Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc chăm trên địa bàn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.96 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

QUANG LÊ HỒNG CHUYÊN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

QUANG LÊ HỒNG CHUYÊN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ VIỆT HẠNH

HÀ NỘI, 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
ASXH ln là một chủ trương, nhiệm vụ lớn mỗi Nhà nước, mỗi quốc gia, dân
tộc, nhất là của các đảng cầm quyền, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội và
có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội, sự phát triển bền
vững của đất nước với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Đối với nước ta, việc bảo đảm ASXH ngày càng tốt hơn luôn được xem là chủ
trương, là nhiệm vụ hết sức to lớn của Đảng và Nhà nước, vừa thể hiện bản chất tốt
đẹp của chế độ ta, cũng đồng thời có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính
trị - xã hội và phát triển bền vững của nước ta. Nhiều năm qua, song song với việc
phát triển KT-XH, không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, nâng cao thu nhập cho
người lao động, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm chăm lo đến ASXH cho nhân
dân. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã xác định: “…Cải
thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, làm cho
nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học
tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và
thành thị” [31, tr.86]. Đặc biệt, trong lịch sử phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng, các chính sách đối với vùng đồng bào DTTS luôn được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm, nhất là các chính sách, chương trình ASXH.
An Giang là tỉnh có đơng đồng bào DTTS sinh sống, trong đó phải kể đến
đồng bào dân tộc Chăm, nhiều năm qua Đảng bộ, chính quyền các cấp trên địa bàn
tỉnh đã không ngừng quan tâm, chăm lo thực hiện tốt các chính sách ASXH cho
đồng bào Chăm tỉnh nhà, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, lẫn tinh
thần, thay đổi cách nghĩ, cách làm trong sản xuất làm ăn, nhằm phát triển kinh tế gia
đình, vươn lên ổn định cuộc sống,… qua đó, góp sức cùng chính quyền địa phương
xây dựng q hương ngày càng giàu mạnh hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được trong quá trình thực
hiện các chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm vẫn còn tồn tại những vấn
đề đặt ra cần sớm được giải quyết.


1


Xuất phát từ tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn, tác giả lựa chọn vấn đề
“Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn
tỉnh An Giang” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ với mong muốn đóng
góp, bổ sung thêm lý luận, làm giàu kinh nghiệm thực tiễn trong thực hiện chính
sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng và các
DTTS trên cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ASXH, chính sách ASXH và thực hiện chính sách ASXH đã và đang được các
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu nhận thấy
đã có rất nhiều cơng trình, luận án, luận văn, bài viết nghiên cứu liên quan đến vấn
đề thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS ở nhiều mức độ cũng như góc
độ khác nhau, một số cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố như:
Cơng trình nghiên cứu “Cơ sở lý luận và thực tiễn hồn thiện chính sách pháp
luật về giảm nghèo cho đồng bào DTTS phù hợp với Hiến pháp”, đề tài cấp Bộ do
ơng Danh Út, ngun Phó Chủ nhiệm Hội đồng Dân tộc của Quốc hội làm chủ
nhiệm đã phân tích cơ sở lý luận và thực trạng chính sách, pháp luật về giảm nghèo
đối với DTTS; từ đó chỉ ra những thành quả đạt được và hạn chế, vướng mắc cần
được khắc phục; đề xuất những giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về giảm
nghèo đối với DTTS phù hợp với Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi).
Tác phẩm “ASXH ở Việt Nam hướng tới 2020” của tác giả Vũ Văn Phúc đã
phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về ASXH ở Việt Nam trong những năm
đổi mới; chỉ ra những thành tựu, vai trò của ASXH đối với sự phát triển xã hội cũng
như những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và định hướng xây dựng hệ thống ASXH ở
Việt Nam đến năm 2020.
Luận án tiến sĩ “Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc
đến năm 2020”, của tác giả Nguyễn Đức Thắng đã làm nổi bật những vấn đề lý luận

và thực tiễn về quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây
Bắc, từ đó nhằm đề ra các giải pháp nâng cao kết quả trong thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.

2


Song song với các đề tài cấp Nhà nước thì có nhiều nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề ASXH được đăng trên các tạp chí, diễn đàn khoa học,… có thể kể
đến các chuyên đề nghiên cứu sau:
Nguyễn Trọng Đàm, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với
nghiên cứu “Hồn thiện chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển KT-XH
của đất nước”, được đăng trên Tạp chí Cộng sản (2015).
Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thạc sĩ Đặng Đỗ Quyên với nghiên cứu
“Đánh giá thực trạng chính sách ASXH đối với DTTS ở Việt Nam”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Việt Hạnh, Phan Thị Sơng Hương với nghiên cứu
“Chính sách ASXH gắn với định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Thuận:
Hiện trạng và giải pháp giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, đăng trên
Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội số 7/2020, qua đó đã xem xét và làm rõ thực
trạng chính sách ASXH gắn với định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Thuận;
nhằm góp phần đưa ra một số giải pháp cho những vấn đề đặt ra trong giai đoạn
2020 - 2030.
Nghiên cứu “Người DTTS được hưởng lợi từ các chương trình giảm nghèo có
quy mơ lớn? Bằng chứng từ Việt Nam” của nhóm tác giả Nguyễn Việt Cường, Phùng
Đức Tùng và Daniel Westbrook, đăng trên Tạp chí The Review of Economics and
Finance, Elsevier, đã trực tiếp miêu tả những kết quả thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững cho đồng bào DTTS ở Việt Nam. Nghiên cứu mang tính bao quát
trên phạm vi cả nước, nhưng được phân tích bằng những chứng cứ cụ thể, với kết quả
đạt được chi tiết đã mang đến những giá trị thực tiễn lớn khi phản ánh những thay đổi
về cuộc sống của người dân từ chính sách giảm nghèo bền vững.

Các nghiên cứu trên đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận, thực tiễn thực hiện
chính sách ASXH và các nội dung liên quan đến ASXH. Đồng thời, các nghiên cứu
này đã tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, những kết quả đạt được và
hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách ASXH tại địa bàn nghiên cứu. Trên cơ
sở đó, các nghiên cứu này đã đề ra những giải pháp thiết thực để thực hiện chính
sách ASXH khá phù hợp với điều kiện KT-XH của từng địa phương. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đó mang tầm vĩ mơ bao qt cả nước hoặc nghiên cứu ở các địa phương
3


khác nên chưa thực sự phù hợp với đặc điểm của đồng bào dân tộc Chăm tỉnh An
Giang nên việc nghiên cứu thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm
trên địa bàn tỉnh An Giang được xem như là một hệ thống độc lập vẫn chưa được
giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH
đối với đồng bào DTTS và làm rõ thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho đồng
bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian qua, luận văn luận giải
và đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
ASXH đối với đồng bào DTTS ở nước ta hiện nay.
Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào
dân tộc Chăm tỉnh An Giang.
Nghiên cứu, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang

trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách ASXH đối với đồng bào
DTTS ở nước ta hiện nay, hoạt động thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân
tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là tỉnh An
Giang với hơn 11.171 người dân tộc Chăm, chiếm 0,59% dân số tỉnh An Giang của
04 huyện, thị.
Phạm vi thời gian: phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài được xác định từ
năm 2010 đến nay.
4


Phạm vi nội dung: chính sách ASXH về việc làm, thu nhập, trợ cấp xã hội,
BHXH,…
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó,
luận văn cịn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách ASXH cho DTTS nói chung và đồng
bào dân tộc Chăm nói riêng.
Ngồi ra, tác giả còn căn cứ trên cơ sở lý luận của chuyên ngành chính sách
cơng để nghiên cứu đề tài.


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp quan sát khoa học; Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phương
pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp điều tra xã hội học; Phương pháp tham vấn
chuyên gia. Các phương pháp được sử dụng phù hợp trong từng chương của luận
văn cụ thể như sau:
Chương 1, với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận, tác giả sử dụng phương
pháp: nghiên cứu tài liệu thứ cấp để làm rõ các khái niệm như chính sách cơng,
chính sách ASXH, DTTS và thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS.
Ngồi ra, phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng nhằm làm rõ các vấn
đề lý luận khác của luận văn như các bước thực hiện, nội dung, chủ thể và các bên
liên quan, kinh nghiệm của các địa phương.
Chương 2, với mục đích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho
đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang, tác giả sử dụng một số phương
pháp như: Phương pháp quan sát khoa học nhằm tìm hiểu thực tiễn thực hiện các
bước trong quá trình thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm;
Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu nhằm cho thấy kết
quả và mức độ hài lịng về kết quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân

5


tộc Chăm; Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ các hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm.
Chương 3, với mục đích đề xuất được các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh
An Giang, tác giả sử dụng một số các phương pháp sau: Phương pháp tham vấn
chuyên gia bằng tham gia các hội thảo, tham vấn ý kiến các chuyên gia lý luận và
thực tiễn về vấn đề để xác định quan điểm xây dựng giải pháp; Phương pháp phân
tích, tổng hợp nhằm xây dựng và triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả thực

hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn góp phần thêm vào kho tàng khoa học
lý luận bằng những phát hiện mới trong nghiên cứu lý thuyết của mình về vấn đề
thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS nói chung và đồng bào dân tộc
Chăm nói riêng, tạo ra những gợi ý mới cho việc nghiên cứu lý luận về vấn đề thực
hiện chính sách ASXH trong tương lai.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Khái quát thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc
Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế của việc thực hiện ASXH hiện hành đối với
đồng bào dân tộc Chăm. Làm rõ những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức để
từ đó đề xuất các phương án xây dựng và hồn thiện chính sách ASXH cho đồng
bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong giai đoạn tới. Khuyến nghị các
giải pháp xây dựng và thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm đảm
bảo cho tính khả thi của các phương án chính sách đã đề xuất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS.

6


Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc
Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH
XÃ HỘI CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. An sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội

1.1.1. Khái niệm chính sách, chính sách cơng
1.1.1.1. Khái niệm chính sách
Chính sách là lĩnh vực tập trung mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, là sản
phẩm đầu ra của tồn bộ hệ thống chính trị.
Với chính trị học, một khoa học đại cương và tổng hợp về chính trị, khoa học
nghiên cứu vấn đề trung tâm trực tiếp của chính trị - vấn đề quyền lực chính trị, thì
việc nghiên cứu chính sách là một cấu thành quan trọng.
Ở hầu hết các nước phát triển, với tư cách là một chuyên ngành chính của
khoa học chính trị, lý luận khoa học về chính sách thường được gọi với những cái
tên ít nhiều khác nhau: chính sách cơng (Public policy), phân tích chính sách
(Analize policy) hay khoa học về chính sách (Policy science). Ở các quốc gia này,
khoa học chính sách đã có lịch sử và nội dung phát triển phong phú, nó thể hiện sự
phản tư đầy trăn trở của bản thân quá trình hoạch định chính sách trong thực tế.
Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó” [54, tr.475].
Cịn tác giả Vũ Cao Đàm chỉ ra: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự
ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định

hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến
lược phát triển của một hệ thống xã hội” [21, tr.29].
James E. Anderson cho rằng chính sách là chuỗi những hoạt động mà chính
quyền chọn làm hay khơng làm với tính tốn và chủ đích rõ ràng, có tác động đến
người dân hoặc “Chính sách q trình hành động của nhà nước có ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của công dân” [21, tr.19].
8


Hiểu một cách đơn giản thì chính sách là một chương trình hành động do các
nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó, có thể coi chính sách là một cơng
cụ quản lý để điều hành các hoạt động KT-XH theo những mục tiêu nhất định.
1.1.1.2. Khái niệm chính sách cơng
“Chính sách” khi xét với vai trị và chức năng của khu vực cơng thường được
gọi là chính sách cơng.
Thomas Dye đã từng đặc trưng hóa rằng: “Chính sách cơng là tất cả những gì
Nhà nước chọn làm hoặc không làm” [36, tr.3].
Đến B. Guy Peter đã khẳng định hoạt động của Nhà nước và tác động của
chính sách đối với tồn bộ các cơng dân thơng qua khái niệm: “Chính sách cơng là
tồn bộ các hoạt động của Nhà nước một cách trực tiếp hay gián tiếp đều có ảnh
hưởng đến cuộc sống của mọi công dân” [18, tr.97].
Theo quan điểm lý thuyết hệ thống, P.de Leon và G. Brewer thống nhất:
“Chính sách cơng là những quyết định quan trọng nhất của xã hội, là những hành
động có tính chức năng dựa trên sự đồng thuận hoặc phê chuẩn của toàn hệ thống”.
Guy Petter, năm 1996 cho rằng: “Chính sách cơng là chính sách phản ánh
tồn bộ các hoạt động của Chính phủ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc
sống của người dân” [18, tr.97]. Trong khi đó, chính sách “tư” chỉ là các quy chế
nội bộ nhằm giải quyết vấn đề nội bộ.
William Jenkin cho rằng chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên
quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với

việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó. Như vậy, chính
sách cơng là tập hợp các biện pháp can thiệp được thể chế hóa mà Nhà nước đưa ra
nhằm đạt được mục tiêu quản lý của mình.
Theo William N. Dunn, 1992, chính sách cơng là một kết hợp phức tạp những
sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các
cơ quan Nhà nước hay các quan chức Nhà nước đề ra.
Đối với nước ta, cũng có rất nhiều quan niệm, góc nhìn khác nhau về chính
sách cơng, như PGS.TS. Hồ Việt Hạnh cho rằng: “Chính sách cơng là những quyết
định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích
9


chung của cộng đồng” [36, tr.5]; còn PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải quan niệm rằng:
“Chính sách cơng là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một
tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục
tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội” [35, tr.51]; Viện
Chính trị học thì lại cho rằng: “… chính sách cơng là chương trình hành động
hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [60, tr.235].
Như vậy, có thể hiểu chính sách cơng là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước
được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong
đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội.
Ở Việt Nam, các chính sách cơng là do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đề ra. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân dựa
trên nền tảng liên minh với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức. Bản chất dân chủ
của Nhà nước ta được khẳng định qua tất cả các bản Hiến pháp trong suốt quá trình
lịch sử phát triển. Theo khoản 2, Điều 2, Hiến pháp 2013 có ghi rõ: “Nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”.
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo sâu sắc

và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn dân xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng
cũng là tổ chức đề xướng đường lối chiến lược phát triển KT-XH của đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chính sách cơng ở Việt Nam là những bộ phận
hợp thành, là sự cụ thể hóa đường lối phát triển KT-XH của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

1.1.2. Khái niệm an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội
1.1.2.1. Khái niệm an sinh xã hội
ASXH thường trong tiếng Anh được gọi là Social Security và khi dịch ra
tiếng Việt ngồi ASXH thì thuật ngữ này cũng được dịch là bảo đảm xã hội, bảo
trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa khơng hồn tồn
tương đồng nhau. Social Security có thể hiểu là sự đảm bảo thực hiện các quyền
10


của con người được sống hịa bình, được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật;
được tự do học tập, được có việc làm, có nhà ở, tự do cư trú, di chuyển, phát biểu
chính kiến trong khn khổ luật pháp cho phép; được đảm bảo thu nhập để thỏa
mãn những nhu cầu thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già… Vì thế, ASXH có nội
hàm rất rộng và ngày càng hoàn thiện về nhận thức và thực tiễn thực hiện trên
phạm vi toàn thế giới.
Theo Điều 25 của Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1948, Liên Hợp Quốc
tiếp cận ASXH trên cơ sở quyền của công dân: “…Mọi người dân và hộ gia đình
đều có quyền có một mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm
ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền
được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già…
hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…”.
Theo Ngân hàng thế giới (WB), thì “ASXH là những biện pháp của chính phủ
nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được

nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh
thu nhập”.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa rằng: “ASXH là một sự bảo vệ mà
xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thơng qua một số biện pháp được áp
dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội
làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do
lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. Cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho
các gia đình nạn nhân có trẻ em”.
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho rằng: “ASXH là các chính sách,
chương trình giảm nghèo và giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có hiệu quả thị trường
lao động giảm rủi ro của người dân và nâng cao năng lực của họ để đối phó với rủi
ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. ASXH gồm có 05 hợp phần: Các chính sách xã
hội và chương trình thị trường lao động; BHXH; Trợ giúp xã hội; Quỹ hỗ trợ phát
triển cộng đồng; Bảo vệ trẻ em.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ASXH” được đề cập trong một số cuốn sách nghiên
cứu về pháp luật của một số học giả Sài Gòn vào những năm 70. Sau năm 1975,
11


thuật ngữ này được dùng nhiều hơn và đặc biệt từ năm 1995 trở lại đây nó được sử
dụng một cách rộng rãi.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng các quan niệm về ASXH đều
có những đặc điểm chung:
Là sự đảm bảo thu nhập ở mức tối thiểu thơng qua các hệ thống chính sách
can thiệp nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ
bản nhất của con người đã được luật hóa hoặc quy định như rủi ro về sức khỏe,
thiếu hoặc mất việc làm, trẻ em, tàn tật… dẫn đến tình trạng khơng có thu nhập tạm
thời hoặc vĩnh viễn.
Là các chính sách do Nhà nước tổ chức thực hiện là chính, ngồi ra cịn có sự
tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng trong việc tổ chức thực hiện và cung

cấp dịch vụ ASXH. Các chính sách này hướng đến mọi thành viên trong xã hội,
đảm bảo sự được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ cho các thành viên,
tuy nhiên lý do chính để có sự tham gia của Nhà nước nhằm hướng đến nhóm đối
tượng yếu thế.
Là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội, cơ bản đáp ứng được nhu cầu
ASXH của người dân. Do đó, phạm vi của ASXH là bao phủ tồn dân và tồn diện.
1.1.2.2. Khái niệm chính sách an sinh xã hội
Chính sách ASXH được xem là những mạng lưới các chương trình, hệ thống
chính sách cụ thể của Nhà nước nhằm bảo vệ, phòng ngừa, hạn chế và khắc phục
những rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các
nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, già
cả khơng cịn sức lao động hoặc vì các ngun nhân khách quan khác thơng qua các
chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội;
từ đó bảo đảm mức sống tối thiểu, góp phần nâng cao đời sống của họ, thúc đẩy sự
phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội.

12


Có thể khái quát hệ thống ASXH của Việt Nam như sau:
HỆ THỐNG ASXH VIỆT NAM

VIỆC LÀM, ĐẢM BẢO
THU NHẬP TỐI THIỂU
VÀ GIẢM NGHÈO
TẠO VIỆC LÀM
TÍN DỤNG
ƯU ĐÃI

BẢO HIỂM XÃ HỘI


TRỢ GIÚP XÃ HỘI
CHO CÁC NHÓM ĐẶC
THÙ

BHXH
BẮT BUỘC
ỐM ĐAU

THAI SẢN
HỖ TRỢ
HỌC
NGHỀ
HỖ TRỢ
TÌM VIỆC
LÀM
(TRONG

NGỒI
NƯỚC)

TAI NẠN
LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ
NGHIỆP

HƯU TRÍ
TỬ TUẤT
BHXH
TỰ NGUYỆN


TRỢ GIÚP XÃ HỘI
THƯỜNG XUYÊN
CHĂM SÓC
TẠI CƠ SỞ
BẢO TRỢ
XÃ HỘI VÀ
CỘNG
ĐỒNG
HỖ TRỢ
TIỀN MẶT

DỊCH VỤ
XÃ HỘI
CƠ BẢN
GIÁO DỤC
Y TẾ
(GỒM BHYT)
NHÀ Ở
NƯỚC SẠCH
THÔNG TIN

TRỢ GIÚP
XÃ HỘI
ĐỘT XUẤT

HƯU TRÍ
CHƯƠNG
TRÌNH
VIỆC LÀM

CƠNG

GIẢM NGHÈO

TỬ TUẤT
BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP

BẢO HIỂM HƯU
TRÍ BỔ SUNG

1.1.3. Bản chất và tính tất yếu của an sinh xã hội
Từ việc xem chính sách ASXH là hệ thống các chính sách do Nhà nước ban
hành để thực hiện các mục tiêu ASXH, có thể thấy: ASXH trước hết đó là sự bảo vệ
của xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng của mình. Mục đích của sự bảo
vệ nhằm hướng đến việc giúp đỡ các thành viên của xã hội trước những biến cố và
rủi ro xã hội dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập.
Như vậy, bản chất sâu xa của ASXH là nhằm góp phần đảm bảo thu nhập và
đời sống cho các thành viên trong xã hội bằng phương thức sử dụng các biện pháp
công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho tất cả mọi người trong xã hội và vì vậy
13


mang tính xã hội, tính nhân văn hết sức sâu sắc. Bản chất của ASXH có thể nhận
thấy từ những phương diện sau:
ASXH là biểu hiện một cách rõ nét của quyền con người đã được Liên Hợp
Quốc thừa nhận. Để thấy rõ hơn về bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của
nó là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp nhằm bảo vệ cho tất cả mọi
thành viên trong cộng đồng khi đứng trước những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu
nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do ảnh hưởng từ nhiều

nguyên nhân khác nhau như thương tật, già cả ốm đau,… mà chúng ta gọi chung là
những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Nhằm thực hiện công bằng xã hội, ASXH căn
cứ trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm được thực hiện thông qua nhiều phương thức,
biện pháp khác nhau để thiết kế ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp.
Tuy ASXH có nội dung rất rộng lớn, nhưng chủ yếu tập trung vào ba vấn đề
cơ bản sau:
Thứ nhất, hết sức cần thiết cho sự bảo đảm, chính là BHXH được xem là trụ
cột cơ bản. Có thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Khi mà hệ thống
BHXH hoạt động thực sự có hiệu quả thì mới có thể tạo nên một nền ASXH vững
mạnh. Bằng việc trợ cấp BHXH, người lao động có được khoản thu nhập bù đắp
hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong trường hợp người
lao động bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. BHXH dựa trên sự
đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động, người sử dụng lao động và
Nhà nước trong một số trường hợp.
Thứ hai, nhằm bảo đảm cho người lao động tái tạo được sức lao động, duy trì
và phát triển nền sản xuất xã hội cần có sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho
người lao động và gia đình họ; đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con
người và cả việc phát triển bản thân con người.
Thứ ba, thực hiện các loại trợ giúp xã hội như trao tiền, hiện vật cho những
người có rất ít hoặc khơng có tài sản như những người nghèo khó, những người
cần sự giúp đỡ đặc biệt, bên cạnh đó ASXH cũng khuyến khích và thực hiện
gồm cả những loại trợ giúp khác như miễn giảm thuế, trợ cấp về dịch vụ, ăn, ở
và đi lại.

14


Hệ thống ASXH hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm thay thế thu
nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là “những chuyển giao xã hội”,
tức là những công cụ, những phương thức phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ

xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các
thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp. Trong xã hội, tuy mỗi người đều
khơng giống nhau về địa vị, tơn giáo, tín ngưỡng, dân tộc… tức hệ thống giá trị xã
hội chắc chắn khác nhau nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân ai
cũng được bảo đảm về mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình,
khơng có sự kì thị hay phân biệt địa vị, tơn giáo, tín ngưỡng, dân tộc. ASXH mang
lại cho những người kém may mắn hơn người bình thường khác được thêm điều
kiện, những tác động, đòn bẩy để vượt qua những biến cố và rủi ro, từ đó có cơ hội
để phát triển bản thân, hòa nhập vào cộng đồng. ASXH thúc đẩy, phát huy được
tính tích cực xã hội trong mỗi người, cả người giàu lẫn người nghèo; người may
mắn và người kém may mắn, làm cho mỗi người hướng tới những giá trị của Chân Thiện - Mỹ. Bởi lẽ đó mới có thể đẩy lùi thói ỷ lại vào cộng đồng, cũng là để phá
tan suy nghĩ ai cũng phải vì mình, ai cũng tìm cách thủ thân… chính ASXH là yếu
tố làm nên sự hịa đồng, mọi người khơng ai phân biệt hay kì thị dù khía cạnh nào.
Đồng thời, AXSH cũng giúp con người hướng tới một xã hội nhân ái, góp phần
kiến tạo nên đời sống phồn thịnh và cơng bằng.
Chính từ ASXH giúp chúng ta thấy được tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá
rách, “tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Việc
giúp đỡ những người kém may mắn cũng chính là để hồn thiện bản thân mỗi
người, hướng đến một xã hội phát triển tốt đẹp.
Một là, ASXH góp phần thực hiện cơng bằng và tiến bộ xã hội. Trong mỗi xã
hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp nhân
dân, nhất là đối với những người nghèo khó, những nhóm người yếu thế trong xã
hội. Ở góc độ kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành
15


viên trong xã hội, được thực hiện theo hai chiều ngang và dọc. Thường thì sự phân

phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền
hưởng trợ cấp, chẳng hạn sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân
phối lại giữa những người khỏe mạnh và người bệnh tật, giữa người đang làm việc
và người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người đang có gánh nặng
gia đình. Bên này là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ ASXH hoặc
đóng thế, cịn lại bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với các
điều kiện xác định.
Còn việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn, sự phân phối
lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua của những người
có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho những nhóm người yếu
thế. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện bằng nhiều phương thức, như trực
tiếp thu thuế, kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…, hoặc gián tiếp như trợ cấp
thực phẩm, cung cấp các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và
bảo vệ trẻ em.
Trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc vẫn còn gặp nhiều
khó khăn. Nhưng có thể thơng qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp để thực
hiện một số chế độ nhất định cho những người có thu nhập thấp. Có thể được miễn,
giảm chế độ đóng hoặc được người chủ sử dụng lao động, kể cả Nhà nước đóng cho
hồn tồn đối với những người có thu nhập thấp. Hệ thống trợ cấp cũng đặc biệt
nhấn mạnh tới những người có thu nhập thấp. Sự phân phối theo chiều ngang lẫn
theo chiều dọc đã thực sự tạo ra một lưới ASXH.
Hai là, ASXH góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Ngày nay con người
đã ý thức được rằng, sự phát triển của xã hội là một q trình, mà trong đó các nhân
tố kinh tế và nhân tố xã hội có sự tác động qua lại thường xuyên lẫn nhau. Với sự
phát triển của mình, thế giới hiện đại đã đặt ra mục tiêu cần phải có những cải thiện
nhất định để mang lại hạnh phúc cho mỗi người và đem lại lợi ích thiết thực cho
mọi người; hướng đến công bằng xã hội bằng cách bảo đảm phân phối công bằng
hơn về thu nhập và của cải; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng
và cải thiện về thu nhập, giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi
16



trường… Sự phát triển của những lưới ASXH đã làm nên sự đa dạng trong ASXH,
giải quyết được những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những hồn
cảnh gặp rủi ro. Tuy nhiên, phải khẳng định, ASXH không hồn tồn loại trừ được
sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần hạn chế, thúc đẩy q trình tiến bộ xã
hội thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất cho những người kém
may mắn là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những hệ
thống lưới đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ.
Ba là, ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người. Ở
xã hội nào cũng vậy, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những nhóm
người, những đối tượng khơng thể tự xoay sở, lo liệu được cho bản thân, cho cuộc
sống hoặc có biến cố nào đó trở thành những người “yếu thế” trong xã hội. Hệ
thống ASXH hình thành và phát triển trên cơ sở trong xã hội đó xuất hiện những
người yếu thế, những người kém may mắn thì cũng chính trong xã hội đó tự sinh ra
những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Tất nhiên, ASXH
là một quá trình phát triển từ giản đơn đến phức tạp, ngày càng phong phú, đa dạng
và hoàn thiện.

1.1.4. Cấu trúc, nội dung của hệ thống chính sách an sinh xã hội
Trong q trình tìm hiểu, phân tích về cấu trúc của hệ thống chính sách
ASXH, hiện vẫn còn nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau. Một hệ thống
ASXH theo quan điểm của quốc tế hiện nay thì bao giờ trong cấu trúc nội dung
cũng phải có ít nhất 03 hợp phần sau:
Thứ nhất, tầng trên cùng của hệ thống ASXH là những chương trình, chính
sách mang tính phịng ngừa rủi ro. Tầng này có vai trị là hướng tới sự can thiệp và
bao phủ toàn dân, giúp cho mọi người ai cũng có được việc làm, có thu nhập cơ
bản, có được năng lực vật chất cần thiết để ứng phó một cách tốt nhất với rủi ro.
Các chương trình, chính sách về thị trường lao động như đào tạo nghề, hỗ trợ tìm
việc làm, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động được

xem là trụ sở cơ bản nhất của hợp phần này.
Thứ hai, tầng kế tiếp của hệ thống ASXH là những chương trình, chính sách
mang tính chất giảm thiểu rủi ro là, tầng này có vị trí đặc biệt quan trọng với các
17


chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro. Chính sách thuộc tầng này rất nhạy cảm,
nếu thực sự phù hợp thì sẽ là địn bẩy cho sự tham gia tích cực của người dân, tiết
kiệm nguồn lực của Nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Trái lại, người dân sẽ
khơng tham gia nếu chính sách khơng phù hợp hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng. Các
hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng như: BHXH, BHYT, bảo
hiểm thất nghiệp… được xem là nội dung quan trọng nhất trong tầng này.
Thứ ba, tầng cuối cùng của hệ thống ASXH nhằm bảo vệ an toàn cho các
thành viên trong xã hội khi gặp phải rủi ro mà bản thân khơng tự mình khắc phục
được như: thất nghiệp, thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người
khuyết tật, trẻ em mồ côi, người nghèo. Tầng này là những chương trình, chính sách
nhằm khắc phục những rủi ro, trong đó cứu trợ xã hội và trợ giúp xã hội thường là
những chương trình chủ yếu trong hợp phần này.
Hệ thống ASXH của nước ta được xây dựng trên nền tảng quản lý những rủi
ro, đồng thời chú ý đặc biệt đến việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho các
tầng lớp nhân dân thông qua các chính sách cơ bản thuộc 04 nhóm sau:
Nhóm 1 - Là các chính sách việc làm đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo,
hướng đến việc hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro bằng cách tham gia
thị trường lao động để có việc làm, có thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững.
Nhóm 2 - Là các chính sách BHXH, nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro
khi bị bệnh tật, tai nạn lao động, tuổi già… bằng việc tham gia vào hệ thống BHXH
để chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất bởi các rủi ro trên.
Nhóm chính sách này được xem như một trong những tầng trụ cột quan trọng của
hệ thống ASXH.
Nhóm 3 - Là các chính sách trợ giúp xã hội như chính sách thường xuyên và

đột xuất nhằm hỗ trợ người dân khắc phục các rủi ro không lường trước hoặc vượt
quá khả năng kiểm soát. Tầng này đảm bảo được ít nhất mức sống tối thiểu cho các
đối tượng thuộc nhóm yếu thế cần trợ giúp xã hội có cuộc sống ổn định và có điều
kiện hịa nhập tốt hơn vào cộng đồng.

18


Nhóm 4 - Là các chính sách dịch vụ xã hội cơ bản nhằm tăng cường cho người
dân tiếp cận hệ thống dịch vụ cơ bản ở mức tối thiểu, bao gồm giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch và thơng tin truyền thơng.

1.1.5. Thực hiện chính sách an sinh xã hội và quy trình tổ chức thực hiện chính
sách an sinh xã hội
1.1.5.1. Thực hiện chính sách an sinh xã hội
Thực hiện chính sách ASXH được xem là một khâu hợp thành chu trình chính
sách, đó là tồn bộ q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành
hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã xác định từ trước.
Như vậy, thực hiện chính sách ASXH là việc đưa các chính sách ASXH vào
áp dụng trong thực tiễn, hoạt động này chủ yếu do các cơ quan Nhà nước thực hiện.
Trong q trình thực hiện các bước của chính sách ASXH cần phải có sự phối
hợp, gắn kết chặt chẽ. Đồng thời cần tạo sự linh hoạt, tránh cứng nhắc trong từng
giai đoạn thực hiện nhằm đảm bảo sự phù hợp với từng vùng miền, từng địa
phương. Đảm bảo chính sách ASXH đó đạt được mục tiêu cao nhất, đồng thời phù
hợp với điều kiện kinh tế, phong tục tập quán của từng nơi, từng dân tộc.
1.1.5.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội
Bước 1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách. Những cơ quan,
đơn vị thực thi chính sách từ cấp trung ương đến cơ sở đều phải xây dựng kế
hoạch và chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách có
những nội dung chủ yếu sau: kế hoạch tổ chức; xác định nguồn lực; xác định

thời gian triển khai; kế hoạch kiểm tra, đơn đốc thực thi chính sách; dự kiến
những nội quy, quy chế về tổ chức; về nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ, công
chức và các cơ quan Nhà nước tham gia: tổ chức điều hành chính sách; các biện
pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách.
Kế hoạch do cấp nào thực hiện thì sẽ do lãnh đạo ở cấp đó xem xét thơng qua.
Sau khi được quyết định thơng qua, kế hoạch thực hiện chính sách mang tính
pháp lý, được mọi người chấp hành thực hiện. Nếu điều chỉnh kế hoạch thực
hiện cũng do cấp có thẩm quyền thơng qua quyết định.
Bước 2: phân cơng, phối hợp trong việc thực hiện chính sách. Nếu muốn tổ
chức thực hiện chính sách một cách hiệu quả phải có sự phân cơng, phối hợp giữa
19


các cơ quan các cấp, các ngành, các yếu tố có mặt trong việc thực hiện chính sách
và các q trình tác động đến thực hiện mục tiêu của chính sách. Thường hay phân
cơng cơ quan chủ trì phối hợp cùng các cơ quan để thực hiện một chính sách nào đó
cụ thể. Việc phân cơng và phối hợp thực hiện phải đảm bảo đúng theo tiến trình,
chủ động trong xây dựng kế hoạch, linh hoạt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính
sách, đảm bảo ổn định thực hiện chính sách đó. Các chính sách có thể ảnh hưởng
đến lợi ích của một nhóm người dân, nhưng kết quả ảnh hưởng sẽ liên quan đến
nhiều yếu tố, quá trình khác nhau, do đó phải kết hợp chúng lại để đạt được yêu cầu
quản lý.
Bước 3: phổ biến, tuyên truyền chính sách được xem là một cơng tác đóng vai
trị lớn lao và quan trọng đối với các cơ quan Nhà nước và cả bộ phận thực hiện
chính sách. Để một chương trình chính sách đạt hiệu quả như mục tiêu đã đưa ra thì
một u cầu tất yếu đó là phải phổ biến, tuyên truyền nội dung, mục đích, yêu cầu,
đối tượng thụ hưởng… cho tất cả các chủ thể trong chính sách hiểu rõ về mục đích,
yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hồn cảnh
nhất định và về tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu
quản lý của Nhà nước. Việc tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách góp phần

làm cho cán bộ nhận thức đầy đủ về chính sách với đời sống xã hội thơng qua tính
chất, trình độ, quy mơ, từ đó nâng cao trách nhiệm tranh thủ đề xuất các cách làm
thích hợp nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách và tổ chức triển khai có hiệu
quả kế hoạch tổ chức thực hiện các chính sách.
Bước 4: theo dõi, kiểm tra, đơn đốc thực hiện chính sách. Do có sự khác biệt về
trình độ, năng lực của cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước về khả năng
điều hành và tổ chức nên các cơ quan Nhà nước có chức năng cần thực hiện việc theo
dõi kiểm tra, nhắc nhở việc thực thi chính sách. Bằng việc đôn đốc và kiểm tra các
mục tiêu, biện pháp chủ yếu của chính sách để thường xuyên nhắc nhở những người,
những bộ phận thực thi chính sách lưu ý đặc biệt đến nội dung quan trọng trong quá
trình tổ chức thực thi. Kiểm tra, theo dõi sâu sát tình hình tổ chức thực thi chính sách
để bổ sung kịp lúc, hồn thiện chính sách, chỉnh đốn cơng tác tổ chức thực thi chính
sách, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách.
20


Bước 5: đánh giá, tổng kết kinh nghiệm trong bước tổ chức thực thi chính sách
xác định là q trình xem xét, kết luận về công tác chỉ đạo, điều hành và chấp hành
chính sách của những người thực thi chính sách. Đánh giá, tổng kết về cơng tác chỉ
đạo tổ chức thực thi chính sách đối với các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến cơ
sở và cả vai trị của các tổ chức đồn thể, chính trị - xã hội trong q trình tham gia
thực thi chính sách. Có thể nói, kế hoạch và những nội quy, quy chế được xây dựng
ở bước 2 của phần này chính là cơ sở để xem xét, đánh giá và tổng kết cơng tác chỉ
đạo, điều hành thực thi chính sách trong các cơ quan Nhà nước. Mặt khác, phải kết
hợp sử dụng các văn bản phối hợp, liên ngành giữa cơ quan Nhà nước với các tổ
chức đoàn thể, chính trị - xã hội cùng các văn bản quy phạm khác để xem xét tình
hình phối hợp chỉ đạo, tổ chức thực thi chính sách của các tổ chức đồn thể, chính
trị - xã hội với Nhà nước.
Song song với công tác sơ, tổng kết và đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành đối
với cơ quan Nhà nước, chúng ta còn đánh giá việc thực thi của các đối tượng thụ

hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách, tức là với tư cách là cơng dân đối
với tất cả các thành viên trong xã hội. Thái độ hưởng ứng chính sách và ý thức chấp
hành những nội dung quy định về cơ chế, phương pháp do cơ quan chức năng ban
hành nhằm hiện thực hoá mục tiêu chính sách trong khoảng khơng gian và thời gian
nhất định chính là thước đo đánh giá kết quả thực thi chính sách.
Bước 6: là hoạt động nhằm làm cho chính sách tồn tại và phát huy được tác
dụng trong thực tiễn đời sống, đó chính là việc duy trì chính sách. Cần có sự đồng
lịng của bộ phận tiến hành tổ chức, người thực thi và cả không gian tồn tại của
chính sách. Những người trực tiếp tổ chức thực thi chính sách, tức trong các cơ
quan Nhà nước phải luôn luôn bám sát việc tuyên truyền, vận động tồn dân và đối
tượng chính sách tích cực tham gia thực thi chính sách. Q trình thực thi chính
sách nếu có phát sinh những vướng mắc cần tháo gỡ thì các cơ quan Nhà nước dùng
hệ thống cơng cụ quản lý để tác động lên nhằm làm cho môi trường thuận lợi hơn
cho việc thực thi chính sách. Ở mức độ nào đó nhằm làm cho lợi ích chung tồn
dân, các cơ quan Nhà nước có thể dùng đến biện pháp hành chính để duy trì chính

21


sách. Tất cả những cách làm đó, nếu thực hiện một cách đồng bộ sẽ góp phần tích
cực vào việc duy trì chính sách trong đời sống xã hội.
1.2. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về an sinh
xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số

1.2.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ASXH là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực
lượng xã hội thực hiện nhằm bảo đảm cho mọi người dân có được mức tối thiểu về
thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu
như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... bằng việc làm cho người dân có
khả năng tự an sinh và sự hỗ trợ của Nhà nước. Xây dựng hệ thống ASXH đa dạng,

toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội
và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là
mục tiêu hướng đến của các quốc gia trên tồn thế giới. Bởi lẽ đó, chính sách
ASXH cần tập trung vào 04 nội dung chính như sau:
Một là, tạo được việc làm, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giảm nghèo
một cách bền vững cho người lao động yếu thế bằng các hỗ trợ cá nhân và hộ gia
đình trong sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và cung cấp thông tin về thị
trường lao động.
Hai là, tăng cường cho người lao động có thêm cơ hội tham gia BHXH, bảo
hiểm thất nghiệp để sẵn sàng ứng phó nếu nguồn thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất
do các rủi ro gây ra như ốm đau, già cả hay bị tai nạn lao động.
Ba là, thường xuyên quan tâm hỗ trợ cho người có hồn cảnh đặc thù và kịp
thời giúp đỡ đột xuất cho những người dân khi họ gặp các rủi ro không lường trước
được hoặc vượt quá khả năng kiểm sốt như mất mùa, đói kém, thiên tai, dịch
bệnh…, bằng các khoản tiền mặt và hiện vật do Nhà nước bảo đảm bằng nguồn
ngân sách.
Bốn là, giúp người dân tiếp cận nhiều hơn đối với hệ thống dịch vụ xã hội cơ
bản như giáo dục, nhà ở, nước sạch, y tế, vệ sinh môi trường và thông tin.
Đảng và Nhà nước đã sớm coi nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt như diệt giặc
ngoại xâm ngay sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành cơng, khi đó ứng phó
22


với giặc đói đã được đặt lên hàng đầu. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln mong
muốn “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [44, tr.187].
Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) khẳng định: “Chính sách xã hội bảo đảm và khơng ngừng nâng cao đời
sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi,
chữa bệnh và nâng cao thể chất... Có chính sách bảo trợ và điều tiết hợp lý thu

nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng” [30, tr.143-145].
Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (được bổ sung, phát triển năm 2011), lần đầu tiên đặc biệt đã nhấn mạnh
tuyên bố cần phải: “Hoàn thiện hệ thống ASXH”.
Cụm từ “ASXH” được chính thức sử dụng trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng vào tháng 4 năm 2001: “Khẩn trương mở rộng hệ thống
BHXH và ASXH. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp”.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng năm 2006 đã đưa ra tư
tưởng chỉ đạo có tính chất định hướng chiến lược: “Thực hiện tốt chính sách xã hội
trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ,
tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển KT-XH”. Đặt ra mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,... giải quyết tốt các vấn đề xã
hội có ý nghĩa chiến lược, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường, nhất là vấn đề việc làm, giảm thất nghiệp, ưu đãi người có cơng, xóa đói
giảm nghèo, bảo trợ xã hội, phịng chống tệ nạn xã hội... vào năm 2020.
Và Nghị quyết Đại hội X của Đảng đề ra rằng: “Xây dựng hệ thống ASXH đa
dạng, phát triển mạnh hệ thống BHXH, BHYT, tiến tới BHYT tồn dân…; đa dạng hóa
các loại hình cứu trợ xã hội”. Đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 6 (Khóa X) một lần nữa lại nhấn mạnh nội dung: “Từng bước mở rộng và
cải thiện hệ thống ASXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng
lớp nhân dân trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”.
Nhận thức về vai trị hệ thống chính sách ASXH khơng ngừng được hồn
thiện, nâng lên tầm chiến lược về phát triển hệ thống chính sách ASXH trong giai

23


×