Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.02 KB, 21 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP GIÁO VIÊN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HOÏC CHO HOÏC SINH A - ĐẶT VẤN ĐỀ :. 1/ Lyù do : Hiện nay, đổi mới phương pháp giáo dục được thực hiện sâu rộng trong trường học nhằm phát huy tinh sáng tạo, chủ động của học sinh , giúp học sinh phát huy tính tự học của bản thân. Phát huy nội lực tự học của học sinh vừa là mục tiêu, vừa là phương pháp giáo dục, vừa là con đường nâng cao chất lượng và hiệu quả của nhà trường. - Tự học giúp học sinh củng cố , mở rộng và đào sâu kiến thức . Tự học là một khâu quan trọng , có ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình học tập của học sinh . Kiến thức mà trẻ tiếp thu hàng ngày trên lớp chỉ thực sự bền vững nếu như chúng được ôn tập , củng cố thường xuyên bằng một hệ thống bài tập hoặc việc làm ngoài giờ lên lớp . - Tự học giúp học sinh rèn luyện được những kĩ năng , kĩ xảo cần thiết , nhất là học sinh các lớp 1-2 , tự học càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi taát caû caùc kó naêng hoïc taäp cuûa treû haàu nhö chöa coù nhöng laïi caàn phaûi nhanh chóng được hình thành ( kĩ năng nghe ,nói ,đọc ,viết , tính toán …) . Trong khi đó , thời gian dành cho việc luyện tập trên lớp rất hạn chế . Trẻ chỉ có thể tự luyện nghe ,nói , đọc , viết , tính toán ở nhà . Tự học góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh , phù hợp với xu thế đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học hiện nay . Tuy nhiên , mức độ tích cực độc lập của học sinh trong các giờ học trên lớp lại phụ thuộc rất nhiều vào công việc tự học ở nhà của các em . Học sinh phải học bài , làm bài và chuẩn bị cho các bài học mới một cách chu đáo thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu của việc học tập trên lớp ..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Tự học góp phần hình thành những phẩm chất của nhân cách học sinh như tính tích cực , độc lập , kiên trì và tự giác cao . Thiếu những phẩm chất này học sinh không thể tự học được . Vì thế , trong quá trình tổ chức tự học cho học sinh phải quan tâm bồi dưỡng ở các em tính tích cực , độc lập , kiên trì và tự giác với công việc học tập .. 2/ Mục đích nghiên cứu : Việc nghiên cứu của tôi là nhằm giải quyết những hạn chế về sinh lý cũng như tâm lý của học sinh lớp 1A 1 trường Tiểu học Thuận Hòa “C” . Tạo điều kiện để các em đọc tốt tiếng Việt . Qua đó các em cũng có thể nghe toát , noùi toát , vieát toát vaø hoïc toát caùc moân hoïc khaùc .. 3/ Khaùch theå : Vấn đề không nhớ mặt chữ , không biết đánh vần , đọc bỏ dấu , đọc ê a , không lưu loát , thiếu tự tin và thói quen đọc được tiếng Việt của 20 học sinh ở lớp 1A1 trường Tiểu học Thuận Hòa “C” diễn ra hàng ngày .. 4/ Đối tượng nghiên cứu : Các nguyên nhân tâm lý , sinh lý , môi trường sống … có ảnh hưởng đến cách đọc và hình thành những thói quen không tốt trong đọc bài . Những biện pháp , cách làm hợp lý để có thể giúp các em đọc tốt tiếng Vieät .. 5/ Phạm vi nghiên cứu : Môi trường sống , chương trình tiếng Việt lớp 1 hiện hành và một số yếu tố sinh lý , hiện tượng tâm lý của 20 học sinh 1A 1 trường Tiểu học Thuaän Hoøa “C” . 6/ Phương pháp nghiên cứu :.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Đọc sách mở rộng vốn ngôn ngữ và tìm ra những lý luận hợp lý . - Quan sát , trò truyện với học trò… - Phöông phaùp ñieàu tra . - Phöông phaùp toång keát kinh nghieäm . - Phương pháp thực nghiệm khoa học giáo dục . - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm ..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :. Chöông I:. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Theo Từ điển Giáo dục học : “ Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lí trực tiếp của giáo viên và sự quản lí trực tiếp của cơ sở giáo dục “ . Tự học có thể bằng các tự học tự đọc tài liệu , sách giáo khoa , nghe đài , xem truyền hình , tham quan bảo tàng , triển lãm … Tự học là tự mình động não suy nghĩ , sử dụng các năng lực trí tuệ ( quan sát , so sánh , phân tích , tổng hợp …) và có khi cả cơ bắp ( khi phải sử dụng công cụ ) cùng các phẩm chất của mình , rồi động cơ , tình cảm , cả nhân sinh quan , thế giới quan ( như trung thực , khách quan , có chí tiến thủ không (ngại khó , ngại khổ , kiên trì , nhẫn nại , lòng say mê khoa học …) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại , biến những lĩnh vực đó thành sở hữu của mình . Tự học là một hoạt động đòi hỏi phải có tính độc lập , tự chủ , tự giác và kiên trì thì mới đạt được kết quả , do đó tự học gắn bó chặt chẽ với quá trình tự giáo dục để hình thành những nét tính cách trên . Ở học sinh tiểu học hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo . Để học tập có kết quả , học sinh cần phải có phương pháp học tập . Qua nghiên cứu các nhà tâm lí học cho rằng , từ lớp 1-2 đến lớp 3-4 và đến lớp 5 , , phương pháp học tập có ý nghĩa khác nhau đối với học sinh tiểu học . Nếu ớ lớp 1-2 , phương pháp tự học là quan trọng nhất , còn , còn những kiến thức mà nhà trường đưa đến cho các.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> em chủ yếu nhằm cung cấp chất liệu để trẻ học các học . Đến lớp 3-4 , học sinh đã có phương pháp tự học nhưng nó cần được củng cố và phát triển . Còn ở học sinh lớp 5 , cùng với nội dung học tập , phương pháp học tập đã được hình thành năng lực của mỗi cá thể để vận dụng nó vào cuộc sống và quá trình học tập sau này . Vì thế , bậc tiểu học được xem là bậc học của phương pháp học tập . Ở bậc học này , học sinh muốn học điều gì , muốc có tri thức , kĩ năng , các chuẩn mực thì giáo viên phải làm mâu rồi tổ chức cho học sinh tự làm để có được những cái cần có . Như vậy , ở một khía cạnh nào đó , có thể nói , trong phương pháp học tập của học sinh tự học đã bao gồm phương pháp tự học . Tự học gắn liền với ý thức và tự giáo dục . Ở học sinh tiểu học , tự ý thức , tự giáo dục của các em đang được hình thành và phát triển . Do vậy , tự học của học sinh tiểu học khác với tự học của học sinh các cấp trên về yêu cầu , mức độ , phạm vi … Tự học của học sinh tự học chỉ giới hạn ở việc trẻ tự giác hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao ( làm các bài tập về nhà , chuẩn bị để học bài mới , sưu tầm truyện kể về một danh nhân nào đó …) Dù trực tiếp hay gián tiếp , hoạt động tự học của học sinh tiểu học đều cần có sự hướng dẫn của giáo viên . Tự học của học sinh tiểu học không chỉ diễn ra ở nhà mà còn diễn ra ngay trong lớp học , với hình thức tổ chức dạy học cá nhân ở trên lớp – hình thức dạy học rất thích hợp đối với các trường tiểu học dạy 2 buổi / ngày . Ở hình thức tổ chức dạy học này , học sinh tiến hành theo những nội dung , các thức và tiến độ khác nhau tuỳ thuộc vào năng lực cá nhân , dưới sự hướng dẫn của giáo viên ..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Chöông II :. THỰC TRẠNG. Chöông III :. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH 1A1 TRƯỜNG TIỂU HỌC THUẬN HÒA “C” ĐỌC TỐT TIẾNG VIỆT . ( Phần Học vần ). 1/ Kết hợp với gia đình: Thông qua các buổi họp Phụ huynh học sinh, yêu cầu bố trí giờ tự học cho Học sinh Tiểu học ở nhà, góc học tập của trẻ cần cách biệt với không gian sinh hoạt ồn ào của gia đình. Các ngày nghỉ như chủ nhật, ngày lễ không buộc trẻ phải tự học, kết hợp cho trẻ vui chơi.. 2/ Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà: Mặc dù không giảng dạy tất cả các môn cho các em ( dạy chuyên sâu) nhưng tôi vẫn theo sát bài học ở lớp của các em để hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Việc chuẩn bị tốt bài ở nhà sẽ làm cho trẻ hứng thú, năng động, tự tin và tích cực trong các tiết học ở lớp.. a) Học bài cũ: Tôi thường chỉ rõ cho Học sinh kiến thức cơ bản thông qua các hoạt động giảng dạy: thảo luận nhóm rút ra nội dung cần nhớ, trao đổi ý kiến với mọi người về một vấn đề đang thắc mắc để các em dễ dàng ghi nhớ có suy nghĩ, tránh học vẹt, học mà chẳng hieåu gì.. Ví du:ï Khi dạy các em môn Luyện từ và câu đến bài “ Câu kể Ai là gì?”, tôi cho học sinh thảo luận nhóm so sánh đối chiếu cách tìm bộ.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> phaän chính cuûa 3 kieåu caâu keå: Ai laøm gì?; Ai theá naøo? vaø Ai laø gì? ( hai kiểu câu Ai làm gì?; Ai thế nào? học sinh đã học trước). Khi so saùnh nhö vaäy hoïc sinh naém baøi chaéc hôn, hoïc sinh hieåu raèng trong caû 3 mẫu câu này, chủ ngữ đều trả lời cho câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Chỉ có cách đặt câu hỏi tìm vị ngữ là khác nhau mà thôi!. b) Làm bài tập có sự gợi ý hướng dẫn những điểm khó. Ví duï: Khi hoïc sinh hoïc taäp laøm vaên baøi “ luyeän taäp mieâu taû caùc boä phận của cây cối” , tôi yêu cầu học sinh dành 5 phút giờ chơi để quan sát kĩ rễ cây bàng được trồng trong sân trường trước khi về nhà viết 1 đoạn. Tôi không quên hướng dẫn các em sử dụng càng nhiều giác quan để quan sát càng tốt: dùng mắt quan sát độ lớn, hình dáng, màu sắc…dùng tay để sờ vào phần rễ nổi lên trên mặt đất…. Tư duy liên tưởng xem bộ rễ cây bàng giống với gì, có thể so sánh, nhân hóa với gì…. Với phần hướng dẫn như vậy thì đa số các em chịu khó quan sát và thực hiện bài viết tương đối tốt.. c) Chuẩn bị bài mới:. Đây là điều kiện rất quan trọng giúp các em tiếp thu tốt bài mới, các em dễ dàng hơn trong việc nắm bắt kiến thức, giờ học cũng sẽ nhẹ nhàng mà hiệu quả lại cao. Giáo viên cần hướng dẫn nội dung các câu hỏi gợi ý cho học sinh suy nghĩ. Và đây sẽ chính là những câu hỏi học sinh sẽ thảo luận trong khi học bài mới, giáo viên cũng có thể cho học sinh chuẩn bị theo nhóm (nếu các em ở gần nhà nhau), nhưng khi học nhóm mỗi học sinh đều phải chuẩn bị cá nhân, cần phải độc lập suy nghĩ trước, không ỷ lại, dựa dẫm vaøo baïn..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Ví du:ï Khi chuẩn bị dạy bài “Tóm tắt tin tức” (Tập làm văn- tuần 24lớp 4), tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị trước các câu hỏi: - Tóm tắt tin tức nghĩa là gì? - Cần thực hiện những việc gì khi tóm tắt tin tức? - Đọc kĩ để nắm nội dung bản tin: “Vịnh Hạ Long được tái công nhận là di sản thiên nhiên thế giới” Với sự hợp tác của học sinh trong việc chuẩn bị bài, mặc dù tiết tập làm văn chỉ có 35 phút tôi vẫn có thể truyền đạt tốt cho học sinh nắm muïc tieâu baøi hoïc.. Khi dạy kĩ thuật bài “ trồng cây rau, hoa”, sau khi hướng dẫn thao tác kĩ thuật cách gieo hạt đậu xanh, đậu đen.. tôi cho học sinh tự chọn nhóm, điều kiện nhóm có những học sinh ở gần nhà nhau, các em sẽ cùng thực hiện việc gieo hạt, chăm sóc cây … phần lớn gia đình các em học sinh của trường tôi sinh sống bằng nghề làm giá, chính vì thế khi được giao công việc này các em rât thích thú, phấn khởi.. 3/ Hướng dẫn học sinh ôn tập: Sau một chủ điểm, một chương.. giáo viên sẽ yêu cầu các em tự hệ thống hóa những kiến thức đã học. Khi hướng dẫn học sinh tự học, giáo viên không cần đi vào chi tiết (vì các em đã học rồi) nhưng cần phải nêu các kiến thức cơ bản của các chương, các mục để học sinh nắm vững và vận dụng vào phần tự học của bản thân.. Ví duï: Sau khi hoïc Toùan veà daáu hieäu chia heát, toâi yeâu caàu hoïc sinh tìm những điểm cần lưu ý, những chi tiết giúp em dễ nhớ về dấu hiệu chia hết cho 2,5,3 và 9. Học sinh khá giỏi dễ dàng nhận biết đối với dấu.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> hiệu chia hết cho 2,5 chỉ cần lưu ý chữ số tận cùng, còn đối với dấu hiệu chia hết cho3 và 9 thì ta cần phải xét đến tổng các chữ số của số đó.. 4/ Chuù yù caùch ñaêït caâu hoûi kích thích hoïc sinh tö duy: Mặc dù đã có những câu hỏi trong sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy của giáo viên nhưng giáo viên cũng cần phải suy nghĩ thêm những câu hỏi nhằm gợi suy nghĩ cho học sinh khi tự học (hoặc thay đổi hệ thống câu hỏi đã có sao cho phù hợp với trình độ học sinh, buộc học sinh phải suy nghĩ để trả lời). Các câu hỏi này gợi suy nghĩ thông minh cho học sinh, không phải các câu hỏi để nhớ kiến thức hoặc học thuộc lòng. Đặt câu hỏi cũng là một nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên.. Ví du:ï Khi dạy môn Đạo đức bài “Giữ gìn các công trình công cộng” (bài 11 trang 34 SGK) , ở hoạt động 2, sau khi học sinh làm việc nhóm đôi bài tập 1, SGK. Trong khi đại diện từng nhóm trình bày, cả lớp trao đổi tranh luận về tranh 3 (vẽ hai học sinh đang khắc chữ trên thân cây), tôi đưa câu hỏi: “Đến thăm các di tích lịch sử, có người hay khắc tên mình lên thân cây cổ thụ, lên vách đá hoặc viết nhăng nhít lên tường. Làm như vậy có hại gì? Để ghi nhớ buổi tham quan di tích lịch sử, tốt nhất ta nên làm gì?” Câu hỏi trên đã giúp học sinh ý thức mình cần phải làm gì để giữ gìn các công trình công cộng. Sau tiết học, tôi không quên giúp học sinh ghi nhớ và thực hiện: Những di tích, những công trình Ông cha xây dựng, chúng mình giữ chung.. 5/ Hướng dẫn học sinh tự phát hiện , thắc mắc qua các bài học:.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Giaùo vieân caàn taïo ñieàu kieän, taäp cho hoïc sinh phaùt hieän thaéc maéc qua các bài học , tự tìm tòi, tự giải đáp, chỗ nào cảm thấy chưa chắc chắn thì trao đổi ở nhóm hoặc hỏi lại thầy cô giáo. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, người trọng tài, người đạo diễn, “giáo viên không còn là ống dẫn thông tin mà là chất xúc tác của quá trình dẫn thông tin đó. Giáo viên luôn ở bên cạnh học sinh… kích thích, duy trì, thúc đẫy bước đi vừa sức với những giải thích, bổ sung… Giáo viên là trợ lực viên của tiến trình học tập nhưng không bao giờ học thay cho học sinh…” (dẫn theo Makiguchi) Ví du:ï Bài “Mở rộng vốn từ: Dũng cảm” (tuần 26, SGK TV trang 83) có khá nhiều từ khó hiểu như: can trường, bạo gan, nhu nhược, khí thế, dũng mãnh.. và những thành ngữ như: ba chìm bảy nổi, vào sinh ra tử, gan vaøng daï saét, chaân laám tay buøn… Toâi vaän duïng phöông phaùp “Theû lựa chọn”, tôi đưa một số từ trong bài vào giấy A4, học sinh lựa chọn những từ mình hiểu và không hiểu, sau đó học sinh đi tìm bạn khác để trao đổi làm rõ nghĩa về những từ mình chưa hiểu. Cuối cùng những từ không thể giải thích được, học sinh tra tự điển hoặc thảo luận với lớp vaø giaùo vieân. 6/ Tùy theo từng tình huống học cụ thể của trẻ mà giáo viên có nhiều cách định hướng cho trẻ tự tìm ra kiến thức: a) Định hướng cho học sinh đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp . Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, tư duy của các em là kiểu tư duy trực quan, vốn sống của các em còn hạn chế, chính vì thế giáo viên cần định hướng cho học sinh từ cái đã biết đến cái chưa biết. Ví dụ khi học sinh gặp bài tóan “Tìm số có hai chữ số biết tích của chuùng laø 24 vaø toång cuûa chuùng laø 10”. Chaéc chaén raèng hoïc sinh seõ phaûi kêu lên “ Bài tóan khó quá!” Để có thể định hướng giúp học sinh giải.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> quyết bài tóan này, giáo viên cần tách một vấn đề lớn ( học sinh chưa giải quyết được) thành một hệ vấn đề nhỏ mà học sinh có thể giải quyết nhờ vào những điều học sinh đã biết. Cụ thể giáo viên yêu cầu học sinh tìm xem hai số nào nhân nhau thì bằng 24 (3 x 8; 4 x 6; 2 x 12); học sinh sẽ tự phát hiện không chọn cặp 12x 2 vì 12 là số có hai chữ số. Khi vừa tìm ra hai caëp soá 3x8 vaø 4x6 coù tích baèng 24, hoïc sinh seõ vui thích reo leân: “ Em biết kết quả! Em trả lời! Em cô!!!” Giáo viên vui vẻ mời học sinh nêu đáp số. Học sinh vội vã trả lời ngay: “Thưa cô 4 x 6=24; 4 + 6=10, số cần tìm là 46”. Giáo viên mời học sinh khác nhận xét, bổ sung để tìm thêm đáp số 64 nữa! Như vậy từ sự định hướng khéo léo của giáo viên mà học sinh đi từ cái đơn giản là tìm những cặp số có tích là 24 đến việc phức tạp là giải một bài tóan. Hoặc khi giúp học sinh làm một bài tập làm văn giáo viên cũng phải đi từ gợi ý nho nhỏ này đến gợi ý nho nhỏ khác kết hợp hữu cơ thành baøi coù heä thoáng maïch laïc. b) Định hướng học sinh quan sát: Quan sát là một công cụ nhận thức. Trong lịch sử khoa học thế giới, có những quan sát đơn giản đã tạo ra bước ngoặt cho tư duy loài người như việc quan sát quả táo rơi từ trên cây xuống đã giúp Newton tìm ra lực hút của trái đất! Nuôi dưỡng và phát huy thói quen quan sát, nhận xét, hỏi và so saùnh chính laø phaùt trieån trí thoâng minh, phong caùch hoïc- hoûi cuûa hoïc sinh. Học chữ theo kiểu “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội nón, Ơ già mang râu” chính là đã vận dụng năng lực quan sát và so sánh của học sinh. Khi giáo viên giúp học sinh làm tập làm văn tả đồ vật hay con vật, để học sinh có thể viết tốt, giáo viên giúp học sinh quan sát tỉ mỉ, so sánh,.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> nhân hóa…từ đó học sinh mới có những lời hay ý đẹp, học sinh tạo ra sự sáng tạo, độc đáo cho bài tập làm văn. Để giúp học sinh tăng cường khả năng quan sát, tôi yêu cầu học sinh so saùnh ba toång sau: 27. + 36. + 53. + 75. + 80. 57. + 76. + 20. + 85. + 33. 87. + 35. + 26. + 53. + 70. Nhiều học sinh lớp bốn khi gặp bài toán này là nhanh nhảu tính ngay để đi đến kết quả là cả ba tổng đều bằng nhau. Tôi gợi ý để các em so sánh các chữ số ở hàng đơn vị và các chữ số ở hàng chục của ba tổng. Sau khi được gợi ý, học sinh thấy ngay các chữ số hàng đơn vị ở ba tổng là như nhau, chỉ sắp xếp thứ tự khác nhau. Các chữ số hàng chục cũng vậy. Theo cách cộng các chữ số hàng đơn vị với nnhau, các chữ số hàng chục với nhau và nhờ tính chất giao hoán của phép cộng. Ta có thể kết luận ba tổng đó bằng nhau mà không cần mất thời gian tính toán từng tổng một! d) Định hướng cho học sinh tự tìm ra kiến thức bằng các công cụ tự học như từ điển, sách báo.. Từ điển là một công cụ giúp học sinh tự học, từ điển là người bạn tự học của học sinh. Vì vậy cần giúp cho học sinh vượt qua được thói lười, ngại sử dụng từ điển, rèn luyện cho học sinh cách tra từ điển nhanh và có hiệu quả. Sách báo cũng là một công cụ thiết yếu để tự học suốt đời. Vì.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> vậy giáo viên cũng cần giúp học sinh khắc phục những nhược điểm hiện nay về đọc sách: lười biếng đọc sách, mải mê với những quyển truyện tranh với những câu cụt, câu què…những câu hết sức khô khan như: “Bùm!”; “Aàm ầm!” hay “ Ra đây ta bảo nào!”…tránh đọc theo kiểu nước chảy không đọng gì lại trong bộ óc, không động não suy nghĩ….giáo viên cần giúp học sinh lựa chọn sách báo để đọc, đánh dấu trích đọan những chỗ mình thích, suy nghĩ, đối chiếu với những điều mình đã học để tự mình rút ra những điều bổ ích. Thời lượng của một tiết học không nhiều, chỉ có 35 phút. Vì thế song song với việc giúp học sinh sử dụng từ điển, rèn luyện cho học sinh cách tra từ điển trong các tiết luyện từ và câu, trong các buổi họp Phụ huynh hoïc sinh toâi cuõng neâu cho cha meï hoïc sinh thaáy taàm quan troïng cuûa caùc công cụ tự học như từ điển, sách báo và nhờ họ hỗ trợ trong việc giúp con em có thói quen và hứng thú làm việc với từ điển, sách báo. Tôi hướng dẫn họ thông qua một câu chuyện mà tôi đã được đọc: “Đổ hay đỗ Tuấn là một học sinh 11 tuổi, ở xứ Huế_ đang viết “ăn xôi đỗ” bỗng ngừng lại vì không biết đỗ dấu hỏi hay ngã. Tuấn: Xôi đỗ thì dấu gì hở ba? Cha: Theo con thì daáu gì? Tuấn: dấu hỏi như con ngờ ngợ. Cha: Có cách gì để con tự kiểm tra không? Ví dụ như tra từ điển chẳng haïn. Tuấn: Ba nói cho con biết thì chỉ mất có mấy giây thôi, con tra từ điển mất nữa giờ đấy. Cả cuốn sách to tướng dày cộp!.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Cha: Con cứ thử xem mất mấy phút? Tra từ điển cũng có nhiều hứng thu bất ngờ đấy! Ba giúp con một tí nhé. Chữ Đ nằm sau chữ gì và trước chữ gì? Tuấn: Con biết rồi, sau chữ D và trước chữ E. Cha: Theá coøn “Ñoâ”? Tuấn: ( nhẩm một lúc) Đô sau Đo và trước Đơ. Tuấn lật các trang từ điển Tiếng Việt… Tuấn: A! Con tìm thấy rồi! Đổ đúng là dấu hỏi như con viết rồi. Cha: Con xem lại đi. Đổ con tìm thấy nghĩa là gì? Tuấn ( đọc): Đổ là sụp xuống, vứt đi: nhà đổ, đổ rác. Cha: Thế “ăn xôi đỗ” là “ăn xôi vứt đi”, “ xôi sụp xuống” ! Tuấn: Chết rồi! Con hấp tấp quá! Từ điển còn khối từ “đổ” mà con không để ý: đổ bể, đổ tội, đổ xô…. Có cả “đỗ” dấu ngã nữa. Cha: Thế con chọn từ nào? Tuấn: ( lẩm bẩm) Đỗ: trúng tuyển trong một kì thi. Đỗ: đậu, cây đậu. Đúng rồi! Đúng rồi! Đỗ dấu ngã mới cùng nghĩa với đậu. Xôi đỗ: xôi nấu với đỗ, đỗ dấu ngã. Cha: Đúng rồi! Thế con mất mấy phút để tra từ điển? Tuấn: ( nhìn đồng hồ): Chỉ có năm phút thôi!.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Cha: Khi con tra quen roài thì chæ maát moät vaøi phuùt thoâi. Maát vaøi phuùt mà con được gì nào? Tuấn: Sửa được chữ con viết sai. Cha: Đúng! Còn được cả cách tự học, cách làm việc độc lập với sách baùo. e) Định hướng cho học sinh tự học theo phong cách: học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung Học mọi nơi: Lê- nin đã từng nói: “Học, học, học nữa, học mãi”; học là học kiến thức, học cách suy nghĩ tìm ra kiến thức, học ở nhà, ở lớp, ở câu lạc bộ, ở thư viện, , ở nơi nghỉ hè… Học mọi lúc: Nếu học sinh đã biết học “mọi nơi” thì các em cũng sẽ bieát hoïc moïi luùc, taän duïng luùc raûnh roãi: hoïc vaøo luùc ñi du lòch, hoïc treân đường đi chơi, học khi đang hóng mát…Buổi sáng khi đi tập thể dục, các em có thể quan sát vị trí mọc của mặt trời ở chân trời phía Đông từ đó tập xác định các hướng Tây- Nam- Bắc, các em cũng có thể liên hệ đến sự chuyển động của mặt trời trong một ngày. Khi nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, lúc các em ngồi trên xe đi đến nơi tham quan, giaùo vieân cuõng coù theå giuùp caùc em hoïc caùch tính vaän toác của xe bằng cách dựa vào các cột cây số trên đường và chiếc đồng hồ; các em thực hiện một trò chơi thú vị là đếm các cột cây số và so với đồng hồ để rồi các em phát hiện ra rằng cứ một kilômet xe chạy mất 1phút 30giây, vậy vận tốc của xe là 40km/giờ. Hoặc lúc ăn xong một viên kẹo sữa, các em cũng có thể ôn lại từ vựng “milk candy” được viết bằng tiếng Anh trên tờ giấy gói viên kẹo….. Học mọi người: Học người thật, việc thật, người tốt, việc tốt, người xưa trong lịch sử, nhân vật trong truyện… Khi đọc truyện “Vua máy tính.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bin Ghết” ( truyện đọc lớp 4), yêu thích và khâm phục vua máy tính Bin Ghết _ nhà phát minh, nhà kinh doanh, một trong những người giàu có nhất hành tinh, học sinh học được ở nhân vật Bin Ghết tinh thần say mê học tập, làm việc; đam mê đọc sách từ khi còn rất bé; ý chí quyeát taâm cao… Học bằng mọi cách: Giáo viên cần giúp cho học sinh thoát khỏi lối học thụ động, đơn giản là đến lớp nghe giảng, về nhà làm bài, học thuộc bài…Kiên trì giúp học sinh có thói quen tự đọc sách báo, hứng thú tra từ điển, học qua radio, qua tivi, qua các phương tiện nghe nhìn, qua các trang web, qua các câu hỏi thông minh….. Phải bằng mọi cách tự mình tìm ra kiến thức, khám phá cái mới, cái chưa biết bằng hành động và suy nghó cuûa chính mình. Tóm lại: Học sinh cần rèn luyện cho bản thân tinh thần tự học, kĩ năng tự học. Các em không chỉ thực hiện việc tự học ở cấp Tiểu học hay Trung học mà việc tự học cần phải được rèn luyện suốt đời, rèn luyện đến mức nhuần nhuyễn thì mới có thể cập nhật được tri thức và “nên người” ở thời đại buøng noå thoâng tin nhö hieän nay..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> VI/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:. Qua một năm thực hiện, học sinh lớp tôi giảng dạy có nhiều thay đổi đáng kể trong việc tự nỗ lực học tập của bản thân. Những ngày đầu năm học, các em thường thụ động, lười động não trước một vấn đề mà giáo viên đặt ra. Hơn 50% số học sinh không làm bài nhà, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Nay, khi được giao việc, các em chủ động, tích cực, hợp tác cùng nhau thực hiện tốt nhiệm vụ. Các em chịu khó tìm hiểu qua sách báo, thậm chí có vài em rất hứng thú với việc lên mạng tìm tài liệu đọc… Hơn 90% học sinh luôn hòan thành tốt bài giáo viên giao, các em có ý thức tốt trong việc chuaån bò baøi.. Việc tự học của học sinh giúp kết quả học tập GKII khả quan rõ rệt. Cụ thể là, vào đầu năm học, kết quả khảo sát hai môn tiếng Việt và Tóan của lớp 4/1 như sau:.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> Đầu năm. Soá. Gioûi Phaàn. Khaù Soá Phaàn. Trung bình Soá Phaàn. Soá. Yeáu Phaàn. lượng trăm lượng trăm lượng trăm lượng trăm Tieáng Vieät 14 34.1% 12 29.3% 14 34.1% 1 2.4% Toùan 12 29.3% 10 24.4% 11 26.8% 8 19.5% Sau khi vận dụng việc giáo dục học sinh tự học, kết quả điểm thi GKII nhö sau:. GKII. Soá. Gioûi Phaàn. lượng Tieáng Vieät 24 Toùan 24. Khaù Soá Phaàn. Trung bình Yeáu Soá Phaàn Soá Phaàn. trăm lượng trăm lượng trăm lượng 58.5% 15 36.6% 2 4.9% 58.5% 14 34.2% 2 4.9% 1. traêm 2.4%. Những thành công bước đầu tuy chưa nhiều nhưng đó cũng chính là động lực giúp tôi tiếp tục áp dụng những kinh nghiệm này ở những năm học sau.. V/ BAØI HOÏC KINH NGHIEÄM Từ những việc làm và suy nghĩ trên, tôi đã rút ra bài học cho bản thân: Dạy học sinh tự học cần tôn trọng quyền cơ bản tự phát triển, tự thể hiện, tự khẳng định mình của trẻ, giáo viên hòan tòan không thể hiện thái độ quyền uy, mệnh lệnh, cưỡng ép, gò bó, áp đặt, kìm hãm sáng kiến của.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> học sinh…Phương pháp dạy học “ Thầy dạy- trò ghi nhớ”, áp đặt kiến thức có sẵn cho học sinh, học sinh thụ động tiếp thu và ghi nhớ lời thầy… không phù hợp trong việc giúp học sinh tự học. Về bản thân người giáo viên phải thực sự có lòng yêu nghề và tình thương đối với học sinh. Chính tình yêu thương của mình sẽ giúp cho người giáo viên suy nghĩ tìm tòi, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp, lựa chọn những cách thức phù hợp với từng đối tượng học sinh trong việc giúp các em tự học, tự tìm ra kiến thức…. V/ LỜI KẾT: Công tác giáo dục là sự nghiệp chung của mỗi người chúng ta. Làm thế nào để góp một phần nhỏ bé công sức của mình trong việc “trồng người” là điều tôi luôn hướng tới. Bởi “Dạy học là một nghề cao quý trong tất cả những nghề cao quý” Ngaøy 01 thaùng 04 naêm 2008 Người thực hiện. Đỗ Thị Mai Trâm. TRUNG TSHS. HOÏC KYØ. TIEÁNG VIEÄT G. K. TB. ÌNH Y.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> 20 20. CUOÁI HKI GIỮA HKII. 6. 8. 4. 2. 18. 10. 7. 3. 0. 20. PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG. - Nhaän xeùt : .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... - Xếp loại : ............................................................................................... Thuaän Hoøa , ngaøy. thaùng. TM. HÑKH Chuû tòch. naêm 2009.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG. - Nhaän xeùt : .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... - Xếp loại : ............................................................................................... Chaâu Thaønh , ngaøy. thaùng. TM. HÑKH Chuû tòch. naêm 2009.
<span class='text_page_counter'>(22)</span>