Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Luận văn thạc sĩ lịch sử quá trình phát triển giáo dục phổ thông ở thành phố bến tre trong thời kỳ đổi mới (1986 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

Cao Thị Hồng Nhung

Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2010)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

Cao Thị Hồng Nhung

Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2010)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:



TS. LÊ VĂN ĐẠT

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân tôi được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Lê Văn Đạt. Các số liệu, thống kê, kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Ngồi ra, luận văn có sự kế thừa các cơng trình nghiên cứu của những người đi trước và
có sự bổ sung thêm những tài liệu mới.

TPHCM, ngày 26 tháng 10 năm 2011
Tác giả luận văn

Cao Thị Hồng Nhung


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Ý nghĩa

BTVH

Bổ túc văn hóa


CBQL

Cán bộ quản lý

CĐSP

Cao đẳng sư phạm

GV

Giáo viên

GD-ĐT

Giáo dục và đào tạo

HKH

Hội khuyến học

HS

Học sinh

PCTHCS

Phổ cập trung học cơ sở

PCGDTH


PCGDTH

PCTrH

Phổ cập trung học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

XMC

Xóa mù chử


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................. 1

0T

0T

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................. 2
0T

0T

MỤC LỤC ............................................................................................................................ 3
0T

T
0

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 6
0T

T
0

1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................................... 6
0T

0T

2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................................................ 7
0T

0T


3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .................................................................................................................... 7
0T

0T

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................... 10
0T

0T

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 10
0T

T
0

6. Đóng góp của đề tài............................................................................................................................ 11
0T

0T

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................................................... 12
0T

0T

Chương 1. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE THỜI KÌ TRƯỚC
0T


ĐỔI MỚI (1975-1985)........................................................................................................ 13
0T

1.1. Khái quát về thành phố Bến Tre từ sau ngày giải phóng đến trước đổi mới ...................................... 13
0T

T
0

1.1.1. Điều kiện tự nhiên.................................................................................................................... 13
T
0

0T

1.1.2. Đặc điểm lịch sử, dân cư, văn hóa ............................................................................................ 14
T
0

T
0

1.2. Tình hình giáo dục phổ thông ở thành phố Bến Tre từ 1975-1985. ................................................... 18
0T

T
0

1.2.1. Hệ thống quản lý ngành .......................................................................................................... 18
T

0

0T

1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật. ............................................................................................................ 18
T
0

0T

1.2.4. Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy ................................................................... 24
T
0

T
0

1.3. Những thành tựu và hạn chế của giáo dục phổ thông thành phố Bến Tre (1975-1985) ..................... 25
0T

T
0

1.3.1. Những thành tựu ...................................................................................................................... 25
T
0

0T

1.3.2. Những hạn chế, bất cập. ........................................................................................................... 28

T
0

0T

1.3.3. Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành giáo dục và đào tạo thành phố Bến Tre..................................... 30
T
0

T
0


Chương 2 . GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE TRONG MƯỜI
0T

NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI (1986-1996). ................................................................................... 32
0T

2.1. Đường lối đổi mới giáo dục- đào tạo của Đảng và việc triển khai ở thành phố Bến Tre .................... 32
0T

T
0

2.1.1. Bối cảnh lịch sử của công cuộc đổi mới giáo dục – đào tạo ...................................................... 32
T
0

T

0

2.1.2. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới giáo dục – Đào tạo ................................... 33
T
0

T
0

2.1.2.1. Nhận thức vai trò của giáo dục – đào tạo .......................................................................... 33
T
0

T
0

2.1.2.2. Đường lối của Đảng về đổi mới giáo dục – đào tạo ........................................................... 33
T
0

T
0

2.1.3. Triển khai thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục ở thành phố Bến Tre.................................... 35
T
0

T
0


2.1.3.1. Giai đoạn 1986 – 1991...................................................................................................... 35
T
0

0T

2.1.3.2. Giai đoạn 1991 – 1996...................................................................................................... 37
T
0

0T

2.2. Những thành quả và hạn chế của giáo dục phổ thông thành phố Bến Tre trong mười năm đổi mới
0T

(1986-1996). .......................................................................................................................................... 38
T
0

2.2.1. Quy mô phát triển và hiệu quả đào tạo. .................................................................................... 38
T
0

T
0

2.2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ........................................................... 43
T
0


T
0

2.2.3. Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy. .................................................................. 46
T
0

T
0

2.2.4. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học. .................................................... 48
T
0

T
0

2.2.5. Phối hợp giáo dục giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội........................................................... 51
T
0

T
0

Chương 3. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE NHỮNG NĂM 1997 0T

2010 ..................................................................................................................................... 55
0T

3.1. Tiếp tục đường lối đổi mới giáo dục – Đào tạo của Đảng và việc triển khai thực hiện ở thành phố Bến

0T

Tre ......................................................................................................................................................... 55
T
0

3.1.1. Bối cảnh lịch sử ....................................................................................................................... 55
T
0

0T

3.1.2. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới Giáo dục – Đào tạo...................... 56
T
0

T
0

3.1.3. Thực hiện chủ trương tiếp tục đổi mới giáo dục ở thành phố Bến Tre ....................................... 59
T
0

T
0

3.2. Những thành quả và hạn chế của giáo dục phổ thông ở thành phố Bến Tre trong những năm 19970T

2010 ....................................................................................................................................................... 60
T

0

3.2.1. Quy mô phát triển và hiệu quả đào tạo ..................................................................................... 60
T
0

T
0

3.2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ........................................................... 70
T
0

T
0


3.2.3. Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy ................................................................... 76
T
0

T
0

3.2.4. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học ..................................................... 81
T
0

T
0


3.2.5. Phối hợp giáo dục giữa Gia đình – Nhà trường- Xã hội ............................................................ 86
T
0

T
0

KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 91
0T

T
0

1. Thành tựu giáo dục Bến Tre trong 25 năm đổi mới (1986 – 2010) ...................................................... 91
0T

T
0

2. Nguyên nhân thành tựu đó .................................................................................................................. 92
0T

0T

3. Những hạn chế, yếu kém của giáo dục phổ thông thành phố Bến Tre.................................................. 93
0T

T
0


4. Những bài học kinh nghiệm rút ra. ..................................................................................................... 94
0T

0T

5. Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của thành phố Bến Tre trong
0T

thời kỳ mới............................................................................................................................................. 98
T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 100
0T

0T

PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 105
0T

T
0


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, vì vậy
giáo dục và đào tạo được Đảng và Nhà nước ta xem là “quốc sách hàng đầu”, có vị trí quan
trọng và quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Mọi đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước ln lấy quan điểm của Hồ Chí Minh làm nền tảng:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Dù có trải qua bao nhiêu thăng trầm thử thách, dù trong điều kiện chiến tranh, hay sự
non yếu của kinh tế đất nước nhưng nền giáo dục nước ta vẫn giữ bản chất “của dân, do dân
và vì dân”.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân ấy, giáo dục phổ thông là “nền tảng văn hóa của
một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng yếu
cho sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[63;tr 94-96]. Song
những năm gần đây, giáo dục phổ thông đã đặt ra những vấn đề cấp bách như: chạy theo
thành tích, thương mại hóa trong giáo dục, nội dung chương trình quá tải…Những vấn đề
cấp bách ấy là những thách thức mới đối với giáo dục của đất nước nói chung, giáo dục của
từng địa phương nói riêng trong đó có tỉnh Bến Tre.
Bến Tre là nơi hội tụ những nhà giáo nổi tiếng: Võ Trường Toản – thầy của những bậc
thầy; Đồ Chiểu – người thầy mù, yêu nước nồng nàn với câu thơ bất hủ: “Đâm mấy thằng
gian bút chẳng tà”; Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh và biết bao thầy giáo đã đào tạo ra những thế
hệ con người biết yêu thương người, thông minh, bất khuất, bản lĩnh, đã viết nên những trang
sử vẻ vang cho quê hương.
Thành phố Bến Tre được sản sinh từ mảnh đất anh hùng Đồng Khởi , nằm vị trí trung
tâm của tỉnh Bến Tre, với hệ thống giao thông thủy bộ thuận lợi. Từ thành phố Bến Tre tàu
thuyền có thể đi thẳng tới thành phố Hồ Chí Minh, sang Mỹ Tho đến Cần Thơ, hoặc đến
trung tâm kinh tế khác ở đồng bằng Nam Bộ và có thể ngược dịng Cửu Long đến thủ đô
Phnompenh của Campuchia.


Anh dũng trong đấu tranh, cần cù, sáng tạo trong lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ thành phố Bến Tre, sau khi giành được thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mĩ, toàn Đảng, toàn dân thành phố Bến Tre nhanh chóng bước vào nhiệm vụ khắc
phục hậu quả chiến tranh, xây dựng quê hương giàu đẹp. Với sự nổ lực vượt bậc ấy, thành
phố Bến Tre đã gặt hái nhiều thành tựu quan trọng, trên mọi lĩnh vực trong đó có giáo dục

.Thành phố Bến Tre luôn là ngọn cờ đầu của tỉnh về giáo dục phổ thơng.
Hịa cùng cơng cuộc đổi mới tồn diện của đất nước, sự nghiệp giáo dục – đào tạo,
thành phố Bến Tre đã đạt nhiều thành tựu to lớn, song hạn chế cũng khơng ít. Những hạn chế
ấy cần phải được khắc phục.
Là người con của thành phố Bến Tre, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, thiết nghĩ
việc nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục là vấn đề cần thiết. Với nội dung của một luận văn thạc
sĩ, cá nhân chọn nghiên cứu về “Quá trình phát triển giáo dục phổ thông ở thành phố Bến Tre
trong thời kì đổi mới (1986-2010)”. Đề tài nghiên cứu trên nhằm tái hiện lại lịch sử của giáo
dục phổ thông thành phố Bến Tre từ nhiều góc độ, đồng thời đề xuất một số giải pháp định
hướng phát triển cho giáo dục phổ thơng của thành phố Bến Tre nói riêng, giáo dục tỉnh Bến
Tre nói chung trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu q trình phát triển của giáo dục phổ thông thành phố Bến Tre từ năm
1986 – 2010, nhằm khôi phục lại bức tranh của giáo dục phổ thông thành phố Bến Tre trong
25 năm đổi mới dưới nhiều gốc độ: quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước;
quá trình tổ chức đổi mới công tác giáo dục phổ thông của thành phố Bến Tre, trình bày cụ
thể những thành tựu đã đạt được, những hạn chế, yếu kém cần được khắc phục. Từ đó, nhận
thức tồn diện hơn vai trị động lực của sự phát triển giáo dục. Bên cạnh đó, cung cấp luận
cứ khoa học về giáo dục, góp phần định hướng cho công tác giáo dục của thành phố Bến Tre
trong những năm tới, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Bến
Tre, tỉnh Bến Tre nói riêng, cả nước nói chung.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Cùng với sự phát triển của giáo dục, nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo dục cũng
được quan tâm.


- Cuốn “Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 - 1985) ” của Bộ Giáo dục do Nxb Giáo dục
ban hành năm 1986, đã tiến hành tổng kết công tác giao dục 10 năm sau ngày giải phóng,
những phân tích nhận xét của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này, trong đó có đề cập đến
tình hình ngành giáo dục phổ thông.

- Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo dục (19861996) đã tổng hợp báo cáo của các địa phương sau 10 năm tiến hành đổi mới giáo dục.
Trong đó, thành tích giáo dục của các địa phương được trình bày cụ thể.
- Bộ giáo dục và đào tạo (1995), Các định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào
tạo từ nay đến 2010 nêu ra những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giáo
dục nói chung, giáo dục phổ thơng nói riêng trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Những tài liệu trên đã thể hiện những định hướng phát triển giáo dục của Đảng và Nhà
nước trong 25 năm đổi mới. Trong đó, tài liệu dành phần lớn chủ trương, đường lối để đưa
giáo dục phổ thông phát triển ở mỗi giai đoạn cụ thể.
- Cuốn “Từ bộ Quốc gia đến bộ giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)” do Vũ Xuân Ba,
Phạm Duy Bình, Nguyễn Minh Đường chủ biên, được Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm
1995.Với tính chất là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,cuốn sách dành một phần nói
về sự chỉ đạo của Bộ đối với ngành giáo dục phổ thông, nêu sơ qua giai đoạn 1975 – 1995.
Qua đây cho ta thấy sự quan tâm chỉ đạo, triển khai các đường lối chính sách về giáo dục
phổ thơng của Đảng đối với ngành giáo dục phổ thông giai đoạn 1975-1995.
- Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam là tác phẩm của tác giả Lê
Văn Giạng do Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội phát hành năm 2003, tác giả đã dành phần để
trình bày về hoạt động nền giáo dục của nước Việt Nam thống nhất và chủ nghĩa xã hội (từ
năm 1975 đến năm 2000). Tuy nhiên, tác giả cũng mới chỉ trình bày một cách khái quát nhất
có thể của nền giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục phổ thơng giai đoạn này được đề cập
đến một cách sơ lược.
- Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông 1986-2000, là luận
văn thạc sĩ lịch sử (năm 2007) của tác giả Trương Thị Hoa thuộc Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, Hà Nội. Thông qua luận văn này, tác giả trình bày một cách cơng phu, hệ thống sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp 15 năm đổi mới giáo dục phổ thông.


Qua đó, chúng ta có thể hình dung một cách rõ ràng về sự phát triển giáo dục phổ thông
nước nhà trong thời gian này.
- Cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam của tác giả Bùi Minh Hiền biên soạn được phát

hành năm 2004. Là một giáo trình dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng sư
phạm, cho nên tác giải viết một cách sức sơ lược về lịch sử giáo dục Việt Nam. Mặc dù
không phải là quyển sách viết riêng về giáo dục phổ thông nhưng ta có thể chọn lọc ra những
phần liên quan đến giáo dục phổ thông giai đoạn 1975 - 2000.
- Cuốn Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kì lịch sử của Nguyễn Đăng Tiến
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2001. Thông qua việc trình bày tình hình,
những đánh giá một cách tổng hợp về giáo dục phổ thông ở giai đoạn 1975 – 1995, chúng ta
nắm khái quát sơ lược về giáo dục và nhà trường phổ thông Việt Nam giới hạn đến năm
1995.
Các tài liệu có liên quan đến giáo dục – đào tạo Bến Tre, một phần giáo dục phổ thông
Bến Tre:
- Cuốn Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005 là cơng trình của Hội khoa học kinh tế Việt
Nam, Trung tâm Thông tin và tư vấn phát triển (2005) do Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
phát hành. Tập 2 của tác phẩm đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển của giáo dụcđào tạo tỉnh Bến Tre. Trong đó, có một phần ngắn trình bày về bước phát triển của Phòng
giáo dục thị xã Bến Tre, một số gương mặt điển hình giáo dục phổ thơng thị xã: Trường
THPT Nguyễn Đình Chiểu, trường Tiểu học Thị xã.
- Luận văn thạc sĩ : Thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục tiểu học tỉnh Bến Tre và
một số giải pháp của học viên Nguyễn Thanh Bình (2006), Đại học sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh đã nghiên cứu về giáo dục phổ thông tỉnh Bến Tre trong đó có thị xã Bến Tre trên
lĩnh vực xã hội hóa giáo dục. Luận văn trình bày một cách chi tiết về thực trạng và đưa ra
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác xã hội hóa giáo dục.
- Cuốn Địa chí Bến Tre là tác phẩm do Thạch Phương, Đoàn Tứ (chủ biên) được Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội phát hành năm 2001.Trong chương IV, trang 816 – 838 tác phẩm
đã trình bày giáo dục Bến Tre qua các thời kì: thế kỉ XVIII đến thế kỉ XX.Với nội dung này,
chúng ta có thể chọn lọc những chi tiết liên quan đến giáo dục phổ thông thị xã Bến Tre.
- Luận văn thạc sĩ : Thực trạng và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý
trường THPT công lập tỉnh Bến Tre của học viên Nguyễn văn Trung (2006), Đại học sư


phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã trình bày một cách lôgic và chi tiết về thực trạng cũng như

đưa ra những giải pháp mang tính khả thi xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý tại các trường
công lập tỉnh Bến Tre.
Tuy nhiên vẫn chưa có tác phẩm, cơng trình nào đi sâu và trình bày đầy đủ về giáo dục
phổ thông thành phố Bến Tre từ 1986 đến 2010. Trên cơ sở tiếp thu những thành quả đó, bản
thân muốn góp phần vào việc thu thập, phân tích, khái quát về sự phát triển của giáo dục phổ
thông thành phố ở Bến Tre trong 25 năm đổi mới.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là sự phát triển giáo dục phổ thông (hệ
công lập) thành phố Bến Tre từ năm 1986 dến 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: thành phố Bến Tre với địa giới hành chính hiện tại năm 2010 ( gồm 10
phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, Phú Khương, Phú Tân và 6 xã Sơn Đông, Mỹ Thạnh An, Phú
Nhuận, Nhơn Thạnh, Phú Hưng, Bình Phú)
Về thời gian: nghiên cứu giáo dục phổ thông ở thành phố Bến Tre 1986 – 2010.
Đến năm 2009, thị xã Bến Tre công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh, do đó xét về
phạm vi nghiên cứu luận văn thống nhất sẽ dùng chung “thành phố Bến Tre” thay cho “thị xã
Bến Tre”.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu.
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tơi đã sử dụng các nguồn tài liệu: Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng về giáo dục và giáo dục phổ thông, các Văn bản chỉ thị của Đảng bộ thành phố
Bến Tre nhằm triển khai kế hoạch của Đảng.
Đề tài kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu từ các cuốn sách, các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa học đi trước về giáo dục phổ thông. Bên cạnh đó,
đề tài cịn sử dụng những số liệu thống kê từ những tổng kết của Sở giáo dục, Phòng Giáo
dục, Cục thống kê tỉnh. Nguồn tư liệu sử dụng là tài liệu có độ chính xác, mang tính khoa
học và có khả năng đáp ứng tốt cho nghiên cứu của đề tài.



5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể nghiên cứu, đánh giá một cách chính xác, khoa học, khách quan đề tài tuân
thủ quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp
luận sử, vấn đề giáo dục và đào tạo.
Để khai thác một cách khoa học và khách quan các nguồn tư liệu hiện có và để trình
bày luận văn theo một hệ thống hợp lý, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử: đã được ứng dụng nhằm trình bày nội dung của đề tài theo tiến
trình lịch sử.
Phương pháp lơgíc: đã được sử dụng trong các phần khái quát, tổng kết, đánh giá của
luận văn.
Phương pháp sử liệu học chữ viết nhằm xử lý nguồn sử liệu chữ viết rất phong phú và
khai thác được những thông tin lịch sử tin cậy.
Phương pháp thống kê mô tả để thấy được những thay đổi về cơ cấu và kết quả hoạt
động giáo dục thông qua các con số.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt khoa học
Luận văn đã tiến hành tập hợp, hệ thống những tài liệu cơ bản, tin cậy nhằm trình bày
tương đối toàn diện, đầy đủ, cụ thể những giai đoạn phát triển giáo dục phổ thông ở thành
phố Bến Tre trong 25 đổi mới. Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về giáo dục phổ thông
ở thành phố Bến Tre từ khi đổi mới đến năm 2010. Bên cạnh đó luận văn cịn cung cấp
những tư liệu, luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu toàn diện về lịch sử địa phương thành
phố Bến Tre nói riêng, tỉnh Bến Tre nói chung, nguồn tư liệu cho các cơng trình nghiên cứu
về giáo dục của thành phố, của tỉnh sau này.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu “Quá trình phát triển giáo dục phổ thơng ở thành phố Bến Tre
trong thời kì đổi mới (1986-2010)” là tài liệu thiết thực cho Đảng bộ, chính quyền thành phố
Bến Tre đề ra những chính sách thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của thành phố Bến Tre trong
những năm tới. Luận văn cịn góp phần tổng kết thực tiễn cơng tác giáo dục phổ thơng thành
phố Bến Tre, thơng qua đó tìm ra những giải pháp cụ thể, thực tế phục vụ cho sự nghiệp giáo
dục của thành phố, của tỉnh Bến Tre



7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội
dung, phần kết luận.
Riêng phần nội dung của luận văn được chia thành 3 chương
- Chương I: Giáo dục phổ ở thơng thành phố Bến Tre thời kì trước đổi mới (19751985)
- Chương II: Giáo dục phổ thông ở thành phố Bến Tre trong mười năm đầu đổi mới
(1986-1996)
- Chương III:Giáo dục phổ thông ở thành phố Bến Tre những năm 1997- 2010


Chương 1. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE THỜI KÌ
TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975-1985)
1.1. Khái quát về thành phố Bến Tre từ sau ngày giải phóng đến trước đổi mới
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bến Tre là một tỉnh châu thổ nằm sát biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có diện
tích tự nhiên khoảng 2.315km2, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh,
P

P

phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long và phía đơng giáp biển, có chiều dài bờ biển khoảng chừng
65km. Bến Tre được hợp thành bởi ba cù lao lớn là: cù lao Minh, cù lao An Hóa và cù lao
Bảo, do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long là sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Ba Lai
và sông Cổ Chiên bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ. Hệ thống kênh rạch nơi đây chằng chịt liên
thơng với nhau, nối liền các dịng sông lớn như Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên
nên không chỉ thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy mà cịn thuận lợi trong sản
xuất nơng nghiệp.
Thành phố Bến Tre được thành lập trên cơ sở tồn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các

đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bến Tre, với diện tích tự nhiên 67,42 km2. Có tọa độ
P

P

địa lý: Điểm cực Nam nằm trên vĩ độ 9o48' Bắc, điểm cực Bắc nằm trên vĩ độ 10o20' Bắc,
điểm cực Đông nằm trên kinh độ 106o48' Đông, điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105o57'
Đông.
Thành phố Bến Tre tỉnh lỵ của tỉnh, nằm trên cù lao Bảo, chung với các huyện Châu
Thành, Giồng Trơm, Ba Tri. Thành phố có hình tam giác; Bắc và Đông giáp huyện Châu
Thành; Nam giáp huyện Giồng Trôm; Tây giáp sông Hàm Luông, ngăn cách với huyện Mỏ
Cày Bắc.
Thành phố Bến Tre có khí hậu nhiệt đới gió mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,
các tháng cịn lại là mùa khơ. Nhiệt độ trung bình hàng năm có dao động trong khoảng 26°C
đến 28 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.250 mm đến 1.500 mm.
Nằm ở vị trí gần như trung tâm của tỉnh với hệ thống giao thông thủy, bộ thuận lợi: từ
thị thành phố tàu thuyền có thể đi thẳng đến thành phố Hồ Chí Minh, sang Mỹ Tho, Cần
Thơ, các trung tâm kinh tế khác ở Đông Nam Bộ, ngược dịng sơng Cửu Long đến tận


Phnom Pênh. Đường ô-tô nối liền thành phố Bến Tre với thành phố Hồ Chí Minh dài 86km.
Từ thành phố Bến Tre, theo quốc lộ 60 qua phà Hàm Luông, đến thị trấn Mỏ Cày, ra phà Cổ
Chiên sang Trà Vinh. Từ thị trấn Mỏ Cày theo quốc lộ 57, ngược về hướng tây đi đến Chợ
Lách sang tỉnh Vĩnh Long, ngồi ra cịn có một hệ thống tỉnh lộ từ thành phố Bến Tre đi về
các huyện. Hai hệ thống đường thủy và đường bộ, nhất là đường thủy, đã tạo điều kiện cho
đồng bào, từ những xóm làng hẻo lánh xa xơi nhất của ba cù lao có thể đi đến tỉnh lỵ một
cách dễ dàng. Với hệ thống giao thông thủy, bộ đặc biệt thuận lợi trên, thành phố Bến Tre có
đầy đủ những ưu thế để phát triển thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của vùng
đất cù lao, sơng nước.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử, dân cư, văn hóa

* Sự thay đổi đơn vị hành chính
Địa danh Bến Tre xuất hiện dưới thời nhà Nguyễn và trở thành trung tâm hành chính
kể từ khi Pháp đặt dinh tham biện đầu tiên bên bờ rạch Bến Tre (tháng 6-1867). Năm 1871,
sở tham biện Bến Tre là một trong số 7 sở tham biện bị bãi bỏ để sáp nhập với sở tham biện
Mỏ Cày. Ngày 02-09-1871, sở tham biện Mỏ Cày dời lỵ sở về chỗ cũ bên rạch Bến Tre (làng
An Hội). Ngày 01-01-1900, Pháp bỏ sở tham biện để thành lập tỉnh Bến Tre, tỉnh lỵ Bến Tre
được nâng cấp từ sở lỵ sở tham biện Mỏ Cày trước đó.
Sau khi thiết lập được bộ máy hành chính trên đất Bến Tre, người Pháp bắt đầu kiến
thiết các công sở, mở mang đường phố, bến, chợ... ở nơi tỉnh lỵ như: nhà bưu điện (1872),
dinh tham biện (1876), khu nhà giam (1882), ngân khố (1885), trường tiểu học (1887), nhà
lồng chợ (1892), bệnh xá (1889). Một số cơ sở giải trí, phục vụ cho sinh hoạt binh lính, cơng
chức cũng lần lượt được xây dựng tiếp vào đầu thế kỷ XX.Tuy nhiên, người Pháp khơng có
ý định xây dựng Bến tre thành một đơ thị lớn.
Thời Việt Nam Cộng Hồ, tỉnh Bến Tre đổi thành tỉnh Kiến Hoà, thị xã Bến Tre đổi
thành quận Trúc Giang. Sau 30-04-1975, quận Trúc Giang bị giải thể, nhập địa bàn vào quận
huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Sau năm 1976, tách đất huyện Châu Thành tái lập thị xã Bến Tre - tỉnh lỵ tỉnh Bến
Tre - bao gồm 5 phường và 6 xã. Ngày 14-03-1984, giải thể 3 xã Bình Ngun, Mỹ Hồ, An
Hồ để thành lập 3 phường: 6, 7, 8. Ngày 15-03-1984, được sáp nhập thêm các xã Nhơn
Thạnh, Phú Nhuận tách từ huyện Giồng Trôm, xã Phú Hưng tách từ huyện Châu Thành.


Ngày 11-04-1985, tách xã Sơn Đông của huyện Châu Thành nhập vào thị xã Bến Tre; thị xã
Bến Tre có 8 phường 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 7 xã là xã Bình Phú, Phú Khương, Mỹ Thạnh
An, Nhơn thạnh, Phú Nhuận, Phú Hưng và Sơn Đông. Ngày 25-06-1999, thành lập phường
Phú Khương thuộc thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã
Phú Khương. Ngày 09-02-2008 thành lập phường Phú Tân thuộc thị xã Bến Tre. Như vậy,
đến tháng 9 năm 2008, thị xã Bến Tre có 6.742 ha diện tích tự nhiên và 114.597 nhân khẩu,
có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, Phú Khương,
Phú Tân và các xã: Sơn Đông, Mỹ Thạnh An, Phú Nhuận, Nhơn Thạnh, Phú Hưng, Bình

Phú. Ngày 11 tháng 8 năm 2009, thị xã Bến Tre chính thức trở thành phố trực thuộc tỉnh với
16 đơn vị hành chính (10 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, Phú Khương, Phú Tân và 6 xã Sơn
Đông, Mỹ Thạnh An, Phú Nhuận, Nhơn Thạnh, Phú Hưng, Bình Phú).
* Thành phố Bến Tre sau những ngày giải phóng
Để quản lý thành phố những ngày đầu giải phóng; ngày 2 -5-1975 Ủy ban Quân quản
Thị xã được tổ chức và tuyên bố có nhiệm vụ quản lý các mặt quân sự, chính trị và kinh tế
trên địa bàn. Đồng chí Bùi Hữu Thời phó Bí thư Thị xã ủy được cử làm Chủ tịch Ủy ban.
Sau ngày bầu cử Quốc hội, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp được tiến hành, Thị
xã và các xã, khu nội ô đã chính thức có Ủy ban nhân dân cách mạng để chỉ đạo, điều hành
các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn. Về công tác xây
dựng Đảng, Tỉnh ủy đã tăng cường cán bộ của Tỉnh về Thị xã ủy nhằm chuẩn bị cho Đại hội
đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ nhất (nhiệm kỳ 1977-1978).
Qua 10 năm (1975-1985), với 3 lần Đại hội Đảng: 1977-1978,1979-1980,1983-1985.
Các nghị quyết của Đại hội Đảng bộ được trình bày khá đậm nét, thể hiện rõ nghị quyết kỳ
sau vừa là sự nối tiếp của thời kỳ trước vừa có những bước tiến trong việc xác định các mục
tiêu kinh tế xã hội sát với tình hình thực tế địa phương. Đảng bộ Thị xã lãnh đạo toàn quân
toàn dân Thị xã vượt qua nhiều khó khăn, trở lực.
Với nhiệm vụ chung “Vừa cải tạo xã hội chủ nghĩa, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kì đầu của đất nước trong bối cảnh vừa có hịa bình, vừa có nguy cơ chiến
tranh.Với sự đồn kết một lịng của Đảng bộ Thị xã và với ý thức trách nhiệm, tinh thần tiến
công cách mạng đã làm cho Thị xã chuyển biến và đạt được một số thành tựu cơ bản trên
mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Đáng kể nhất là sự nghiệp giáo dục: ngành giáo dục


phát triển đồng bộ từ nhà trẻ, mẫu giáo đến trung học phổ thơng, cứ 3 người dân có 1 người
đi học.
Hệ thống chính trị : đến năm 1985 tồn Thị xã có 45 cơ sở Đảng, với 1218 đảng viên,
trong đó có 35/45 cơ sở Đảng được cơng nhận vững mạnh nhiều năm liền. Năm 1984, 1985
Đảng bộ Thị xã được công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
* Đặc điểm dân cư, văn hóa

Trước đây, thành phố Bến Tre là khu vực sinh tụ của người Khmer. Cho đến những
năm đầu của thế kỷ XVII, nơi đây cũng chỉ là vùng đất cịn hoang hóa, cỏ cây rậm rạp, việc
khai khẩn ruộng vườn của cư bản địa người Khmer tập trung chủ yếu trên các giồng đất cao.
Đến cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, người Việt mới đến đây cư ngụ.
Thành phố Bến Tre có 3 dân tộc chủ yếu: dân tộc Kinh chiếm đa số, đến Hoa, Khmer.
Cộng đồng dân cư thành phố Bến Tre có nguồn gốc từ nhiều nơi khác nhau, họ tụ cư về đây
cùng chung sống gắn bó, chung tay góp sức để xây dựng một thành phố Bến Tre phát triển,
năng động.
Cùng với các huyện trong tỉnh, cư dân thành phố Bến Tre có nguồn gốc chủ yếu là dân
vùng đất Ngũ Quảng, chuyển cư vào đất Đồng Nai-Gia Định, tuy không ồ ạt nhưng tương
đối liên tục và đều đặn. Trong thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, số lưu dân đến định cư ở
đây gồm có hai luồng chính: luồng di chuyển về Đồng Nai-Bến Nghé, Tân Bình, rồi sau đó
mới chuyển vào các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long; luồng thứ hai đi đường biển,
bằng ghe bầu theo gió mùa hàng năm, thẳng vào các cửa sông như cửa Tiểu, cửa Đại rồi
ngược dịng các sơng lớn tiến sâu vào nội địa, toả ra định cư ở các giồng, gò, vùng đất cao
ráo có nước ngọt ở hai bên bờ sơng hoặc dọc theo các con rạch. Và do đường bộ hiểm trở,
trộm cướp thường xuyên nên lưu dân đến Bến Tre chủ yếu bằng đường biển.
Riêng người Hoa đến thành phố Bến Tre gồm hai luồng chính: luồng cư trú chính trị
do phong trào “phản Thanh phục Minh” thất bại, được chúa Nguyễn Phúc Tần cho đến định
cư ở vùng Biên Hòa và Mỹ Tho năm 1679, sau đó lan tỏa đến các tỉnh trong khu vực, trong
đó có thành phố Bến Tre. Luồng thứ hai cùng hòa nhập vào dòng người di dân tự do tìm kế
mưu sinh của người Việt, người Hoa sau khi từ Trung Quốc sang Việt Nam, từng bước xuôi
về phương Nam và đến Bến Tre bằng cả đường bộ và đường biển.


Hiện tại, số dân người Hoa đứng hàng thứ hai sau dân tộc Kinh. Họ sống chủ yếu tại
thành phố bằng nghề bn bán. Dân tộc Hoa đóng góp lớn trong sự phát triển kinh tế của
thành phố Bến Tre.
Cũng như những địa phương khác, cư dân thành phố Bến Tre hầu hết theo tín ngưỡng
thờ phụng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hầu như diễn ra đều khắp, từ nơi thị tứ đến

chốn làng quê hẻo lánh, từ miệt biển đến miệt đồng bưng hay miệt vườn. Nhìn chung cách
cúng thờ ơng bà, tổ tiên của đồng bào nơi đây khơng có gì khác biệt so với các vùng khác
trong cả nước. Ở những gia đình, dịng họ lớn, con cháu chung nhau làm nhà thờ, hoặc duy
trì ngơi nhà xưa của ơng bà để lại làm nơi thờ cúng, gọi là từ đường.
Một nét đẹp truyền thống của người dân thành phố Bến Tre là tục thờ phụng những
người có cơng trong sự nghiệp khai phá, xây dựng phát triển văn hóa, cũng như trong sự
nghiệp chống ngoại xâm. Vị thần được thờ ở trung tâm của đình làng khơng chỉ có Thành
Hồng bổn cảnh mà cịn có Thần Nơng, Thổ Địa, Thổ Cơng, và các thần nữ, bà Chúa Xứ, bà
Ngũ hành,...Cư dân làm nghề nơng phương thức canh tác chính là nghề trồng lúa nước và
nghề làm vườn, trồng giồng. Thiết chế vật chất trong tín ngưỡng của cư dân làm nghề nơng
là đình làng. Theo một thống kê vào năm 1993 của Bảo tàng tỉnh Bến Tre thành phố Bến Tre
có 11 ngơi đình: đình xã Mỹ Hóa, đình An Hội….
Ngồi ra, trong đời sống tơn giáo tín ngưỡng của cư dân thành phố Bến Tre, những vị
thần Mẫu luôn chiếm một vị trí quan trọng. Những vị thần Mẫu được thờ tự riêng, hoặc được
phối thờ trong các ngơi đình, ngơi miếu như: Bà Chúa xứ, Bà Thủy, Thiên Hậu Thánh Mẫu,
Cửu Thiên Huyền Nữ, Cửu vị Thánh nương
Bên cạnh đó, người dân thành phố Bến Tre cịn theo các tơn giáo như: Phật giáo,
Thiên chúa giáo, Cao đài, Hòa hảo. Tại trung tâm thành phố Bến Tre còn hiện hữu các thiết
chế tôn giáo và đa dạng lối kiến trúc như: Chùa Viên Minh - tọa lạc tại (Phường 2), Chùa
Viên Giác (Phường 5), Nhà thờ Bến Tre (Phường 3), Cao Đài Ban chỉnh Nguyễn Ngọc
Tương (Phường 6).


1.2. Tình hình giáo dục phổ thơng ở thành phố Bến Tre từ 1975-1985.
1.2.1. Hệ thống quản lý ngành
Ngay ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng thời với việc thực hiện
nhiệm vụ năm học mới, Ngành giáo dục Bến Tre tích cực triển khai xây dựng, củng cố tổ
chức bộ máy quản lý Ngành từ tỉnh đến cơ sở. Bộ máy cơ quan Ty giáo dục là cơ quan lãnh
đạo, quản lý cao nhất của Ngành ở cấp Tỉnh. Ở mỗi huyện đều thành lập Phòng giáo dục. Tại
thị xã Bến Tre, Phòng giáo dục thị xã Bến Tre cũng được thành lập, lúc đầu mang tên Ban

điều hành giáo dục thị xã, quản lý 12 đơn vị trực thuộc. Cuối năm 1976, Ban điều hành giáo
dục thị xã được đổi thành Ban giáo dục thị xã, tuyển dụng chính thức 238 cán bộ, giáo viên,
nâng số đơn vị trực thuộc lên 15 đơn vị. Bắt đầu từ năm học 1982-1983 đến nay để phù hợp
với tình hình mới, là cơ quan quản lí giáo dục trên địa bàn thị xã, Ban giáo dục thị xã đổi tên
thành Phòng giáo dục và đào tạo thị xã Bến Tre.
Ban lãnh đạo các trường phổ thông cấp 1,2,3 được hướng dẫn tạm thời bình bầu Ban
điều hành thay Ban giám hiệu cũ, tùy theo qui mô cụ thể của trường Ban điều hành gồm: 1
Trưởng ban, 1-2 Phó Trưởng ban và các ủy viên.Đối với các trường phổ thông cấp 2,3 Ty
giáo dục tăng cường cán bộ của Ty làm cán bộ phụ trách trường. Đối với trường phổ thông
cấp I, quản lý là Tổ trưởng cũng là người quản lý trường mẫu giáo. Từ sau Nghị quyết cải
cách giáo (1979) mơ hình Ban Điều hành ở các trường phổ thơng đã được thay bằng Ban
Giám hiệu, trong đó Hiệu trưởng, Hiệu phó được bổ nhiệm là những giáo viên nổi trội, có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt có hướng phát triển vào Đồn, Đảng. Tổ chức Cơng đoàn,
Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên, Hội cha mẹ học sinh đã hình thành ở các đơn vị trường.
Phân cấp quản lý trong Ngành từng bước được xác định: Ty quản lý các trường phổ
thơng, bổ túc văn hóa cấp 2, 3, các đơn vị trực thuộc về nhân sự, tài chính, chun mơn.
Phịng giáo dục huyện - thị xã quản lý các lớp mẫu giáo, trường phổ thông cấp 1, 2 bổ túc
văn hóa cấp 1.
1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật.
*Trường lớp
Ra khỏi cuộc chiến tranh, tỉnh Bến Tre nói chung, thành phố Bến Tre nói riêng phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề về người và của. Chính vì vậy, sau ngày giải phóng Ngành


giáo dục phải tiếp quản một hệ thống cơ sở vật chất trường lớp trong tình trạng thiếu thốn,
nghèo nàn và lạc hậu. Do đó, để chuẩn bị cho năm học mới với khí thế hào hứng dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Bến Tre, sự nhiệt tình của nhân dân đã dấy lên một phong trào
xây cất trường lớp tạm thời bằng mọi vật liệu có được đã được triển khai. Chỉ trong thời gian
ngắn đã có hàng chục phòng học bằng cây, lá được cất lên khắp ở thành phố, đáp ứng nhu
cầu học tập cho nhân dân.

Việc cải tạo các cơ sở trường tư đã diễn ra thuận lợi. Với mục tiêu đảm bảo việc học
hành cho con em nhân dân trên địa bàn thành phố Bến Tre, Ngành cùng lãnh đạo địa phương
đã nhạy bén tuyên truyền, vận động các chủ cơ sở trường tư, đặc biệt là các cơ sở giáo dục
do tôn giáo quản lý đã tự nguyện giao trường cho chính quyền cách mạng dưới hình thức
hiến hoặc cho mượn lâu dài. Từ đó Ngành tiếp tục sử dụng, đưa các trường tư vào hoạt động
dưới hình thức cơng lập hóa với mục đích tách nhà trường khỏi ảnh hưởng của tơn giáo và
chủ trương đưa dần tồn bộ trường tư vào sự quản lý của Nhà nước.
Bên cạnh việc cố gắng phủ kín các trường cấp I trên tồn địa bàn thành phố, Ngành
còn chuẩn bị các điều kiện để tách cấp II ra khỏi trường cấp II,III, hình thành trường trung
học cơ sở (cấpI,II)
Tình hình trường lớp THCS, THPT trong những năm 1977-1981 được cụ thể hóa với
bảng số liệu như sau:
Bảng 1.1.Trường, lớp THCS, THPT năm 1977-1981
Năm học

Số trường

Số lớp

THCS

THPT

THCS

THPT

1977-1978

10


1

311

29

1978-1979

12

1

307

30

1979-1980

12

1

328

29

1980-1981

12


1

348

30

Nguồn: Sở giáo dục Bến Tre [96].
Đến năm học 1980-1981, trên địa bàn thành phố Bến Tre đã từng bước tách trường
cấp 2 khỏi cấp 3 và hình thành trường THCS cấp 1,2 với 12 trường trong đó có 348 lớp.


Nghị quyết số 14NQ/TW về cải cách giáo dục của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng vào ngày 11 tháng 1 năm 1979 tạo ra bước chuyển mới trong giáo dục, đặc biệt
sự phát triển về cơ sở trường lớp.
Từ năm 1981-1985, Ngành đã cùng các địa phương tiếp tục củng cố và phát triển
mạng lưới trường phổ thông ở hai bậc học phổ thông cơ sở và phổ thông trung học nhằm đáp
ứng thực tế về qui mô học sinh ngày một tăng, thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục, trước
mắt là phổ cập cấp I.
Trường lớp giai đoạn 1982 đến 1985 tăng như sau:
Bảng 1.2.Số trường, lớp từ năm 1981-1985
Năm học

Số trường
THCS

Số lớp

THPT


THCS
CấpI

CấpII

THPT

1981-1982

12

1

260

115

30

1982-1983

12

1

287

120

31


1983-1984

17

1

345

147

32

1984-1985

18

1

368

164

36

Nguồn: Sở giáo dục Bến Tre[96].
Đến năm học 1984-1985 số trường phổ thông trên địa bàn thành phố Bến Tre là 19 với
tổng số lớp là 568 lớp. So sánh với năm học đầu sau khi thực hiện cải cách giáo dục số
trường cũng như lớp phổ thông tăng lên khá nhiều: tăng lên 6 trường (chủ yếu là trường
THCS) với 163 lớp. Điểm nổi bật về trường lớp trong năm học 1984-1985 so với các năm

học trước ta thấy sự phát triển về trường, lớp mang tính đồng bộ. Điều đó đáp ứng qui mô
tăng nhanh về số lượng học sinh của năm học, đảm bảo về chổ ngồi cho học sinh khi đến
lớp. Trong khi các năm học trước số lớp tăng lên đáng kể, nhưng số trường tăng lên không
hoặc tăng q ít, sự khơng đồng bộ gây những hạn chế về điều kiện chổ ngồi cho học sinh.
*Trang thiết bị
Trong bối cảnh vơ cùng khó khăn thì vấn đề về trang thiết bị trở nên nan giải đối với
Ngành giáo dục và các cấp lãnh đạo. Trong khi tình trạng kinh tế nghèo nàn, đời sống khó
khăn thì kinh phí Nhà nước chỉ đáp ứng một phần cho hoạt động của Ngành nên việc đầu tư


xây dựng trường lớp là rất hạn chế chỉ tập trung tu sửa, xây cất phòng học bằng cây, tre, lá
tạm thời, bán kiên cố.. đầu tư về trang thiết bị cịn q ít.
Từ năm học 1979-1980 để đáp ứng cho nhu cầu cải cách giáo dục thiết bị dạy học cho
giáo dục phổ thông trong thời kỳ này cũng được chú ý hơn. Từ Bộ đến các địa phương đã có
các cơ quan chuyên lo việc sản xuất, cung ứng, hướng dẫn tổ chức quản lý, sử dụng thiết bị
dạy học cho các trường phổ thông. Bộ giáo dục đã ban hành quy chế bảo quản đồ dùng dạy
học và bằng cách ấy khuyến khích các thầy cơ giáo cải tiến đồ dùng dạy học. Chỉ thị 23/CT
ngày 16/10/1984 quy định nội dung công việc giáo viên cần làm để sản xuất đồ dùng dạy
học, quy định chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cộng tác viên làm đồ dùng dạy học.
Để có thể phục vụ tốt cho công tác giảng dạy cũng như hưởng ứng cuộc vận động làm
đồ dùng dạy học của Bộ, mỗi giáo viên đều tự làm đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy và
bổ sung cho đồ dùng dạy học chung của trường. Mỗi năm các trường đã vận động mỗi giáo
viên tự làm đồ dùng dạy học, phục vụ công tác giảng dạy của mình.
1.2.3. Tình hình đội ngũ cán bộ, giáo viên
Để kịp chỉ đạo về giáo dục ở Miền Nam sau ngày giải phóng, ngày 17 tháng 6 năm
1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ban hành Chỉ thị số 221-Ct/TW
nêu rõ “Trong tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng Miền Nam hiện nay, cơng tác giáo
dục giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển chế độ dân tộc, dân chủ,
nhân dân, …” [34;12]. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng lúc bấy giờ của giáo dục Miền Nam
trong đó có Bến Tre phải nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động của nền giáo

dục thực dân mới của Mỹ -ngụy ở vùng mới giải phóng, tích cực góp phần xây dựng con
người mới.
Để có thể thực hiện nhiệm vụ quan trọng trên Đảng bộ, chính quyền và tồn dân thành
phố Bến Tre phải vượt lên khắc phục những khó khăn khơng chỉ là vấn đề về hậu quả của
nền giáo dục thực dân để lại mà cả về sự nghèo nàn của cơ sở vật chất, mà quan trọng hơn
cả là xây dựng được đội ngũ giáo viên để đáp ứng cho nhu cầu trước mắt cho năm học mới.
Đội ngũ giáo viên được xây dựng nên từ nhiều hướng: cải tạo, bồi dưỡng giáo viên cũ, đào
tạo đội ngũ giáo viên mới, đặc biệt là tiếp nhận được đội ngũ giáo viên kháng chiến tại chổ,
giáo viên ở chiến khu về, giáo viên từ miền Bắc chi viện. Vì vậy, đội ngũ giáo viên trong
những năm học đầu sau ngày giải phóng cơ bản đáp ứng yêu cầu giáo dục của địa phương.
Số lượng giáo viên các cấp ở thành phố Bến Tre trong những năm 1976-1981 là:


Bảng 1.3.Số lượng giáo viên các cấp 1976-1981.
Năm học

Giáo viên C1

Giáo viên C2

Giáo viên C3

Tổng số

1976-1977

272

134


58

464

1977-1978

238

123

55

416

1978-1979

211

95

47

353

1979-1980

232

130


61

423

1980-1981

249

141

55

445

Nguồn: Sở giáo dục Bến Tre [96]
Năm học đầu tiên sau ngày giải phóng từ nhiều nguồn khác nhau, Thị xã Bến Tre đã
huy động được 464 giáo viên, trong đó có đủ cả 3 cấp.Tuy nhiên, những năm sau dưới tác
động của tình hình kinh tế cũng như chiến tranh biên giới đời sống giáo viên q khó khăn
nên tình trạng giáo viên bỏ nghề, bỏ trường khá đơng. Do đó đội ngũ giáo viên giảm về số
lượng, nhất là năm học 1978-1979, mặc dù giáo viên mới được đào tạo cấp tốc hằng năm đều
có nhưng vẫn khơng bù nổi vào chổ trống giáo viên bỏ nghề. Từ năm học 1980-1981 đội ngũ
giáo viên có chiều hướng mới ổn định dần, tổng số 445 giáo viên. So với năm học 19761977 chỉ giảm 19 giáo viên.
* Thực trạng chương trình cải tạo, bồi dưỡng giáo viên cũ
Để giúp giáo viên chế độ cũ nhanh chóng trở lại nhiệm sở. Địa phương đã mở liên tiếp
các đợt sinh hoạt chính trị nhằm giúp lực lượng giáo viên này có những hiểu biết về cách
mạng, về chiến thắng vĩ đại của kháng chiến chống Mỹ cứu nước, về Đảng về Bác Hồ, về
đường lối giáo dục cách mạng, về nhiệm vụ của người giáo viên dưới mái trường xã hội chủ
nghĩa. Chính quyền và ngành đã thành lập Hội đồng tuyển dụng giáo viên, phân công nhiệm
sở mới. Song ngành cũng rất thận trọng trong việc tuyển dụng. Trên tồn tỉnh nói chung, ở
thành phố Bến Tre nói riêng, hầu hết giáo viên chế độ cũ đều được tuyển dụng, trừ bộ phận

nhỏ là sĩ quan, tình báo của địch biệt phái vào trường để kìm kẹp đội ngũ cán bộ giáo viên.
Đây là bộ phận giáo viên chiếm đa số trong đội ngũ giáo viên ở năm học đầu sau ngày
giải phóng. Thơng qua các đợt học sinh chính trị do Đảng bộ Thị xã tổ chức đã đưa họ trở
thành giáo viên thật sự dưới mái trường xã hội chủ nghĩa.
* Đào tạo đội ngũ giáo viên mới


Số lượng giáo viên trong chế độ cũ có giới hạn, do đó giải pháp trên chỉ là đáp ứng tức
thời cho năm học đầu sau ngày giải phóng. Việc đào tạo đội ngũ giáo viên mới đủ về số
lượng càng trở nên cấp bách hơn hết.
Sau thời gian mở liên tiếp các khóa đào tạo giáo viên cấp tốc, đến tháng 1 năm 1977,
Ủy ban Nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập Trường Trung học sư phạm của tỉnh để đào
tạo giáo viên cấp I, cơ sở đặt tại Trường Trung học Kỹ thuật mới tiếp quản, thuộc xã Sơn
Đông – huyện Châu Thành với hệ đào tạo : Hệ 12+1; Hệ 11+1.
Tháng 9 năm 1977, Bộ trưởng Bộ Giáo dục ra quyết định số 123/QĐ thành lập cơ sở
Cao đẳng Bến Tre thuộc trường Cao đẳng Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đến tháng 6
năm 1979 được Bộ phân cấp quản lý về tỉnh. Song, ngay từ đầu trường đã hoạt động với tư
cách là một trường sư phạm cấp 2 độc lập.
Từ năm 1977-1985, việc đào tạo đội ngũ giáo viên mới đã giải quyết được khó khăn
về vấn đề thiếu giáo viên tại thành phố Bến Tre. Tính trong thời gian 5 năm (1980-1985) số
giáo viên mới được đào tạo là 275 GV [96;17].Trong đó giáo viên cấp I là 155 người, giáo
viên cấp II là 120 người [96;18-19]. Riêng giáo viên cấp 3 cịn rất hạn chế chỉ có 8 người
[96;20].
Giáo viên mới đào tạo không chỉ đáp ứng nhu cầu bù vào giáo viên bỏ nghề, khắc
phục trình trạng thiếu giáo viên mà còn là dự nguồn hằng năm và lâu dài cho đội ngũ giáo
viên ở Thị xã Bến Tre và cả tỉnh nói chung.
*Tăng cường đội ngũ giáo viên kháng chiến tại chổ, giáo viên ở chiến khu về, giáo
viên từ miền Bắc chi viện
Cũng trong thời gian này, thực hiện trách nhiệm “Giáo dục miền Bắc tích cực giúp đỡ
giáo dục miền Nam”, “Vĩnh Phúc-Bến Tre kết nghĩa”, đã có trên 100 cán bộ, giáo viên cấp 2,

3 của miền Bắc (cán bộ, giáo viên A) về chi viện cho Bến Tre. Trên địa bàn thành phố Bến
Tre có khoảng hơn 20 cán bộ, giáo viên chi viện. Trong đó, một số cán bộ, giáo viên cấp 3 là
con, em Bến Tre tập kết, học tập ở Miền Bắc trở về.
Bộ phận giáo viên này hạn chế về số lượng, tuy nhiên họ là lực lượng nồng cốt cho
các trường. Hầu hết trong số họ là cán bộ tại phịng, hoặc là hiệu trưởng, hiệu phó ở các
trường phổ thơng.
Chào đón năm học mới sau ngày giải phóng, dưới sự nổ lực của Đảng bộ, Ngành,
nhân dân thành phố Bến Tre đã chuẩn bị một đội ngũ cán bộ, giáo viên bậc phổ thông tương


×