kỹ thuật
phỏng vấn bán định hướng được sử dụng trong phỏng vấn HGĐ và thảo luận
nhóm.
2.5.4. Nội nghiệp
2.5.4.1. Tổng hợp, phân tích thơng tin cơ bản về tự nhiên và kinh tế - xã hội
Các thông tin về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội được tổng hợp và phân
tích theo nhóm sau:
Các thơng tin liên quan đến các điều kiện tự nhiên như: vị trí địa lý, địa
hình, khí hậu thuỷ văn, thổ nhưỡng, thực vật tự nhiên được thu thập từ các bản
tài liệu gốc của địa phương. Các thông tin về điều kiện kinh tế xã hội như: dân
cư (dân số, dân tộc, cơ cấu xã hội: xã, thơn, xóm, nhóm hộ, HGĐ); nghề nghiệp
và việc làm; các dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng (y tế, giáo dục, cấp nước, giao
thông và thông tin liên lạc, thị trường và các dịch vụ xã hội khác) được tổng hợp
theo mục đích của Đề tài theo hệ thống mẫu biểu quy định.
2.5.4.2. Tổng hợp và phân tích thơng tin điều tra chuyên đề
Thông tin thu thập được để phục vụ cho quy hoạch, bảo vệ và phát triển
rừng được tổng hợp theo phương pháp tối ưu hoá mục tiêu và phân tích đa tiêu
chuẩn áp dụng cho xây dựng kế hoạch. Những bài tốn phân tích kinh tế được
sử dụng cho việc lựa chọn các phương án.
Thông tin được tổng hợp cho phân tích hệ thống canh tác theo hệ thống
bảng, bản đồ phân chia 3 loại rừng và phân cấp phòng hộ, bản đồ quy hoạch tỷ lệ
1:10.000 được xây dựng kết hợp hiện trường và nội nghiệp. Sau khi chuyển họa
lên bản đồ tại hiện trường, các bản đồ được chỉnh lý và can vẽ chính thức tại
Viện Điều tra quy hoạch rừng.
2.5.4.3. Phân tích chi phí và lợi ích (CBA)



23

Phương pháp CBA được vận dụng phân tích hiệu quả kinh tế các mơ hình
sản xuất, trên cơ sở đó để lựa chọn các mơ hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế
nhất để làm cơ sở tiến hành quy hoạch phát triển sản xuất. Các số liệu được tập
hợp và tính bằng các hàm kinh tế trong chương trình EXCEL. Các chỉ tiêu kinh
tế sau đây được vận dụng trong phân tích CBA.
+ Giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV)
NPV là hiệu số giữa giá trị thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt động sản
suất sau khi đã tính chiết khấu để quy về thời điểm hiện tại. Cơng thức tính như

NPV

(2.1):



n



t0

Bt  Ct
(1  i ) t

( 2 .1)

Trong đó:

NPV

: Giá trị hiện tại của thu nhập ròng (đồng)

Bt

: Giá trị thu nhập ở năm t (đồng)

Ct

: Giá trị chi phí ở năm t (đồng)

i

: Tỷ lệ chiết khấu hay lãi xuất (%)

t

: Thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm)
n

- :

Tổng giá trị hiện tại của thu nhập ròng từ năm thứ 0 đến năm

t=0

thứ n

NPV dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất. Hoạt động

sản xuất nào có NPV càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao.
+ Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (BCR)
n

BCR 

Bt

 (1  i)
t 0
n

t

Ct

t
t 0 (1  i )



BPV
CPV

(2.2)

BCR là hệ số sinh lãi thực tế, phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết mức
thu nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất. Cơng thức tính như sau:
Trong đó:



24

-

BCR : Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (đồng/đồng)

-

BPV : Giá trị hiện tại của thu nhập (đồng)

-

CPV : Giá trị hiện tại của chi phí (đồng)

-

Các ký hiệu khác được giải thích ở cơng thức (2.1)

Nếu hoạt động sản xuất nào có BCR>1 thì có hiệu quả kinh tế, BCR càng
lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Ngược lại, BCR<1 thì sản xuất khơng có hiệu
quả.
Bt  Ct
t
t  0 (1  i )
+ Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR)
n






0

( 2 .3 )

IRR là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn. IRR chính là tỷ lệ chiết khấu
i khi tỷ lệ này làm cho NPV=0, khi đó tỷ lệ chiết khấu i được xác định là tỷ lệ
thu hồi nội bộ IRR.
-

IRR được tính theo tỷ lệ %

-

Các ký hiệu khác được giải thích ở cơng thức (2.1)

IRR dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế và khả năng thu hồi vốn của các hoạt
động sản xuất. Nếu IRR càng lớn thì hiệu quả càng cao, khả năng thu hồi vốn
càng sớm.


×