Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.49 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Di tích lịch sử văn hóa 1. Di tích Ao Bà Om: Di tích Ao Bà Om còn gọi là Ao Vuông, nằm cách trung tâm tỉnh khoảng 05 km về hướng Tây Nam, thuộc khóm 4, phường 8, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Theo lời truyền kể, ngày xưa vùng đất này đến mùa khô nước ngọt khan hiếm, đồng thời trong xã hội có sự tranh chấp giữa hai phái nam và nữ ai phải đi cưới ai. Nhân sự kiện này, cư dân trong vùng tổ chức cuộc thi đào ao để giải quyết. Theo quy định của cuộc thi, việc đào ao sẽ chấm dứt khi sao mai mọc. Trong lúc cuộc thi đang diễn ra, bên nữ dưới sự chỉ huy của Bà Om đã dùng một cây tre trên đầu có treo ngọn đèn và dựng lên. Thấy ngọn đèn, bên nam tưởng rằng sao mai đã mọc bèn nghỉ, trong khi đó bên nữ tiếp tục đào. Sáng ra, ao bên nữ đào ở phía Đông đã hoàn thành. Nhớ ơn người phụ nữ có công ấy, người ta lấy tên bà đặt cho tên ao- Ao Bà Om. Khuôn viên Ao Bà Om có diện tích hơn 100.000 m2, trong đó phần mặt ao gần 43.000 m2. Bao bọc xung quanh trên bờ ao có 465 cây cổ thụ. Ngày 10/7/1994, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 921-QĐ/BT công nhận Ao Bà Om là di tích cấp Quốc gia, thuộc loại hình danh lam thắng cảnh. 2. Di tích Phước Minh Cung: Phước Minh Cung còn gọi là chùa Ông, toạ lạc số 44 Điện Biên Phủ, phường 2, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Theo bia ký làm lại thì Phước Minh Cung được tạo dựng vào năm Bính Thìn 1556. Tuy nhiên, Phước Minh Cung được biết đến là công trình kiến trúc nghệ thuật vào những năm đầu thế kỷ XX và được trùng tu vào năm 2003. Phước Minh Cung có kiến trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc”. Mặt bằng tổng thể gồm 3 toà nhà nằm ngang tạo thành tiền điện, trung điện, chính điện. Hai bên là tả điện, hữu điện. Phước Minh Cung thờ các vị thần: Quan Thánh Đế Quân, Chúa Sinh Nương Nương, Phước Dức Chính Thần, Ngọc Hoàng Thượng Đế,… Tiền sảnh, trên mái, trên vách và nội thất chùa trang trí nhiều hoành phi, liễn đối, phù điêu với các đề tài khác nhau; đây là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo mang bản sắc văn hoá dân tộc. Ngày 16/11/2005, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 76/2005/QĐBVHTT công nhận Phước Minh Cung là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. 3. Di tích Giác Linh Tự: Giác Linh Tự còn gọi là chùa Dơi, toạ lạc tại ấp Nhất A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Giác Linh Tự được tạo dựng vào năm 1857, lúc mới hình thành là một am.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> nhỏ với tên gọi Linh Sơn Điện. Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Linh Sơn Điện là tụ điểm hội họp, sinh hoạt của tổ chức Thiên Địa Hội. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930), các chi bộ ở khắp nơi lần lượt thành lập. Chi bộ đầu tiên của Mỹ Long-Cầu Ngang vẫn chọn Linh Sơn Điện hội họp. Năm 1934, cùng với chùa Phước Thanh, Linh Sơn Điện được Ban Chấp hành Liên Tỉnh ủy Vĩnh-Trà-Bến chọn đặt trụ sở. Năm 1937, sau một thời gian bị chính quyền thực dân đóng cửa, Linh Sơn Điện được dựng lại và lấy tên là Giác Linh Tự. Giai đoạn cận Cách mạng tháng 8/1945, để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa giành thắng lợi, tại chùa đã tổ chức cuộc họp trù bị củng cố lại Xứ ủy. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ chùa là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng, nhiều cuộc họp đã diễn ra tại đây và được các nhà sư, bà con phật tử bảo vệ chu đáo, an toàn. Ngày 24/01/1998, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 95/1998-BVHTT công nhận Giác Linh Tự là di tích cấp Quốc gia thuộc loại hình di tích lịch sử cách mạng. 4. Di tích Phước Mỹ Tự: Phước Mỹ Tự còn gọi là chùa Bà Sở tọa lạc tại ấp Bến Chùa, xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Phước Mỹ Tự được bà Phạm Thị Đồ một lưu dân người Gò Công về đây lập nghiệp tạo dựng vào năm 1886. Ngay từ những ngày đầu Chi bộ Đảng Hiệp Mỹ ra đời, Chi bộ đã chọn chùa là một trong những địa điểm hội họp, tuyên truyền phát động các phong trào đấu tranh. Trong cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8/1945, lực lượng của xã trong đó có bà con phật tử của chùa đã đứng lên cướp chính quyền, chiếm trụ sở làng Hiệp Mỹ. Tháng 6/1951, thực dân Pháp đưa quân đến chiếm chùa làm đồn, nhưng chỉ một tháng sau với sự hỗ trợ của bà con phật tử, Đại đội 380 của ta đã tập kích đồn làm địch thương vong nặng. Sang giai đoạn chống Mỹ, chùa tiếp tục là trụ sở đóng quân của các cơ quan: Huyện đội, Hậu cần, Dân y, Công trường huyện; của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy. Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc họp, trong đó có cuộc họp triển khai kế hoạch Giải phóng nông thôn do đồng chí Nguyễn Trường Thọ, Phó Bí thư Tỉnh ủy chủ trì. Sau đó, Đảng bộ và nhân dân Hiệp Mỹ đã giải phóng xã nhà trước 5 tháng so với ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Với những đóng góp trong hai cuộc kháng chiến, ngày 10/12/2004 Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 2513/QĐ-CTT công nhận chùa Phước Mỹ là di tích lịch sử cách mạng..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> 5. Di tích Miếu Tiền Vãng: Miếu Tiền Vãng còn gọi là miếu Tiên Sư, tọa lạc trong khuôn viên Trường Tiểu học Lê Văn Tám, thuộc khóm 2, phường 1, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Ngôi miếu được xây dựng vào năm 1943, theo sáng kiến của thầy Phạm Văn Lược, thầy Vương Hảo Thuận và bản thiết kế của thầy Võ Văn Hợi, nhằm ghi danh và tri ơn những thầy cô giáo có công lao trong ngành giáo dục. Từ ngày xây dựng đến nay ngôi miếu đã 3 lần trùng tu sửa chữa. Lần thứ nhất vào năm 1967, lần thứ hai vào năm 1968, lần thứ ba vào năm 1994. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ một số giáo viên, học sinh của trường đã thoát ly đi kháng chiến hoặc ủng hộ, giúp đỡ cách mạng tiêu biểu như: Đồng chí Nguyễn Thái Bình, đồng chí Lâm Phú, đồng chí Từ Bá Đước, bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, bác sĩ Mạch Dùng, bác sĩ Nguyễn Văn Cường, tu sĩ Thách Thái Không, nhà giáo Nguyễn Văn Chưởng, nhà giáo Văn Công Thơm, nhà giáo Vương Hảo Thuận. Ngày 10/12/2004, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ra Quyết định số 2514/QĐ-CTT công nhận miếu Tiền Vãng là di tích lịch sử văn hóa. 6. Di tích khảo khổ Lưu Cừ II: - Địa điểm: ấp Lưu Cừ II, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. - Diện tích: 2.560 m2. - Ngày 09/01/1990, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 34 VHQĐ công nhận di tích cấp Quốc gia. 7. Di tích Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh: - Địa điểm: ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. - Diện tích: 52.000 m2. - Ngày 05/9/1989, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 1570 VHQĐ công nhận di tích cấp Quốc gia. 8. Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Âng: - Địa điểm: khóm 4, phường 8, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. - Diện tích: 34.450 m2 - Ngày 10/7/1994, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 921.QĐ/BT công nhận di tích cấp Quốc gia. 9. Di tích lịch sử Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu: - Địa điểm: ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. - Diện tích: 20.539 m2 - Ngày 19/02/2004, Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định số 02-2004 QĐ/BVHTT công nhận di tích cấp Quốc gia..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 10. Di tích lịch sử cách mạng chùa Bào Môn: - Địa điểm: ấp Bào Môn, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. - Diện tích: 26.850 m2 - Ngày 10/6/2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ra Quyết định số 1022/QĐ-UBND công nhận di tích cấp tỉnh. 11. Di tích lịch sử căn cứ Tỉnh ủy Trà Vinh: - Địa điểm: ấp Giồng Giếng, xã Dân Thành, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. - Diện tích: 24.878 m2 - Ngày 26/6/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ra Quyết định số 921/QĐ-UBND công nhận di tích cấp tỉnh. . Thương FS.02 Thương "cục gạch" Thương các yumer yếu quí Và viết cho những ai chưa từng về Trà Vinh Thành Phố Trà Vinh có chiến tích anh hùng trong lịch sử là Đền Thờ Bác trang nghiêm. Trong thời chiến tranh, đền thờ này đã từng bị giặc công kích, đánh chiếm và hủy hoại nặng nề. Nhưng cứ khi Đền sập, người dân lại chung tay dựng lại, sập rồi dựng... Đã không biết bao nhiêu lần như thế... Đền Thờ Bác là nơi mà người dân Trà Vinh tự hào vì đã gìn giữ trang nghiêm đến ngày hôm nay. Những trang sử anh hùng của người Trà Vinh không thể quên những cái tên như chị Út Tịch "đánh đến còn cái lai quần cũng đánh...", như chú Phạm Thái Bường... Cùng em dạo một vòng quanh những trang sử sách oai hùng của Tỉnh nhà, anh mới thấy thương quá vòng tay siết nhẹ của ba dân tộc anh em đã và đang sống hòa thuận dưới bầu trời mang tên Trà Vinh.. Đền Thờ Bác Hồ - Trà Vinh Em biết chắc chắn rằng, thứ mà anh mong đợi nhất vẫn là những món ăn đặc sản làm nên tên tuổi vùng đất quê em. Cái tên Trà Vinh vẫn còn xa lạ đối với người miền ngoài như anh, nhưng chắc hẳn là quá quen thuộc và đáng tự hào với những người miền Nam nói chung, và người miền Tây nói riêng. Đơn giản vì Trà Vinh có quá nhiều đặc sản nổi tiếng... Anh đi qua bất cứ địa phận nào của tỉnh, cũng dễ dàng nhìn thấy cái biển quán bún nước lèo. Cái tên nghe đậm chất dân dã miền Tây đúng không anh? Thật ra món bún này có rất nhiều tỉnh thành ở miền Nam nấu được, như Sóc Trăng, Bạc Liêu... Mỗi vùng.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> miền một cách nấu khác nhau. Nhưng người Miền Nam hoặc các du khách sành điệu hay đùa với nhau rằng. "Chưa ăn bún nước lèo Trà Vinh, xem như chưa về Trà Vinh". Bởi đơn giản rằng, cách nấu bún của người Trà Vinh có một cách thức riêng biệt đậm chất dân dã,mộc mạc nhưng thấm đượm hương vị để một lần nếm thử sẽ nhớ mãi không quên... Em không nói ngoa đâu nhé, anh hãy cứ một lần nếm thử hương vị bún nước lẻo Trà Vinh, với tô bún nghi ngút khói,bên dĩa rau thơm lừng, thịt heo quay giòn rụm, chả giò và bánh tôm nóng hổi cùng ít huyết... Chà... hương vị tuyệt vời hòa quyện của mùi cá, mùi mắm, mùi thịt heo... Bún nước lèo là món ăn đặc sản nổi tiếng và phổ biến số một ở Trà Vinh. Bún nước lèo còn thể hiện sự giao lưu văn hóa, tình đoàn kết giữa cộng đồng các dân tộc Trà Vinh. Nó được người Việt chế biến từ mắm Pròhốc của người Khmer, có thêm món thịt heo quay của người Hoa. Vì điều đó mà người Trà Vinh luôn tự hào hương vị hòa quyện thân thương quê nhà.... Bún nước lèo... Trà Vinh Món đặc biệt thứ hai phải kể ngay là dừa sáp. Nó đặc biệt đến mức, trái dừa sáp bây giờ giá dao động từ một trăm năm mươi ngàn đến ba trăm ngàn cho một trái. Nó đặc biệt là vì chỉ duy nhất một huyện Cầu Kè Tỉnh Trà Vinh trồng được. Điều đặc biệt đó khiến giá thành trái dừa sáp cao ngất ngưởng, nhưng vẫn thu hút hàng nghìn người thích thú thưởng thức. Trái dừa sáp trông bình thường như bao trái dừa bình thường khác nhưng khi bổ ra bên trong cơm dừa đặc quánh như sáp. Cơm dừa sáp có tỷ lệ tinh dầu và hàm lượng dinh dưỡng cao, chế biến các thức uống giải khát như sinh tố rất ngon.. Dừa sáp - loại trái cây không thể tìm được ở nơi khác ngoài Trà Vinh Trái quách... Một cái tên rất xa lạ với nhiều người, nhưng lại quá quen thuộc và gần gũi với người Trà Vinh.Trái quách chín chỉ có hai cách chế biến. Đó là: Dầm nước đá đường, và ngâm rượu, trong đó món đầu tiên có tác dụng giải nhiệt được mọi người thích nhất. Nhưng có một điều thú vị hơn hết, là mẹ của em đã chê ra món mứt quách, là dùng quách đi sên thành mứt, rồi bỏ vào tử lạnh, ngọt, thơm, giòn và ngon lắm. Ngoài làm thức uống giải khát, theo y học dân gian, trái quách còn xanh xắt mỏng phơi khô dùng để chữa trị tiêu chảy, trái chín chống táo bón, giúp điều hòa tiêu hóa. Lá cây quách chữa trị viêm phế quản…. Trái quách Làng cốm dẹp Ba So (Xã Nhị Trường, Cầu Ngang) gồm 60 hộ dân Khmer làm nghề. Cốm dẹp Ba So làm từ nếp mùa, thơm ngon, sản xuất quanh năm với sản lượng lớn và ổn định, trở thành món ăn đặc sản cung cấp cho các thị trường khắp Nam bộ. Món chuối.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> chưng, cốm dẹp được ưa chuộng và thường xuyên là món ăn nhẹ trong ngày hội Ok Om Bok.. Cốm dẹp Dạo - Rượu Xuân Thạnh do một số gia đình trong cùng một dòng tộc tại ấp Xuân Thạnh (Hòa Thuận, Châu Thành) nắm giữ bí quyết và sản xuất bằng gạo nếp mùa truyền thống cùng bài men gia truyền. Rượu Xuân Thạnh cao độ, sủi tăm trong vắt, hương vị nồng nàn và không gây khó chịu cho người lỡ vui quá chén. Nhưng nếu là du khách lạ, chắc chắn sẽ dể say mèm với vị nồng cay của rượu Xuân Thạnh, để rồi lưu luyến mãi bờ môi ai.... - Tôm khô Vinh Kim (xã Vinh Kim, Cầu Ngang) được chế biến từ con Tép bạc đất đặc hữu vùng nước lợ (nhất Vinh Kim, nhì Hậu Bối ) trở thành đặc sản nổi tiếng khắp vùng nhưng ngon nhất, uy tín nhất vẫn là “Tôm khô bà Hai Khâm”. Tôm khô bà Hai Khâm đều, thân đỏ au, khô chắc có chất lượng vượt trội so với sản phẩm cùng loại từ các địa phương khác.. - Bánh Tét Trà Cuôn (xã Kim Hòa, Cầu Ngang), cách thị xã Trà Vinh 10 cây số(ngay cầu Trà Cuôn) nổi tiếng với thương hiệu bánh Tét Hai Lý. Bánh tét Trà Cuôn được gói khéo léo, hương vị thơm ngon, có thể bảo quản dài ngày thường được du khách chọn làm quà tặng người thân sau mỗi chuyến đến Trà Vinh. Ngoài ra, còn có món bánh tét cốm dẹp của người Khmer vô cùng độc đáo, nhưng lại ít được người dân tộc bán rộng rãi,nên việc phổ biến nó là một điều còn khó khăn.. Bánh tét Trà Cuôn - Trà Vinh Một vòng quanh những đặc sản Trà Vinh, hương vị hòa quyện thêm say nồng yêu mến miền đất thân thương phải không anh? Đấy là em chỉ giới thiệu tóm lượt về những món ăn nổi tiếng thôi đấy, ngoài ra còn có bánh canh Bến Có, bánh tráng Trà Vi, nước mắm Rươi... Miền đất này có người con gái đang dành cho anh một tình yêu trọn vẹn. Say hương vị rượu trắng Xuân Thạnh, say những món ăn dân dã, và cả say tình với vị ngọt đôi môi.... Điều đó chắc chắn sẽ níu giữ chân anh nơi miền đất ngọt lành của tình yêu thăng hoa chấp cánh. Để một ngày không xa... Cô con gái miền Tây sẽ mặc trên người chiếc váy cưới tinh khôi ....
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Bánh tét Trà Cuôn, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang hiện đã trở thành đặc sản khá nổi tiếng ở Trà Vinh, được nhiều người trong và ngoài tỉnh biết đến, coi đó là quà quí để tặng người thân, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán. Thành phố Trà Vinh có quyết định thành lập trên cơ sở thị xã Trà Vinh từ tháng 3 năm 2010. Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long được lập ra năm 1832[3]. Năm 1876, Pháp chia tỉnh Vĩnh Long cũ thành 3 tiểu khu (hạt tham biện): Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre. Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Trà Vinh là 1 trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.. Quốc lộ 60, Trà Vinh đi Sóc Trăng Dưới thời Pháp thuộc, Trà Vinh gồm 8 quận bao gồm Càng Long, Cầu Ngang, Cầu Kè[4], Châu Thành, Long Toàn[5], Tiểu Cần, Trà Cú và Trà Ôn[3]. Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, lập ra tỉnh Vĩnh Bình theo Sắc lệnh 143-NV của Tổng thống ngày 22 tháng 10 năm 1956. Trên địa bàn Trà Vinh có 3 dân tộc, đó là người Kinh (69%) và người Khmer (29%) và người Hoa chiếm phần còn lại[6]. Dân số Trà Vinh chiếm 5,99% Đồng bằng sông Cửu Long (theo điều tra dân số năm 2000), trong đó hơn 87% sống ở khu nông thôn. Mật độ dân số 414 người/km², tỷ lệ tăng dân số năm 2000 là 1,65..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Theo tài liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999, trên địa bàn Trà Vinh có trên 290,9 nghìn người Khmer, chiếm 30,1% dân số toàn tỉnh và chiếm 27,6% số người Khmer của cả nước[7]. Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù[6]. Samvi là thương hiệu của loại nước khoáng đóng chai được sản xuất từ mỏ nước khoáng tại thị trấn Duyên Hải - huyện Duyên Hải. Đây là mỏ nước khoáng có trữ lượng lớn, hàm lượng khoáng chất Carbonate Natrium chiếm 500mg/lít (cao nhất Nam bộ) và nhiệt độ là 390 0C, không chỉ có tác dụng giải khát mà còn là nguồn bổ sung khoáng chất cần thiết rất tốt cho cơ thể con người. - Làng chiếu truyền thống Cà Hom – Bến Bạ (xã Hàm Giang, Trà Cú) với hơn 300 hộ dân Khmer tham gia. Hàng năm sản xuất hơn 50 ngàn đôi chiếu các loại. Sản phẩm chiếu Hàm Giang được ưa chuộng khắp thị trường Đồng bằng Sông Cửu long, trong đó chiếu cao cấp như những tác phẩm nghệ thuật. - Cơ sở điêu khắc gỗ thủ công mỹ nghệ của các sư sãi và bà con Khmer chùa Hang (thị trấn Châu Thành) nổi tiếng nhiều năm nay. Sản phẩm của cơ sở này là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo mang phong cách văn hóa truyền thống Khmer phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. - Làng cốm dẹp Ba So (Xã Nhị Trường, Cầu Ngang) gồm 60 hộ dân Khmer làm nghề. Cốm dẹp Ba So làm từ nếp mùa, thơm ngon, sản xuất quanh năm với sản lượng lớn và ổn định, trở thành món ăn đặc sản cung cấp cho các thị trường khắp Nam bộ. - Bánh tráng Trà Vi (xã Nguyệt Hóa, Châu Thành) làm bằng gạo lúa mùa truyền thống theo phương pháp thủ công nên có màu hơi ngà, mỏng, ngon và dẻo. Bánh tráng Trà Vi có mặt khắp các nhà hàng, quán ăn cũng như bữa ăn hàng ngày của người dân Trà Vinh. - Nghề làm Muối ( Ấp Cồn Cù- xã Dân Thành, Duyên Hải ) gần khu du lịch Ba Động có nghề làm muối truyền thống từ nước biển. Muối Cồn Cù trắng hồng, sắc cạnh, có độ mặn cao. - Rượu Xuân Thạnh do một số gia đình trong cùng một dòng tộc tại ấp Xuân Thạnh (Hòa Thuận, Châu Thành) nắm giữ bí quyết và sản xuất bằng gạo nếp mùa truyền thống cùng bài men gia truyền. Rượu Xuân Thạnh cao độ, sủi tăm trong vắt, hương vị nồng nàn và không gây khó chịu cho người lỡ vui quá chén. - Tôm khô Vinh Kim (xã Vinh Kim, Cầu Ngang) được chế biến từ con Tép bạc đất đặc hữu vùng nước lợ (nhất Vinh Kim, nhì Hậu Bối ) trở thành đặc sản nổi tiếng khắp vùng nhưng ngon nhất, uy tín nhất vẫn là “Tôm khô bà Hai Khâm”. Tôm khô bà Hai Khâm đều, thân đỏ au, khô chắc có chất lượng vượt trội so với sản phẩm cùng loại từ các địa phương khác. - Dừa sáp là loại đặc sản chỉ duy nhất có tại Cầu Kè. Trái dừa sáp trông bình thường như bao trái dừa bình thường khác nhưng khi bổ ra bên trong cơm dừa đặc quánh như sáp. Cơm dừa sáp có tỷ lệ tinh dầu và hàm lượng dinh dưỡng cao, chế biến các thức uống giải khát như sinh tố rất ngon. - Quán ăn bánh canh Bến Có (cách thị xã Trà Vinh 4 cây số) là một địa chỉ ẩm thực rất nổi tiếng không chỉ ở Trà Vinh mà thực khách các tỉnh lân cận cũng ưa thích tìm về. - Bún nước lèo là món ăn đặc sản nổi tiếng và phổ biến số một ở Trà Vinh, đến nỗi giới “sành điệu” thường bảo nhau: “Chưa ăn bún nước lèo xem như chưa đến Trà Vinh!”. Bún nước lèo còn thể hiện sự giao lưu văn hóa, tình đoàn kết giữa cộng đồng các dân tộc Trà Vinh. Nó được người Việt chế biến từ mắm Pròhốc của người Khmer, có thêm món thịt heo quay của người Hoa. - Bánh Tét Trà Cuôn (xã Kim Hòa, Cầu Ngang), cách thị xã Trà Vinh 10 cây số(ngay cầu Trà Cuôn) nổi tiếng với thương hiệu bánh Tét Hai Lý. Bánh tét Trà Cuôn được gói khéo léo, hương vị thơm ngon, có thể bảo quản dài ngày thường được du khách chọn làm quà tặng người thân sau.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> mỗi chuyến đến Trà Vinh. - Nước Mắm Rươi vùng ven biển Trà Vinh, đặc biệt là vùng Cồn Cù (Dân Thành, Duyên Hải ) cứ mùa gió bấc cũng là mùa vớt Rươi làm nước mắm. Nước mắm Rươi có màu vàng sậm, hàm lượng đạm cao, hương vị ngai ngái nồng nàn. Tương truyền, trong thời gian bôn tẩu tới đây, chúa Nguyễn Ánh được người dân địa phương “tiến” món nước mắm đặc sản này được chúa tấm tắc khen ngon. Từ đó, nước mắm Rươi còn có mỹ danh là “nước mắm ngự”..
<span class='text_page_counter'>(10)</span>