Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk – những phân tích và so sánh xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.29 KB, 16 trang )

1

Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê
trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk – những phân tích và
so sánh xã hội học


Nguyễn Minh Tuấn

Trường Đại Khoa học xã hội và Nhân Văn
Luận văn ThS. Xã hội học; Mã số: : 62 31 30 01
Người hướng dẫn: PGS.TS Đặng Cảnh Khang, PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Năm xuất bản: 2013
183tr.


Abstract: Xác định cơ sở lý luận (hệ lý thuyết và khái niệm) làm nền tảng cho nghiên cứu về
biến đổi đời sống xã hội của nhóm dân tộc thiểu số. Mô tả thực trạng đời sống của đồng bào
dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk trên hai phương diện kinh tế (cơ sở hạ tầng, điều kiện
nhà ở, tiện nghi sinh hoạt hộ gia đình, thu nhập của hộ gia đình) và phi kinh tế (giáo dục, y
tế, nghỉ ngơi giải trí, sinh hoạt cộng đồng và bình đẳng giới trong gia đình). So sánh hiện
trạng đời sống của người Êđê hiện nay với thời điểm 5 năm trước. So sánh hiện trạng đời
sống của người Êđê tại thành phố Buôn Ma Thuột và của người Êđê tại huyện Krông Ana,
tỉnh Đăk Lăk. Phân tích một số yếu tố tác động tới sự biến đổi đời sống của người dân tộc
Êđê tại Đăk Lăk, bao gồm: chính sách xã hội, quá trình đô thị hóa, toàn cầu hóa, giao lưu và
tiếp biến văn hóa, và một số đặc trưng nhân khẩu xã hội của người Êđê (tuổi, giới tính, trình
độ học vấn, nghề nghiệp).

Keywords:Dân tộc Êđê; Xã hội học; Chính sách xã hội

Content:


1. Lý do chọn đề tài
Năm 1986, Việt Nam tiến hành đường lối đổi mới nền kinh tế, từ cơ chế kinh tế nhà nước tập
trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi ấy đã mang lại nhiều
thành quả rực rỡ trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội. Trong thực tế, quá trình đổi
mới trong gần3 thập kỷ qua đã tạo ra một bộ mặt mới cho xã hội Việt Nam. Các thành tựu to lớn về
mặt kinh tế đã khiến cho Việt Nam ngày càng trở nên thịnh vượng. GDP trung bình hàng năm tăng
khoảng 7%, tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn mới năm 2011 còn 10%. Rõ ràng là những biến đổi văn hoá -
xã hội đã tác động rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quá trình đổi mới đã đưa
đến những hệ quả khác nhau đối với các nhóm và tổ chức xã hội khác nhau.
2

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Dân số của các cộng đồng dân tộc ở Việt Nam rất chênh
lệch với nhau: bên cạnh dân tộc Kinh chiếm đa số, một số dân tộc có số dân trên một triệu như Tày,
Thái, Hoa, Mường, Dao, H Mông, nhưng cũng có những dân tộc chỉ có một vài ngàn người như La
Ha, Mảng, Kháng, La Hủ, hoặc thậm chí vài ba trăm người như Ơ – đu, Brâu, Sila) (Phạm Xuân Nam,
2001). Trong số 54 dân tộc chung sống ở Việt Nam, dân tộc Kinh chiếm phần lớn với 86% dân số và
có trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế và giáo dục cao hơn. Trừ người Kinh, người Hoa,
người Khơ-me và người Chăm, 50 dân tộc còn lại chủ yếu sinh sống ở vùng nông thôn hoặc miền núi
xa xôi và chịu những bất lợi về xã hội và kinh tế ở những mức độ khác nhau. Tỉ lệ nghèo của nhóm
đồng bào các dân tộc thiểu số cao hơn 4-5 lần so với đồng bào người Kinh và Hoa. Nhóm đồng bào
dân tộc thiểu số cũng có tỉ lệ suy dinh dưỡng, mù chữ và bệnh tật cao hơn. Việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của các dân tộc thiểu số để rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa họ và người Kinh
cũng như giữa họ với nhau là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Quan điểm định hướng về chính sách dân tộc giai đoạn 2011 – 2020 của Đảng và Nhà Nước hướng
đến việc tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phát triển toàn diện, bền vững kinh tế - xã hội,
môi trường ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chú ý đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo điều
kiện cho đồng bào nâng cao dân trí, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tiếp cận và thụ hưởng các
dịch vụ công cộng, phát uy các giá trị đạo đức và văn hóa tốt đẹp của các dân tộc (Lê Duy Đồng, Bùi
Sỹ Lợi, 2011).
Đăk Lăk là tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên của Việt Nam, trước khi tách tỉnh, Đăk Lăk là tỉnh

chiếm diện tích lớn nhất cả nước, sau khi tách tỉnh thành Đăk Lăk và Đăk Nông diện tích của Đăk Lăk
bị thu hẹp nhưng cũng thuộc vào những tỉnh có diện tích lớn (13.125,4km2; chỉ xếp sau Nghệ An, Gia
Lai và Sơn La). Trung tâm của tỉnh Đăk Lăk là thành phố BMT, một thành phố trẻ mới được hơn 10
năm tuổi. Trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk có 44 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó người Kinh vẫn
chiếm đa số nhưng chỉ chiếm 70% (so với tỷ lệ chung trong cả nước là 86%). Êđê là dân tộc thiểu số
có số lượng người chiếm tỷ lệ cao nhất tại Đăk Lăk với 17,2% tổng dân số toàn tỉnh và 70% tổng dân
số các dân tộc thiểu số sinh sống tại đây. Sự đa dạng trong thành phần dân tộc trên địa bàn tỉnh Đăk
Lăk đã tạo một nền văn hóa phong phú nhiều bản sắc. Đi liền với sự đa dạng của các thành phần dân
tộc đã nảy sinh rất nhiều vấn đề xã hội đặt ra với việc quản lý của chính quyền địa phương nói riêng và
Trung ương nói chung. Việc quản lý một địa bàn với rất nhiều các dân tộc anh em cùng sinh sống là
một điều không dễ đối với các cấp quản lý.
Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, với cơ chế mở, bà con dân tộc đã được tạo
điều kiện nhiều hơn để phát triển về mọi mặt, từ đời sống vật chất đến tinh thần. Những chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho bà con đân tộc phát huy được các nguồn lực sẵn
có và tạo ra những nguồn lực mới. Từ cuộc sống thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nay
đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Êđê ở Đăk Lăk nói riêng đã có thể nghĩ đến
những nhu cầu cao hơn phục vụ cho cuộc sống, có những gia đình đã có thể mua sắm được ôtô vừa
phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ cho sinh hoạt, những tiện nghi sinh hoạt gia đình như xe máy, tivi,
tủ lạnh… đã không còn xa lạ đối với bà con dân tộc. Các hộ gia đình đã có của ăn của để, cuộc sống
đã khấm khá lên rất nhiều. Những buôn làng với hệ thống giao thông thuận tiện, những ngôi nhà tầng
khang trang, những cửa hàng, trung tâm mua bán, dịch vụ …đã và đang xuất hiện ngày một nhiều. Bộ
mặt của các buôn làng đang thay đổi từng ngày.
Nói tóm lại, chỉ cần qua những quan sát thông thường chúng ta cũng có thể nhận thấy đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số (cụ thể ở đây là đồng bào Êđê) ở Đăk Lăk đang có những thay
đổi tích cực nhờ những chính sách đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành được hơn 20 năm
nay. Tuy nhiên, hiện trạng cụ thể đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của đồng bào dân tộc Êđê tại
3

Đăk Lăk đang thể hiện ra sao? Liệu có sự khác biệt đáng kể nào trong hiện trạng đời sống của người
Êđê sinh sống tại thành phố BMT với người Êđê sinh sống tại các huyện miền núi của tỉnh Đăk Lăk?

Nguyên nhân của những khác biệt ấy (nếu có) và những biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách?
Đó là những câu hỏi thôi thúc tôi lựa chọn đề tài "Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa
bàn tỉnh Đăk Lăk- những phân tích và so sánh xã hội học " để nghiên cứu.
Bên cạnh đó, xã hội học về tộc người, về các nhóm dân tộc thiểu số, tuy là một chuyên ngành
quan trọng trong hệ thống tri thức xã hội học, nhưng dường như còn chưa nhận được sự quan tâm
thích đáng trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu của bộ môn khoa học Xã hội học tại Việt Nam.
Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả muốn đóng góp một phần nhỏ vào hệ thống tri thức lý
luận và thực tiễn của chuyên ngành xã hội học về tộc người, về các nhóm thiểu số cho việc đẩy mạnh
nghiên cứu và hình thành chương trình giảng dạy chuyên ngành này trong tương lai.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu và những đóng góp mới của luận án
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Khối đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em tại Việt Nam
cũng như đời sống kinh tế – văn hoá - xã hội của từng dân tộc đã trở thành chủ đề nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học, nhiều nhà khoa học. Tây Nguyên là một vùng lãnh thổ có tầm quan trọng đặc
biệt trên mọi phương diện, nên thu hút được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng với sự ra đời và phát triển của nhiều ngành khoa học với
chuyên ngành hẹp, đã thúc đẩy sự hình thành những nghiên cứu chuyên biệt về dân tộc – miền núi nói
chung và Tây Nguyên nói riêng. Ở miền Bắc, sau 1954 đã từng bước hình thành chuyên ngành dân tộc
học với những nghiên cứu bước đầu về lịch sử các tộc người thiểu số. Song do hoàn cảnh đất nước bị
chia cắt, các nghiên cứu này còn rất hạn chế. Phải đến sau ngày đất nước thống nhất (1975), giới khoa
học nước ta mới có điều kiện đi sâu nghiên cứu khu vực Tây Nguyên, với cả những chuyên khảo tổng
hợp và nghiên cứu chuyên biệt từng khía cạnh xã hội các dân tộc thiểu số.
Đáng chú ý trong số này là: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)” [1984] của
tập thể tác giả; “Quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam” [1982] của Phan Huy Lê;
“Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam” [2003] của Đặng Nghiêm Vạn, Trong những công trình này,
các tộc người thiểu số Tây Nguyên được đề cập ở những nét chung nhất về tộc người, nhóm ngôn ngữ,
cơ tầng văn hoá, Cũng có những nghiên cứu chuyên sâu về một địa phương hoặc một dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên như Bế Viết Đẳng và Chu Thái Sơn với “Đại cương về các dân tộc Êđê và M’nông ở
Đắk Lắk” [1982]; Đặng Nghiêm Vạn với “Các dân tộc tỉnh Gia Lai – Kon Tum” [1981]; Khổng Diễn
với “Các dân tộc vùng Trường Sơn – Tây Nguyên” [1984] Có thể thống kê nhiều hơn nữa các công
trình loại này, song đây là những nghiên cứu tổng hợp, nên chỉ mang đến những nhận thức khái quát

về đặc điểm văn hoá - xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, chưa thể đi sâu vào từng khía cạnh cụ
thể của vấn đề phát triển xã hội trong đời sống đương đại.
Những nghiên cứu đề cập tổng quan về tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở Tây Nguyên,
mà ở đó các vấn đề xã hội thường có vị trí nổi bật. Đáng chú ý là nghiên cứu của Uỷ ban khoa học xã
hội Việt Nam: “Một số vấn đề kinh tế xã hội Tây Nguyên” [1989]; của Nguyễn Văn Tiêm và các tác
giả khác: “Báo cáo kết quả thực hiện dự án “Điều tra đánh giá tác động của quá trình phát triển kinh
tế – xã hội đến đời sống của các dân tộc bản địa Tây Nguyên trong những năm đổi mới” [1998]; ở
đây, các yếu tố xã hội không nghiên cứu riêng biệt, mà được đặt trong mối quan hệ với các yếu tố
chính trị và kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rõ những chuyển biến to lớn của tình hình Tây
Nguyên sau một quá trình thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, đặc biệt từ khi có Quy hoạch phát
triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên (1998). Bên cạnh đó, các tổng kết này cũng chỉ rõ những tác
4

động của điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán, trình độ dân trí và trình độ kinh tế, Trên cơ sở đó,
có khuyến nghị điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Một số tác giả đã nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của phát triển xã hội ở Tây Nguyên
như phát triển giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, lao động việc làm. Đáng chú ý là nghiên cứu của Lê
Văn Định và Nguyễn Thị Hải Yến: “Xoá đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum
hiện nay” [2002]; của Trần Văn Chử: “Di dân với quá trình phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ tài
nguyên môi trờng ở nước ta hiện nay” [2000]; của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia:
“Một số vấn đề phát triển kinh tế – xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên” [2002]; của Mai Văn
Mô: “Nâng cao dân trí, động lực phát triển đời sống các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” [2004];
Ngoài ra, còn có thể kể đến hàng loạt các bài báo về vấn đề này như "Một số vấn đề về thành phần
dân tộc của Tây Nguyên" của Bế Việt Đằng đăng trên tạp chí Dân tộc học số 1 năm 1978;"Vấn đề dân
số với sự phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc ít người ở Tây Nguyên" của Phạm Thanh Khiết, tạp
chí Dân tộc học số 1 năm 1996; "Khảo sát về sự phát triển kinh tế xã hội ở một số tỉnh Tây Nguyên"
của Hồ Tấn Sáng, Tạp chí Cộng sản số 12 năm 1995; hay "Đặc điểm những hoạt động sản xuất cổ
truyền của các dân cư Tây Nguyên" - Đặng Nghiêm Vạn, Tạp chí Dân tộc học số 4 năm 1979… Các
bài báo này chủ yếu đề cập đến một số khía cạnh đời sống và sản xuất của các dân tộc thiểu số sinh
sống ở khu vực Tây Nguyên.

Bên cạnh việc khẳng định mặt thành công, các nghiên cứu này cũng không né tránh mặt chưa
thành công trong xây dựng và phát triển xã hội ở Tây Nguyên, một số bất cập nảy sinh ở Tây Nguyên
cũng đã được chỉ ra, đó là: dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực không đồng đều, đói nghèo ở vùng
sâu, vùng xa; bản sắc văn hoá dân tộc bị xâm hại nghiêm trọng; di dân diễn biến phức tạp và khó quản
lý; chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào chưa xứng tầm; ứng dụng khoa học& công nghệ còn hạn chế
Với địa bàn tỉnh Đăk Lăk cũng như về dân tộc Êđê nói riêng, cũng có nhiều công trình nghiên
cứu dưới các góc độ và về các lĩnh vực khác nhau.
Về các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk, cũng đã có nhiều đề tài nghiên
cứu quan tâm tới như "Nghiên cứu Khảo cổ học thời tiền sử ở Đăk Lăk" - đề tài nghiên cứu khoa học
của Viện Khảo cổ học Việt Nam thực hiện năm 2003 với những nét phác thảo về sự phân bố dân cư,
hoạt động kinh tế cũng như tổ chức xã hội của các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn tỉnh Đăk
Lăk; báo cáo khoa học của Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk năm 2003 với đề tài "Vấn đề xây dựng buôn
văn hoá ở nông thôn tỉnh Đăk Lăk" cũng đem lại cho chúng ta cái nhìn phổ quát về đời sống văn hoá
ở các buôn làng tỉnh Đăk Lăk, chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển đời sống
văn hoá cộng đồng tại đây như phương thức sinh hoạt khép kín, tự cung tự cấp; văn hoá mang tính
truyền miệng và sử dụng vật liệu không bền của các dân tộc bản địa; phương thức sinh hoạt kinh tế
nương rẫy; quá trình xây dựng xã hội mới cùng với những biến đổi xã hội chung của tỉnh và cả nước.
Với luận án tiến sỹ khoa học Triết học mang chủ đề "Mối quan hệ giữa truyền thống du canh du cư và
phương thức định canh định cư hiện nay của đồng bào dân tộc ở Đăk Lăk", tác giả Nguyễn Văn
Tuyên đã phân tích và đánh giá sự vận dụng mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong công tác
vận động định canh định cư cho đồng bào dân tộc ở Đăk Lăk đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm thúc
đẩy nhanh quá trình phát triển định canh định cư ở Đăk Lăk theo hướng hiện đại hoá. Kỷ yếu hội thảo
khoa học của trường Đại học Tây Nguyên (2007) về “Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc Tây
Nguyên” với 34 tham luận của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn đã cung cấp một
bức tranh khá toàn diện về các khía cạnh đời sống văn hóa xã hội của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
cũng như chỉ ra những đòi hòi cấp thiết trong việc duy trì, bảo tồn và phát huy những nét đẹp trong
văn hóa truyền thống của các dân tộc này.
5

Riêng về dân tộc Êđê - một dân tộc bản địa có số dân sinh sống đông nhất trong số các dân tộc

thiểu số tại Đăk Lăk, những nghiên cứu về mọi mặt đời sống của họ có thể được kể đến như nghiên
cứu của Bế Viết Đẳng và các tác giả khác "Đại cương về các dân tộc Êđê, Mnông ở Đăk Lăk", NXB
KHXH, HN 1982 với 4 phần viết về diều kiện tự nhiên và dân cư, sản xuất kinh tế, các quan hệ xã hội,
văn hoá dân gian và những biến đổi kinh tế xã hội trong đời sống của người Êđê hay "Người Êđê một
xã hội mẫu quyền" của Anne de Hautecloque -Howe, NXB Văn hoá dân tộc, HN 2004. Những công
trình này đã phác họa được một cách khái quát đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của người Êđê với
những đặc trưng rất riêng biệt như cách canh tác rẫy hma, cách phân chia các thị tộc theo dòng họ mẹ,
cư trú tập trung trong những ngôi nhà dài, hoạt động cưới hỏi, lễ nghi theo chế độ mẫu hệ. Nguyễn
Văn Diệu với “Những biến đổi kinh tế xã hội ở các dân tộc Êđê, M’Nông tỉnh Đăk Lăk” [1992] đã mô
tả và phân tích đặc điểm kinh tế xã hội truyền thống và những biến động của nó dưới sự tác động của
chủ nghĩa thực dân cũ và mới và chỉ rõ những biến đổi trong đời sống của đồng bào dân tộc Êđê và
M’Nông tại Đăk Lăk trong giai đoạn 1945-1990.
Bên cạnh các công trình có tính khái quát nêu trên, còn rất nhiều công trình nghiên cứu các
khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội dân tộc Êđê như những nghiên cứu về các hình thức canh tác
và sinh hoạt của người Êđê "Khảo sát định canh định cư ở một số buôn làng Êđê tại Đăk Lăk" - Thu
Nhung Mlô, đề tài khoa học, trường ĐH Tây Nguyên, "ít nét về trạng thái sinh hoạt trong buôn làng
Êđê trước ngày giải phóng" - Nguyễn Nam Tiến, tạp chí Dân tộc học, số 3 năm 1979, và "Những nghi
lễ trong chu kỳ canh tác rẫy của người Êđê huyện KrôngBuk, Đăk Lăk" - Vũ Đình Lợi, tạp chí Dân tộc
học số 1 năm 1996; nghiên cứu bản thân ngôi nhà dài - một đặc trưng văn hoá rất riêng của người Êđê
với"Ngôi nhà dài Êđê như là một phản ánh xã hội" - Chu Thái Sơn, tạp chí Dân tộc học số 4 năm 1980
hay "Đôi nét về kiến trúc của người Êđê", Tạp chí Khoa học xã hội, số 19 năm 1994, "Quá trình phân
rã của tổ chức nhà dài Êđê", tạp chí Dân tộc học, số 2 năm 1990 cùng của tác giả Nguyễn Thị Hoà;
các quan hệ hôn nhân, thân tộc, dòng họ của người Êđê cũng được quan tâm tới bởi nhiều tác giả như
Nông Hoàng Cư với "Mấy nhận xét về hôn nhân và gia đình của người Êđê", tạp chí Dân tộc học, số 3
năm 1983, Vũ Đình Lợi với "Sự phát triển dòng họ ở người Êđê tỉnh Đăk Lăk - nguyên nhân và hệ
quả" tạp chí Dân tộc học, số 3 năm 1983, hay Nguyễn Thị Hoà "Tìm hiểu hệ thống thân tộc người Êđê
tỉnh Phú Khánh", tạp chí Dân tộc học số 1 -2 năm 1988.
Văn hoá dân gian Êđê là cả một mảng đề tài phong phú và thú vị bởi nền văn hoá của dân tộc
thiểu số này hết sức độc đáo và đa dạng. Tác giả Ngô Đức Thịnh với "Văn hoá dân gian Êđê", NXB
Dân tộc học, HN 1992 đã dành trọn 7 chương sách để viết về kho tàng văn hoá Êđê với truyện cổ, sử

thi khan, Klây duê lời nói vần, kiến trúc và mỹ thuật Êđê cũng như các luật tục và lễ thức trong đời
sống cá nhân và cộng đồng bởi theo ông "có lẽ không sai khi nói rằng, trong các dân tộc thiểu số ở
nước ta, dân tộc Êđê có một nền văn hoá dân gian thật phong phú, đa dạng, thấm đẫm những giá trị
nhân bản, tiêu biểu cho một trình độ phát triển văn hoá các dân tộc ở Việt Nam". Tác giả này và
Nguyễn Thị Hoà với luận án tiến sỹ chuyên ngành dân tộc học "Nhà ở và sinh hoạt trong nhà của
người Êđê ở Việt Nam", Trung tâm KHXH&NV TPHCM, 1996 đều thống nhất một nhận định rằng
vốn văn hoá, văn nghệ dân gian của người Êđê rất độc đáo và phong phú nhưng trong xu thế hiện nay,
những mất mát, biến đổi là không thể tránh khỏi. Có những biến đổi là những chuyển biến tích cực,
tạo điều kiện cho người Êđê dễ dàng tiếp cận với sự phát triển, nhanh chóng hoà nhập cùng sự tiến bộ
của cả nước nói chung. Tuy nhiên, cũng có những biến đổi là sự mất đi những đặc trưng văn hoá
truyền thống tốt đẹp vốn đã tạo nên những nét rất riêng cho dân tộc thiểu số này.
Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù tạo nên một mảng đề tài rất phong phú, hấp dẫn và đã được
rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhưng dường như đời sống của dân tộc Êđê thường được
6

nhìn nhận, nghiên cứu dưới góc độ văn hoá nhiều hơn. Góc nhìn xã hội học về đời sống của đồng bào
dân tộc thiểu số này có vẻ như vẫn còn là một mảnh đất đang bỏ ngỏ.
Gần gũi với xã hội học, một công trình nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, nhân học và dân tộc
học, luận án tiến sỹ lịch sử của Thu Nhung Mlô với đề tài “Người phụ nữ Êđê trong đời sống xã hội
tộc người” (2001) đã cũng cấp những phân tích khá đầy đủ và hệ thống về người phụ nữ Êđê dưới góc
độ dân tộc học trong bối cảnh xã hội mẫu hệ truyền thống cũng như hiện đại để thấy được những biến
đổi đang xảy ra trong lòng xã hội đó. Cùng một mảng đề tài về người phụ nữ Êđê, còn có thể kể đến
“Mẫu hệ, phụ nữ Êđê và kinh tế hộ gia đình” của Nguyễn Thị Hạnh (2004) nghiên cứu về chế độ mẫu
hệ, về giới và về mô hình phát triển vì lợi ích của cả hai giới; giới thiệu văn hoá mẫu hệ Êđê truyền
thống, phụ nữ Êđê ngày nay cũng như vai trò của phụ nữ Êđê trong hoạt động kinh tế và một số giải
pháp nhằm nâng cao vị trí người phụ nữ Êđê trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Ngoài ra, còn có thể
kể đến một công trình chuyên khảo với cách tiếp cận tổng hợp “Cộng đồng dân tộc Êđê ở tỉnh Đăk
Lăk hiện nay (Hà Đình Thành, 2012) với hai điểm nhấn về cộng đồng dân tộc Êđê trong đời sống
chính trị xã hội của tỉnh Đăk Lăk và các nhân tố tác động tới cộng đồng dân tộc Êđê hiện nay bao gồm
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự di dân tự do, âm mưu chia rẽ của các thế lực phản

động, sự phát triển kinh tế xã hội và yếu tố tôn giáo.
Luận văn thạc sỹ của chính tác giả "Tác động của các nhân tố kinh tế - xã hội tới đời sống của
đồng bào dân tộc Êđê" (nghiên cứu trường hợp thành phố BMT), thực hiện năm 2007 có thể coi là
công trình xã hội học đầu tiên nghiên cứu về đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk. Công trình
này đã đóng góp một cái nhìn dưới góc độ xã hội học về đời sống của đồng bào dân tộc Êđê tại thành
phố BMT, phân tích những tác động tích cực cũng như tiêu cực của một số nhân tố kinh tế – xã hội tới
đời sống của bà con dân tộc và góp phần đưa ra một số giải pháp phát huy các tác động tích cực, hạn
chế các tác động tiêu cực tiến tới nâng cao chất lượng cuộc sống cho bà con dân tộc tại địa bàn nghiên
cứu.
Trên cơ sở những nền tảng của nghiên cứu đi trước, tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài “Đời
sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk: những phân tích và so sánh xã hội
học”, tiếp tục đi vào tìm hiểu đời sống của đồng bào dân tộc Êđê tại Đăk Lăk với địa bàn nghiên cứu
mở rộng hơn trước (không chỉ dừng lại ở thành phố BMT mà còn tiến hành tại huyện Krông Ana) và
tiến hành những so sánh theo 2 trục thời gian và không gian, cũng như phân tích những yếu tố khách
quan và chủ quan tác động tới đời sống của người Êđê tại Đăk Lăk để hiểu rõ hơn những biến đổi
trong mọi mặt đời sống của đồng bào dân tộc Êđê tại địa bàn nghiên cứu.
Như vậy, điểm mới của luận án so với các công trình nghiên cứu đi trước của các tác giả khác
chính là nỗ lực nhìn nhận các khía cạnh của đời sống cũng như sự biến đổi và chỉ ra được những yếu
tố tác động tới đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk từ góc độ xã hội học, vận dụng các lý
thuyết xã hội học vào việc lý giải những phát hiện từ nghiên cứu, sử dụng các phương pháp điều tra xã
hội học để thu thập và xử lý thông tin. Đề tài là một công trình xã hội học chuyên sâu về đời sống của
một nhóm dân tộc thiểu số, qua đó góp thêm một góc nhìn đối với đời sống của các nhóm dân tộc
thiểu số ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Đề tài "Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk- những phân tích và
so sánh xã hội học " là việc vận dụng các lý thuyết XHH nói chung và các lý thuyết XHH trong lĩnh
vực văn hóa và dân tộc nói riêng để giải quyết vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình hội nhập của các
nhóm dân tộc thiểu số vào sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội chung của cả nước.
7


Những nghiên cứu và phân tích thực tiễn của đề tài sẽ cung cấp dữ liệu phác thảo bức tranh
chung về đời sống muôn màu muôn vẻ của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk, cũng như chỉ ra một số yếu
tố tác động tới đời sống của họ, từ đó góp phần tạo cơ sở cho việc hoạch định chính sách nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhóm người dân tộc thiểu số cũng như thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa họ với nhóm người Kinh.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hướng đến đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi sau:
4.1 Thực trạng đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk hiện nay như thế nào?
4.2 Có những thay đổi nào trong đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk trong khoảng
thời gian 5 năm (từ 2006 – 2011)?
4.3 Tồn tại những khác biệt nào trong đời sống của người dân tộc Êđê tại thành phố BMT và
người dân tộc Êđê tại huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk?
4.4 Có những yếu tố cơ bản nào tác động tới đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk?
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk với những so
sánh trên hai trục thời gian và không gian, qua đó chỉ ra một số yếu tố tác động tới đời sống của người
dân Êđê tại đây, trên cơ sở đó, đề xuất các khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
của đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại Tây Nguyên nói chung và đồng bào Êđê tại Đăk Lăk nói
riêng.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài hướng tới giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận (hệ lý thuyết và khái niệm) làm nền tảng cho nghiên cứu về biến đổi
đời sống xã hội của nhóm dân tộc thiểu số;
- Mô tả thực trạng đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk trên hai
phương diện kinh tế (cơ sở hạ tầng, điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt hộ gia đình, thu nhập của hộ
gia đình) và phi kinh tế (giáo dục, y tế, nghỉ ngơi giải trí, sinh hoạt cộng đồng và bình đẳng giới trong
gia đình);
- So sánh hiện trạng đời sống của người Êđê hiện nay với thời điểm 5 năm trước;
- So sánh hiện trạng đời sống của người Êđê tại thành phố BMT và của người Êđê tại huyện

Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk;
- Phân tích một số yếu tố chính tác động tới sự biến đổi đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk
Lăk, bao gồm: chính sách xã hội, quá trình đô thị hóa, toàn cầu hóa, giao lưu và tiếp biến văn hóa, cũng
như một số đặc trưng nhân khẩu xã hội của người Êđê (tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp).
6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
6.2. Khách thể nghiên cứu
8

Các hộ gia đình đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn thành phố BMT và huyện Krông Ana –
Tỉnh Đăk Lăk và cán bộ quản lý thuộc chính quyền xã, phường tại địa bàn nghiên cứu.
6.3. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về không gian:
Đề tài tiến hành nghiên cứu tại 2 địa điểm là phường Eatam thành phố BMT và xã Dray Sáp,
huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.
- Giới hạn về thời gian:
+ Đối với những số liệu thứ cấp, đề tài sử dụng kết quả của cuộc điều tra tiến hành tháng
6/2006;
+ Đối với việc điều tra bằng bảng hỏi, đề tài tiến hành vào tháng 3/2011.
- Giới hạn lĩnh vực nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên
địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Tuy nhiên, "đời sống" là một khái niệm rất rộng, do vậy trong khuôn khổ đề tài
này chỉ tập trung nghiên cứu 2 khía cạnh cơ bản của đời sống, bao gồm:
 Những khía cạnh kinh tế: cơ sở hạ tầng xã hội, điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt hộ gia
đình, thu nhập của hộ gia đình.
 Những khía cạnh phi kinh tế: giáo dục, y tế, sinh hoạt văn hoá tinh thần (nghỉ ngơi giải trí và
sinh hoạt cộng đồng) và quan hệ gia đình thông qua nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình.
Có nhiều yếu tố tác động tới thực trạng và sự biến đổi đời sống của đồng bào dân tộc Êđê tại
Đăk Lăk, trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung tìm hiểu sự tác động của những yếu tố sau: Chính
sách xã hội, quá trình đô thị hóa, toàn cầu hóa, giao lưu và tiếp biến văn hóa, một số đặc trưng nhân

khẩu xã hội của người Êđê (tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp).
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích
7.1 Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê tại Đăk Lăk hiện nay đã có nhiều biến đổi về mọi mặt
mang tính tích cực so với trước đây, đặc biệt là đời sống kinh tế, vật chất được cải thiện.
7.2 Tồn tại những khác biệt đáng kể trong hiện trạng đời sống của người Êđê cư trú tại thành
phố BMT và người Êđê cư trú tại các huyện thuộc tỉnh Đăk Lăk theo hướng người Êđê tại thành phố
có đời sống kinh tế cao hơn và ít gìn giữ, thực hiện các phong tục, giá trị truyền thống của dân tộc.
7.3 Có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động tới đời sống của đồng bào dân tộc Ê đê
tại Đăk Lăk, trong đó quá trình đô thị hóa, chính sách xã hội, độ tuổi và trình độ học vấn là những yếu
tố có tác động mạnh.







9






















8. Phương pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp luận
- Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật hiện tượng vừa tồn tại độc lập, lại vừa tác động qua lại,
chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2005). Do vậy, khi
nghiên cứu các vấn đề xã hội, phải nhìn nhận một cách toàn diện trong nhiều mối quan hệ để thấy
được bản chất của sự vật, hiện tượng. Quan điểm duy vật lịch sử nhìn nhận các sự vật hiện tượng trong
một quá trình, không tồn tại bất biến mà luôn vận động, biến đổi (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2005). Do
vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng, vấn đề, cần đặt chúng trong sự vận động, phát triển. Dựa trên cơ
sở lý luận cơ bản đó, luận điểm cụ thể được vận dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu của luận án là
đời sống của người dân tộc Êđê tại Đăk Lăk cần được nhìn nhận một cách khách quan, xem xét một
cách đa chiều trong mối quan hệ qua lại với nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau và đặt
trong bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể.
- Đề tài cũng vận dụng một số lý thuyết và quan điểm xã hội học trong nghiên cứu cơ cấu xã
hội, xung đột xã hội, biến đổi xã hội và tiếp biến văn hóa, quan điểm xã hội học về tộc người và các
nhóm dân tộc thiểu số (sẽ được chỉ rõ trong phần cơ sở lý luận ở chương 1).
Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội
Chính sách
xã hội
Quá trình
Đô thị hóa

Toàn cầu
hóa
Giao lưu và
Tiếp biến
Văn hóa
Đặc trưng
Nhân khẩu
xã hội
Đời sống của đồng bào dân tộc Êđê
tại Đăk Lăk
Khía cạnh
Kinh tế
Khía cạnh
phi kinh tế
Cơ sở
hạ
tầng

hội
Nhà ở
tiện
nghi
sinh
hoạ
t
Mức
sống,
thu
nhập
Giáo

dục,
Y tế
Quan
hệ
gia
đình
Sinh
hoạt
văn
hóa
10

8.2 Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp thu thập thông tin chủ yếu của đề tài.
Đề tài tiến hành điều tra 200 hộ gia đình dân tộc Êđê tại phường Eatam thành phố BMT và xã Dray Sáp,
huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Mẫu được chọn là mẫu tăng nhanh. Sau khi được sự cho phép của
chính quyền địa phương về việc tiến hành nghiên cứu, điều tra, tác giả - dựa vào các mối quan hệ của
mình - tiếp cận một số hộ gia đình Êđê tại địa bàn để khảo sát và tiếp tục nhờ sự giới thiệu của các hộ gia
đình này để tìm đến những hộ gia đình Êđê khác trên địa bàn cho tới khi có đủ số mẫu cần thiết.
Bảng cơ cấu mẫu
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Giới tính
Nam
89
44.5
Nữ
111
55.5

Trình độ
học vấn
CĐ, ĐH
10
5.0
Trung cấp, THCN dạy nghề
13
6.5
THPT
64
32.0
THCS
88
44.0
Tiểu học
21
10.5
Mù chữ
4
2.0
Nghề nghiệp
Làm rẫy
65
32.5
Viên chức nhà nước
12
6.0
Buôn bán kinh doanh
45
22.5

Làm thuê
71
35.5
Nghề khác
7
3.5
Tuổi
25- 35
67
33.5
>35 – 45
63
31.5
>45 – 55
49
24.5
Trên 55
21
10.5

- Phương pháp phân tích tài liệu: đề tài sử dụng kết quả cuộc điều tra thuộc khuôn khổ đề tài
“Tác động của các nhân tố kinh tế – xã hội tới đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn
thành phố BMT – Tỉnh Đăk Lăk” (là luận văn thạc sỹ của tác giả) được tiến hành vào 6/2006 để so
sánh và tìm ra những biến đổi trong đời sống của người Êđê tại địa bàn nghiên cứu so với thời điểm 5
năm trước. Bên cạnh đó, đề tài cũng tiến hành thu thập và xử lý thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác
nhau để có cái nhìn khách quan và toàn diện hơn, cũng như để đối chiếu, so sánh với những thông tin,
số liệu mà đề tài đã thu thập được.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: đề tài tiến hành 10 cuộc phỏng vấn sâu đối với các đối tượng là
người dân Êđê và cán bộ xã, phường thuộc địa bàn nghiên cứu để thu thập thêm những thông tin chi
11


tiết, sâu sắc về các khía cạnh của đề tài. Danh sách phỏng vấn cụ thể bao gồm 1 cán bộ văn hóa của
UBND phường, 1 cán bộ UBND xã, 8 người dân Êđê (4 nam, 4 nữ) tại 2 địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: phương pháp này được sử dụng nhằm bổ sung thông tin và để đánh
giá thái độ, cũng như tính trung thực và khách quan của các câu trả lời, nhằm đánh giá tính xác thực
của thông tin thu được.
9. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, phần nội dung chính của luận án gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk hiện nay
Chương 3: Một số yếu tố tác động tới đời sống của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk
Lăk
10. Những hạn chế của luận án
Luận án có một số hạn chế, khó khăn đáng lưu ý sau:
Việc sử dụng số liệu thứ cấp tuy đem lại những lợi ích không thể phủ nhận nhưng cũng tồn tại
những hạn chế nhất định. Trong trường hợp này, việc sử dụng số liệu từ đề tài luận văn thạc sỹ của
chính tác giả sẽ đem lại nguồn dữ liệu phục vụ cho việc so sánh sự biến đổi theo trục thời gian, tuy
nhiên, muốn có thể so sánh chuẩn xác, các số liệu thu thập mới cũng phải dựa trên bộ công cụ cũ, điều
này đem lại những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa 2 cuộc điều tra chỉ là 5 năm –
một khoảng thời gian không thực sự dài cho những biến đổi vĩ mô. Tuy nhiên, do 2006 (thời điểm tiến
hành cuộc khảo sát thứ nhất) là tròn 1 năm kể từ ngày BMT được công nhận là thành phố cấp II và
năm 2011 (thời điểm tiến hành cuộc khảo sát thứ 2) lại là tròn 1 năm kể từ khi BMT được công nhận
là thành phố cấp I nên khoảng thời gian giữa 2 cuộc khảo sát cũng tồn tại những biến đổi nhất định,
đáng nghiên cứu;
Khái niệm đời sống cũng như phân tích và so sánh xã hội học đều là những khái niệm rộng và
trừu tượng. Trong khuôn khổ luận án, tác giả chỉ có thể mô tả và phân tích một số khía cạnh của đời
sống cũng như chưa thể có những phân tích sâu, bao quát mọi khía cạnh của khái niệm phân tích và so
sánh xã hội học;
Khách thể nghiên cứu của đề tài là người Êđê, vốn có thể có những hạn chế nhất định về giao
tiếp với người Kinh (ngôn ngữ, trình độ học vấn, tâm lý tự ti dân tộc….), nên việc tiếp cận và phỏng

vấn gặp rất nhiều khó khăn (đây cũng là một lý do khiến cho cơ cấu mẫu khảo sát không thể lớn hơn
200);
Địa bàn nghiên cứu ở xa, khi phát hiện những thiếu sót cần bổ sung, rất khó để quay trở lại địa
bàn nhiều lần.
Đó là những khó khăn, hạn chế cơ bản của luận án mà tác giả buộc phải nỗ lực để khắc phục
trong khuôn khổ nhất định.




12

References.
Tiếng Việt
1. Nguyễn Tuấn Anh, Annuska Derks (2011), “Toàn cầu hóa và bản sắc làng Việt ở miền bắc”,
Những vấn đề xã hội học trong sự biến đổi xã hội, NXB ĐHQG, Hà Nội, tr. 199-222.
2. Ban chỉ đạo Đại hội Đại biểu Các dân tộc thiểu số Việt Nam (2010), Cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam (chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ, đảng viên cơ sở), NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Trương Bi (2007), “Những đặc trưng cơ bản của văn hóa truyền thống các dân tộc bản địa Đăk
Lăk và một số giải pháp bảo tồn, phát huy trong thời kỳ hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảoBảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, Trường ĐH Tây Nguyên, BMT.
5. Bilton T. và những người khác (1993), Nhập môn xã hội học, NXB KHXH, Hà Nội.
6. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Văn hoá các dân tộc Tây Nguyên – Thực trạng và những vấn
đề đặt ra,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Triết học Mác- Lênin (dùng trong các trường ĐH,
CĐ), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2010), Dự thảo đề xuất Chiến lược quốc gia về bình đẳng

giới giai đoạn 2011-2020.
9. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2011), Điều 16 của Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày
14/1/2011 về công tác dân tộc.
10. Cổng thông tin điện tử tỉnh Đăk Lăk
11. Nguyễn Thế Cường (2008), Giao lưu, tiếp biến văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam
trong toàn cầu hóa, Truy cập từ

12. Việt Cường (2010),« Kết quả thực hiện chương trình 135 tại tỉnh Đăk Lăk », Bản tin Chương
trình 135 số tháng 10/2010Website Chương trình 135 của Chính phủ

13. Nguyễn Văn Dân (2007), “Toàn cầu hóa văn hóa và đa dạng văn hóa”, Tạp chí Sông Hương, truy
cập từ website Văn hóa học: />va-phat-trien/65-nguyen-van-dan-toan-cau-hoa-van-hoa-va-da-dang-van-hoa.html
14. Nguyễn Văn Diệu (1992), Những biến đổi kinh tế xã hội ở các dân tộc Êđê, M’Nông tỉnh Đăk
Lăk, Luận án phó tiến sỹ khoa học Lịch sử, Viện KHXH TPHCM, Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Ngô Văn Doanh (2009),“Cồng chiêng Tây Nguyên, một vài suy nghĩ về việc bảo tồn và phát huy”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Sự thay đổi đời sống kinh tế xã hội và bảo tồn văn hoá cồng chiêng
ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và UBND tỉnh Đăk Lăk.
16. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (chủ biên) (2001), Xã hội học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
13

17. Thân Trung Dũng (2003), “Bất bình đẳng giới trong lao động gia đình ở Việt Nam”, Báo Phụ nữ
Việt Nam(106), tr.6-7.
18. Đảng bộ phường Eatam (2005), thành phố BMT, Đăk Lăk, Báo cáo chính trị.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, NXB Sự thật, Hà
Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
21. Bùi Minh Đạo (2011), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững,
NXB KHXH, Hà Nội.

22. Bùi Minh Đạo (2012), Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát triển bền vững,
NXB KHXH, Hà Nội.
23. Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn (1982),Đại cương về các dân tộc Êđê và M’nông ở Đắk Lắk, NXB
KHXH, Hà Nội.
24. Trần Văn Đoài (2013), « Tác động của hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo và chính sách
dân tộc đối với quá trình phát triển xã hội theo hướng bền vững ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi
mới », Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Tây Nguyên –
Lý luận và thực tiễn, Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội, tr 49-54.
25. Lê Duy Đồng, Bùi Sỹ Lợi (chủ biên) (2011), Định hướng về chính sách phát triển xã hội và quản
lý phát triển xã hội giai đoạn 2011-2020, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
26. Phan Hồng Giang (2000), “Toàn cầu hóa và vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc”, Website Bảo tàng
Nhân học, ĐHKHXH&NV, ĐHQG HN:
/>cu-hoa-va-vn bn-sc-vn-hoa-dan-tc-&catid=33%3Abai-nghien-cu-nhan-hc-vn-hoa-
hc&Itemid=37
27. G.Endruweit và G.Trommsdorff (2001), Từ điển xã hội học, NXB Thế giới, Hà Nội.
28. Tây Giang (2010), Gia tăng chênh lệch thu nhập, Sài Gòn tiếp thị Media />doc/129301/Gia-tang-chenh-lech-thu-nhap.html
29. Vũ Quang Hà (2001), Các lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
30. Hà Nội Mới (2005),PV Báo Hà Nội Mới phỏng vấn ông Nguyễn Văn Lạng - nguyên chủ tịch
UBND tỉnh Đăk Lăk - nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng
BMT : />bao-cac-dan-t7897c-7903-2727855k-l7855k-273a-thay-2737893i-100.htm
31. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học Văn hóa, NXB KHXH, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Hạnh (2004), Mẫu hệ, phụ nữ Êđê và kinh tế hộ gia đình, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội.
33. Francois Houtart và Genevieve Lemercinier (1979) (bản dịch của Hồ Hải Thụy 2001), Xã hội học
về một xã ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
34. Anne De Hautecloque – Howe (2004), Người Êđê một xã hội mẫu quyền, NXB Văn hoá dân tộc,
Hà Nội.
14

35. Lý Tùng Hiếu (2009), “Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam”, Website Khoa Văn hóa

học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG TPHCM
/>tung-hieu-nam-quyen-trong-che-do-mau-he-o-viet-nam html
36. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng lý thuyết và vận dụng, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
37. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (chủ biên) (2000), Xã hội học về giới và phát triển, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
38. Đặng Cảnh Khanh (1999), Các nhân tố phi kinh tế xã hội học về sự phát triển, NXB KHXH, Hà
Nội.
39. Đặng Cảnh Khanh (2006), Nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số, NXB Thanh niên, Hà Nội.
40. Đặng Cảnh Khanh (2013), “Lại bàn về khái niệm thiểu số và nhóm dân tộc thiểu số”, Kỷ yếu Hội
thảo Khoa học: Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Tây Nguyên – Lý luận và thực
tiễn, Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội, tr 114-118.
41. Nguyễn Hữu Khiển (2013), “Tác động của hệ thống chính sách xã hội đối với quá trình phát triển
xã hội theo hướng bền vững ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học:
Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Tây Nguyên – Lý luận và thực tiễn, Trường
ĐHKHXH&NV, Hà Nội, tr 119-123.
42. Võ Thị Hồng Loan (2009), “Bình đẳng giới trong gia đình đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Dân
số và Phát triển(7)

43. Trịnh Duy Luân (chủ biên) (2002), Phát triển xã hội ở Việt Nam: Một tổng quan xã hội học năm
2000, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44. Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học Đô thị, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Macionis J. (1987), Xã hội học, bản dịch của Trần Nhựt Tân, NXB Thống kê, Hà Nội.
46. Võ Thị Mai (2003), Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (2001), Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công
bằng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Phạm Xuân Nam (2012), “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Xã hội học
(2), tr.3-13.
49. Trần An Phong (1997), Nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho định hướng phát triển kinh tế

xã hội các tỉnh Tây Nguyên, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
50. Quốc hội nước CHXHCNVN (2007), Luật Bình đẳng giới năm 2006, NXB Lao động – Xã hội,
Hà Nội.
51. Phạm Văn Quyết (2011), “Đói nghèo và công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam”, Những vấn
đề xã hội học trong sự biến đổi xã hội, NXB ĐHQG HN, tr. 225-253.
52. Schaefer R.T (2003), Xã hội học (bản dịch của Huỳnh Văn Thanh), NXB Thống kê, Hà Nội.
15

53. Nguyễn Đình Tấn (2006), “Vai trò của ngươi đàn ông (người chồng, người cha) trong gia đình
Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại”, Gia đình Việt Nam: Quan hệ, quyền lực và xu hướng
biến đổi, NXB ĐHQG, HN, tr. 158-166.
54. Hà Đình Thành (2012), Cộng đồng dân tộc Êđê ở tỉnh Đăk Lăk hiện nay, NXB Từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
55. Bá Thăng (2011),“Đời sống đồng bào dân tộc thiểu số khởi sắc nhờ chương trình 134”, Báo
Quân đội Nhân dân online

56. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990),Thiết chế xã hội cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam,
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
57. Trần Ngọc Thêm (2003), « Nước, văn hóa và hội nhập », Khoa học xã hội và nhân văn trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, Trường ĐH KHXH và NV & NXB Tp. Hồ Chí Minh.
58. Hoàng Bá Thịnh (2011), « Xung đột xã hội từ quan điểm xã hội học », Những vấn đề xã hội học
trong sự biến đổi xã hội, NXB ĐHQG HN, tr.473-505.
59. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1995), Văn hoá dân gian Êđê, Sở Văn hoá Thông tin Đăk Lăk, Đăk
Lăk.
60. Văn Thông (2006) Chương trình 134 ở Tây Nguyên,

61. Nguyễn Văn Thủ (chủ biên) (2009), Biến đổi xã hội nông thôn dưới tác động của đô thị hóa và
tích tụ ruộng đất, NXB Đồng Nai, Đồng Nai.
62. Nguyễn Thanh Thụy (CN đề tài) (2004), Nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới trong tổ chức cuộc
sống gia đình ở Bình Định: Thực trạng và giải pháp, Đề tài NCKH của Hội Liên hiệp Phụ nữ

tỉnh Bình Định.
63. Nguyễn Tiệp (Chủ biên) (2011), Giáo trình Chính sách xã hội, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
64. Trần Văn Toàn (1967), Tìm hiểu đời sống xã hội, Nam Sơn Xuất Bản, Sài Gòn.
65. Trần Thị Nam Trân (1999) Sự chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp trong quá trình CNH-HĐH ở
huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sỹ, ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
66. Nguyễn Tuấn Triết (2003), Tây Nguyên cuối thế kỷ XX vấn đề dân cư và nguồn nhân lực, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
67. Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk (2003), Vấn đề xây dựng Buôn (Thôn) văn hoá ở nông thôn tỉnh
Đăk Lăk, Đề tài khoa học, Buôn Ma Thuột.
68. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Một số vấn đề phát triển kinh tế – xã
hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Minh Tuấn (2007), Tác động của các nhân tố kinh tế - xã hội tới đời sống của đồng bào
dân tộc Êđê (Nghiên cứu trường hợp thành phố BMT), Luận văn thạc sỹ XHH, trường
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
16

70. Nguyễn Minh Tuấn (2011), « Lý thuyết tiếp biến văn hóa trong nghiên cứu nhóm dân tộc thiểu
số”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế20 năm khoa Xã hội học thành tựu và thách thức, trường
ĐHKHXH&NV, Hà Nội, tr. 176-183.
71. Nguyễn Minh Tuấn (2012), “Bình đẳng giới trong gia đình người dân tộc Ê đê ở Đăk Lăk”,Tạp
chí Xã hội học (2), tr. 81-88.
72. Nguyễn Minh Tuấn (2013), “Tác động của chính sách xã hội tới đời sống của người Êđê trên địa
bàn tỉnh Đăk Lăk hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội ở Tây Nguyên – Lý luận và thực tiễn, Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội, tr 209-214.
73. Từ điển Xã hội học Oxford (2012), Trường ĐHKHXH&NV ĐHQG HN, NXB ĐHQG Hà Nội.
74. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
Tiếng Anh
75. Berry J. (1997), « Immigration, Acculturation, and Adaptation”,Applied Psychology International
Review46 (1)pp.5-68.

76. Foster M. (1996), Traditional cultures and the impact of technological change, Harper & Row,
NY.
77. Hoebel A., Weaver T. (1979), Anthropology and the human experience. Mc Graw Hill, Arizona,
USA.
78. KendallD. (2007), Sociology in our times, Thomson Wardworth, USA.
79. Raymond T., Bardin N. (1974), “Acculturation and assimilation: a clarification”, American
Ethnologist Vol 1, (2), pp. 351-367.
80. Rudmin F. (2003), Acculturation: early political and social science concepts, Unpublished
manuscript, University of Tromso, Norway.
81. The Columbia Encyclopedia (2008), Sixth Edition, Columbia University Press.
82. Upchurch W. A. (2008), Relationship between level of acculturation and clothing preferences for
Asian – Indian females, Master thesis, Auburn University.



×