KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
09.
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021:
CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG
PGS.TS. Tơ Đức Hạnh*
Tóm tắt
Một quốc gia muốn tồn tại, phát triển thì vấn đcó tính quyết định là phải xác định được mục
tiêu tăng trưởng kinh tế của quốc gia cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn một cách phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh trong nước và quốc tế của từng thời kỳ. Đồng thời, các chính phủ cần phải
thực thi những giải pháp hữu hiệu để đạt được mục tiêu đó. Bài viết tập trung phân tích những
cơ hội, thách thức từ trong và ngoài nước đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2021. Trên cơ sở
đó đưa ra dự báo về triển vọng mục tiêu tăng trưởng, đồng thời khuyến nghị các giải pháp nhằm
thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021.
Từ khóa: Cơ hội, thách thức và triển vọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế
1. GIỚI THIỆU
Năm 2021 có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 2030. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường
và tác động cịn kéo dài ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, nền
kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều những hạn chế, bất cập. Đại dịch COVID-19 đã tác động xấu,
ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng
nặng nề, nhất là đối với lĩnh vực đầu tư, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải hàng không. Hàng
triệu người lao động bị thiếu, mất việc làm, giảm sút thu nhập. Mặt khác, biến đổi khí hậu, thời
tiết cực đoan, thiên tai, nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn, giông lốc, sạt lở, lũ lụt diễn biến
phức tạp ở nhiều tỉnh, nhiều vùng. Do đó, nhu cầu cho đầu tư phát triển, phòng, chống thiên tai,
dịch bệnh, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an sinh xã hội là rất lớn, trong khi các nguồn
lực nội tại của chúng ta cịn rất hạn chế. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến
phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, đối tác lớn trên thế giới và trong khu vực
* Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
103
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
tiếp tục diễn ra gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu rộng đến các quốc
gia trên nhiều phương diện; các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi
số, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mơ hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu
dùng, khoa học công nghệ… Tất cả bối cảnh trên vừa tạo cơ hội, thuận lợi cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế; nhưng đồng thời cũng có khó khăn, thách thức đối với kinh tế Việt Nam trong
năm 2021. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực chủ động, sáng tạo để biến thách thức thành
cơ hội; tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức để đạt được “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch
COVID-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện bình thường mới.
2. NHỮNG CƠ HỘI
Thứ nhất, Việt Nam có bài học kinh nghiệm thành cơng về quản lý kinh tế - xã hội trong đại
dịch COVID-19.
Năm 2020, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là sự tác động mạnh mẽ của đại
dịch COVID-19 và thiên tai, bão lũ, nhưng nước ta đã đạt được những kết quả ấn tượng, toàn
diện, thực hiện thành cơng “mục tiêu kép” vừa phịng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi và
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống, sức khỏe của nhân dân. GDP năm
2020 tăng 2,91%, trong đó khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5%
vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của tồn nền kinh tế; khu vực cơng nghiệp và xây dựng
tăng 3,98%, đóng góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%. Kinh tế vĩ mơ vẫn ổn
định; lạm phát được kiểm soát; các cân đối lớn của nền kinh tế vẫn được đảm bảo; quốc phòng,
an ninh được tăng cường; trật tự an toàn xã hội được giữ vững; vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng cao; niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước được củng
cố, nâng cao. Năm 2020, tăng trưởng kinh tế thế giới giảm 4,3% so với năm 2019; trong đó, các
nền kinh tế phát triển giảm 5,4%, các nền kinh tế đang phát triển giảm 2,6%, Mỹ giảm 3,6%,
Nhật Bản giảm 5,3%... Mặc dù mức tăng trưởng GDP năm 2020 của Việt Nam chỉ ở mức 2,91%
là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011 - 2020, nhưng trong bối cảnh dịch bệnh
COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội thì năm 2020
được coi là năm thành công nhất trong 5 năm qua của Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một
trong 4 quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới năm 2020.
Thứ hai, Việt Nam có kinh nghiệm phòng chống dịch bệnh COVID-19 hiệu quả và thế giới đã
phần nào kiểm soát được dịch bệnh COVID-19.
Việt Nam phát hiện trường hợp nhiễm COVID-19 đầu tiên ngày 23/01/2020. Ba tháng sau,
dịch bệnh được kiểm sốt, khơng có trường hợp tử vong. Cuối tháng 7/2020, đầu tháng 8/2020,
một đợt bùng phát dịch COVID-19 mới do lây nhiễm ở những người từ nước ngồi trở về và
bắt đầu có người tử vong. Nhưng cũng chỉ 2 tháng sau, với những biện pháp chặt chẽ, hiệu quả,
số ca lây nhiễm trong cộng đồng đã được khống chế. Ngày 27/01/2021, làn sóng thứ ba của đại
dich COVID-19 bùng phát tại Việt Nam. Tuy nhiên, đến đầu tháng 3/2021, dịch bệnh cơ bản đã
được kiểm soát. Theo Ban Chỉ đạo Quốc gia Phịng chống dịch COVID-19, tính đến 6 giờ 00
phút ngày 01/3/2021, Việt Nam có 2.448 ca mắc, trong đó trên 1,8 nghìn ca đã bình phục và có
35 ca tử vong (chủ yếu là những người có bệnh nền và cao tuổi). Thành cơng này là do có sự vào
cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Nhiều nước trên thế giới ca ngợi Việt Nam kiểm soát
104
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
đại dịch COVID-19 rất có hiệu quả và trở thành điểm sáng của thế giới trong cơng tác này này.
Hiện nay, Việt Nam đã có vắc-xin phịng COVID-19. Lơ vắc-xin COVID-19 đầu tiên đã về tới
Việt Nam trưa ngày 24/02/2021 với 117.600 liều và bắt đầu triển khai tiêm cho các đối tượng ưu
tiên từ đầu tháng 3/2021. Ngày 26/02/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP về
mua và sử dụng vắc-xin phòng COVID-19 với 150 triệu liều trong năm 2021 để tiêm cho những
người từ 18 tuổi trở lên.
COVID-19 đặt nền kinh tế nước ta dưới nhiều thách thức, nhưng đồng thời cũng tạo cơ hội
to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế chuyển đổi số. Năm 2020, doanh nghiệp phát triển công
nghệ học từ xa tăng trưởng mạnh; các ngành công nghệ số quan trọng khác cũng tăng trưởng
từ 18% (truyền thông trực tuyến), tăng 46% (thương mại điện tử). COVID-19 đã thúc đẩy nhận
thức chuyển đổi số ngành ngân hàng sớm thêm từ 3 đến 5 năm; tạo bước nhảy vọt trong hoạt
động thanh tốn khơng dùng tiền mặt…
Trên thế giới, dịch bệnh đã xuất hiện và lây lan ở 219 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều đáng
chú ý là từ giữa tháng 02/2021 số người mắc, số tử vong do COVID-19 trên thế giới có xu hướng
giảm. Tính đến nay, trên thế giới đã có trên 116 triệu ca mắc dịch COVID-19 và trên 2,5 triệu
ca tử vong. Tuần giữa tháng 02/2021, thế giới ghi nhận 2,7 triệu ca mắc, giảm 16% so với tuần
trước đó. Châu Phi và Tây Thái Bình Dương số mắc mới giảm 20%, châu Âu giảm 18%, châu
Mỹ giảm 16%, Đông Nam Á giảm 13%... Ngoại trừ khu vực Đông Địa Trung Hải số người mắc
mới tăng 7%. Bên cạnh đó, việc tiêm vắc-xin đã bắt đầu tại 70 nước, với 178 triệu liều đã được
tiêm trên toàn thế giới, tương đương 1% dân số toàn cầu. Đây là tín hiệu mới của thế giới trong
việc kiểm kiểm sốt đại dịch COVID-19. Kết quả phịng chống kiểm soát bệnh dịch COVID-19
cả ở trong nước và thế giới là một trong những cơ hội cho phục hồi và phát triển kinh tế Việt
Nam năm 2021.
Thứ ba, chính phủ Việt Nam có tinh thần đồn kết, quyết tâm, đổi mới, sáng tạo và phát triển.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, một trong những đóng góp quan trọng cho sự thành cơng của
nền kinh tế Việt Nam là Chính phủ đã thực hiện khá tốt công tác cải cách hành chính quốc gia.
Kết quả là thể chế mơi trường đầu tư kinh doanh đã được hoàn thiện và bước đầu tiệm cận với
thông lệ quốc tế tốt. Môi trường đầu tư kinh doanh chuyển biến rõ nét; quyền tự do, bình đẳng
trong kinh doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện. Theo báo cáo về Môi trường kinh
doanh của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2018 thì vị trí của Việt Nam từ thứ 88/183 năm 2010
tăng lên 69/190 năm 2018. Về năng lực cạnh tranh, Việt Nam cũng tăng từ vị trí 56/140 quốc gia
năm 2015 lên 67/141 quốc gia năm 2019.
Năm 2020, Chính phủ đã quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép” - vừa quyết liệt phòng chống
dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm đời sống nhân dân; thực hiện quyết liệt, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các biện pháp
phòng, chống đại dịch COVID-19, phù hợp với thực tiễn và thực lực của đất nước. Tập trung chỉ
đạo thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh,
hỗ trợ người lao động, người dân mất, thiếu việc làm, gặp khó khăn. Kịp thời triển khai các giải
pháp hỗ trợ như: miễn, giảm, gia hạn thuế và các khoản thu ngân sách, cơ cấu lại nợ, miễn, giảm,
hạ lãi suất cho vay… Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy tiến độ các dự án quan
trọng quốc gia. Kết quả là tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91%, quy mô nền kinh tế đạt 271,2
105
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
tỷ USD, tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 2.779 USD/
người, gấp khoảng 1,3 lần so với năm 2015. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích lũy - tiêu
dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm,… tiếp tục được bảo đảm.
Kế thừa kết quả năm 2020, sang năm 2021, Chính phủ xác định phương châm hành động của
mình là “Đồn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển”.
Thứ tư, thế giới kỳ vọng vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 và doanh nghiệp nước
ngoài muốn đầu tư và ở lại Việt Nam.
Với kết quả ấn tượng về kiểm soát dịch bệnh COVID-19 và tăng trưởng kinh tế trong quý
IV/2020 và cả năm 2020 đưa Việt Nam trở thành điểm sáng của thế giới mà các quốc gia phải
thán phục và học tập.
Ngân hàng Thế giới (WB) dự kiến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể đạt khoảng 6,8%
trong năm 2021 và sẽ ổn định quanh mức 6,5% các năm tiếp theo. Đặc biệt, Khối Nghiên cứu
kinh tế của HSBC, trong báo cáo của mình bày tỏ tin tưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng
trưởng 7,6% trong năm 2021 nhờ sự phục hồi của ngành du lịch. Ngân hàng Standard Chartered
nhận định, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 7,8% vào năm 2021.
Hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế S&P Global Ratings dự báo, Việt Nam đứng thứ hai ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương về tốc độ phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng do tác động
của COVID-19. S&P Global Ratings còn dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt mức tăng
trưởng 11,2% vào năm 2021.
Theo Nikkei Asia (Nhật Bản), Việt Nam sẽ dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế khu vực trong năm
2020. Tờ báo trích dự báo mới nhất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết, GDP của Việt Nam
năm 2021 có thể tăng trưởng 6,5%.
Theo tờ The South China Morning Post cho biết, mức tăng trưởng GDP của Việt Nam năm
2021 sẽ trên 6%. Sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế sẽ củng cố vị thế của Việt Nam là “ngôi
sao đang lên” của châu Á.
Các doanh nghiệp châu Âu cũng lạc quan về triển vọng của nền kinh tế cũng như môi trường
thương mại và đầu tư của Việt Nam, đặc biệt là khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên
minh châu Âu (EVFTA) đã có hiệu lực. Theo kết quả khảo sát các doanh nghiệp thành viên Hiệp
hội Doanh nghiệp châu Âu (EuroCham) hàng quý về môi trường thương mại và đầu tư của Việt
Nam đạt 63,6 điểm phần trăm trong quý IV năm 2020; 57% thành viên của EuroCham dự đoán
nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục ổn định và cải thiện trong 3 tháng đầu năm 2021, tăng 18 điểm so
với 39 điểm phần trăm trong quý III/2020; 33% lãnh đạo doanh nghiệp của EuroCham dự đoán
số lượng nhân viên của họ sẽ tăng lên trong quý tới, 57% kỳ vọng sẽ duy trì số lượng nhân viên
như hiện tại. Ngoài ra, 30% số người tham gia khảo sát dự đoán đầu tư sẽ tăng; 43% dự đoán đơn
đặt hàng và doanh thu sẽ tăng trong thời gian tới.
Sự kỳ vọng của thế giới về triển vọng nền kinh tế Việt Nam năm 2021 đã được thể hiện qua
dòng vốn FDI vào Việt Nam. Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/01/2021,
tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (FDI)
đạt gần 2,02 tỷ USD, bằng 37,8% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án FDI ước
đạt 1,51 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Cả nước đã cấp giấy chứng nhận đầu tư
106
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
cho 47 dự án mới, điều chỉnh tăng vốn cho 46 lượt dự án và cấp phép cho gần 200 lượt góp vốn
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức nhiều cuộc xúc tiến đầu
tư thông qua hình thức trực tuyến với các đối tác châu Âu, châu Á. Kết quả là nhiều tập đoàn lớn
như Apple, Foxconn, Luxshare triển khai kế hoạch gia tăng đặt hàng nhà cung ứng và hoạt động
đầu tư tại Việt Nam. Các chuyên gia nhận xét dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ còn tăng mạnh
trong năm 2021.
Thứ năm, sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia là điều
kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế của quốc gia mình. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với 230 thị trường; có Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement - FTA) với
16 nền kinh tế. Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 FTA có hiệu lực và 01 FTA
đã chính thức ký kết sắp có hiệu lực và hiện đang đàm phán 02 FTA. Trong số 14 FTA đã có hiệu
lực và đang triển khai, trong đó Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) là FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo đó là Hiệp định Thương
mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA).
Với sự dẫn dắt của Việt Nam trong vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 ngày 15/11/2020, Hiệp ước
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 5 nước đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Australia,
New Zealand đã ký Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEF), tạo ra khu vực thương
mại tự do lớn nhất thế giới, kỳ vọng sẽ thúc đẩy hình thành chuỗi cung ứng tồn cầu góp phần
phát triển kinh tế của các nước thành viên.
Các Hiệp định thương mại tự do đã và đang tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
đặc biệt là lĩnh vực xuất - nhập khẩu và đầu tư. Trong đó Hiệp định EVFTA sau một năm có hiệu
lực được kỳ vọng sẽ thúc đẩy xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - EU tăng mạnh khoảng 10% - 15%.
Thứ sáu, triển vọng kinh tế thế giới có khả năng sẽ phục hồi và phát triển khá trong năm 2021.
Ngân hàng Thế giới (WB) mới đây đã công bố báo cáo triển vọng kinh tế tồn cầu năm 2021,
theo đó WB dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ đạt mức 4%, khi các quốc gia triển khai tiêm đại
trà vaccine phòng chống COVID-19. Nhưng nếu tình hình diễn biến bất lợi, dịch bệnh tiếp tục gia
tăng và việc triển khai vắc-xin bị trì hỗn, mức tăng trưởng tồn cầu có thể giảm xuống 1,6%, cịn
ngược lại đà tăng trưởng kinh tế tồn cầu có thể đạt gần 5% trong năm 2021 nếu thế giới kiểm soát
đại dịch hiệu quả. Theo WB, GDP của các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển sẽ
tăng 5% trong năm 2021, sau khi giảm 2,6% năm 2020. Trong khi đó, các nền kinh tế phát triển
được dự báo sẽ phục hồi chậm và đối mặt nhiều thách thức, với mức tăng trưởng ước đạt 3,3% năm
2021, sau khi giảm 5,4% năm 2020. Dự báo năm 2021, GDP của Mỹ sẽ tăng 3,5%, sau khi giảm
3,6% trong năm 2020; Nhật Bản sẽ tăng 2,5%; châu Âu sẽ hồi phục đáng kể.
Trong báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới cơng bố ngày 25/01/2021, Liên Hiệp
Quốc (LHQ) dự báo kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 4,7% trong năm 2021, sau khi giảm 4,3%
trong năm 2020 do đại dịch COVID-19. Theo đó, các nền kinh tế phát triển tăng 4%, còn các nền
kinh tế đang phát triển tăng trưởng 5,7%.
Ngày 26/01/2021, IMF dự kiến kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 5,5% trong năm 2021. IMF
cho rằng, phần lớn sự phục hồi kinh tế hiện nay sẽ phụ thuộc vào kết quả của “cuộc đua” giữa
107
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 và vắc-xin nhằm chấm dứt đại dịch, cũng như khả
năng của các chính sách hỗ trợ hiệu quả. IMF cũng điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế Trung
Quốc sẽ tăng trưởng 8,1% trong năm 2021; Nhật Bản tăng 3,1%; Ấn Độ tăng 11,5%; Khu vực
sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) tăng 4,2%. Anh tăng 4,5%. IMF cũng đánh giá gói
kích thích kinh tế trị giá 1.900 tỷ USD của Mỹ có thể đẩy nền kinh tế Mỹ tăng 5,1% trong năm
2021 và tăng 5% trong vòng 3 năm tới. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế thế
giới sâu rộng như hiện nay, thì sự hồi phục và phát triển của kinh tế thế giới sẽ là cơ hội, thuận
lợi lớn cho thúc đẩy tăng trưởng của kinh tế Việt Nam năm 2021.
3. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC
Thứ nhất, dịch bệnh COVID-19 cả ở trong và ngoài nước vẫn chưa được kiểm sốt hồn
tồn, cịn diễn biến hết sức phức tạp, khó lường.
Điều đáng ngại nhất là dịch bệnh COVID-19 có những biến thể chủng mới rất nguy hiểm.
Việt Nam mặc dù là một trong những quốc gia chống dịch COVID-19 có hiệu quả nhất, nhưng
chỉ trong vịng 1 năm (từ ngày 23/1/2020) đến nay đã và đang trải qua 3 đợt dịch COVID-19
bùng phát (3 làn sóng dịch bệnh COVID-19). Lần 1 bắt đầu từ cuối tháng 1/2020; lần 2 từ cuối
tháng 7/2020 và lần 3 từ cuối tháng 1/2021. Nay mặc dù dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát,
nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát bất cứ lúc nào. Điều đáng chú ý là đợt sau dịch bệnh lại
lây lan nhanh hơn lần trước. Lần thứ 3, Việt Nam đã phải phong tỏa cách ly trên quy mơ tồn tỉnh
(như tỉnh Hải Dương). Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc làm, thu nhập của người lao động
và các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, đặc biệt và trước hết ở các địa phương
là trung tâm dịch bệnh. Một minh chứng hùng hồn nhất là tác động của đại dịch COVID-19 đã
khiến tăng trưởng kinh tế sụt giảm mạnh từ mức 7,02% năm 2019 xuống chỉ còn 2,91% trong
năm 2020.
Trên thế giới, mặc dù số ca mắc COVID-19 đã giảm, nhưng vẫn có hàng 100 nghìn ca mắc
mới mỗi ngày. Trong đó, Mỹ vẫn là quốc gia có số ca mắc nhiễm COVID-19 nhiều nhất, tiếp sau
là Ấn Độ, Brazil, Nga,… Như vậy nguy cơ dịch bệnh COVID-19 có thể còn tồn tại kéo dài suốt
năm 2021, mặc dù các quốc gia đã triển khai tiêm vắc-xin phòng chống COVID-19 cho người
dân. Do đó, đại dịch COVID-19 vẫn tác động xấu đến kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt
Nam nói riêng trong năm 2021. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nền kinh tế toàn cầu bị ảnh
hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 với thiệt hại ước tính lên tới 28 nghìn tỷ USD tính đến
năm 2025.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam quy mô nhỏ và cịn nhiều khó khăn, bất cập.
Năm 2020, GDP của Việt Nam mới chỉ đạt 271,2 tỷ USD và GDP bình quân đầu người đạt
2.779 USD/người. Với sự tồn tại và diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 cả trong nước và
quốc tế làm cho các nền kinh tế có quy mơ nhỏ như Việt Nam rất khó khăn trong việc cạnh tranh
với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Vì sức chống chịu của nền kinh tế quy mô nhỏ trước những
biến cố nội tại nền kinh tế cũng như những biến cố từ bên ngoài yếu hơn. Ngoài ra, kinh tế Việt
Nam hiện nay cịn trong tình trạng mất cân đối tài khóa, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển thấp;
phát triển hạ tầng chậm và còn nhiều bất cập; hiệu quả quản lý thấp; hệ thống ngân hàng - tài
chính cịn dễ bị tổn thương; tăng trưởng nền kinh tế còn phụ thuộc khá nhiều vào khu vực FDI,
108
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp và khắc phục chậm; hiệu quả
đầu tư công thấp và bộ máy công quyền cịn cồng kềnh và nhũng nhiễu; tiến trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước chậm;… Đây là những thách thức cốt lõi, xuất phát từ bản thân nội tại
nền kinh tế nước ta, khơng có thể giải quyết triệt để trong thời gian ngắn được.
Thứ ba, chính sách tài khóa khó khăn, chính sách phát triển doanh nghiệp và hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa còn bộc lộ những bất cập trong cơ chế thực hiện nên hiệu quả chưa cao.
Năm 2020, Ngân hàng Nhà nước đã ba lần hạ các công cụ lãi suất điều hành; việc lãi suất
huy động tiền gửi liên tục hạ do cầu tín dụng giảm, đang đẩy dòng tiền tiết kiệm ra khỏi ngân
hàng ngày càng nhanh hơn. Các ngân hàng thương mại vẫn đang triển khai gói hỗ trợ tín dụng
250 nghìn tỷ VND, khiến chính sách vĩ mơ nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn. Mặt khác, do sau nhiều năm thâm hụt ngân sách nên nguồn lực tài khóa
bị hạn hẹp. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vẫn tiếp tục được thực hiện theo
hướng khẩn trương, tập trung, theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp. Việc khoanh, ngưng, miễn
giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp như lãi vay, tiền thuê đất tiếp tục triển khai cùng với việc
phòng chống dịch COVID-19 và trợ cấp an sinh xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh đang tạo áp
lực lớn lên cán cân ngân sách nhà nước.
Các chính sách về phát triển doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
được thực hiện. Luật Hỗ trợ DNNVV đã ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018
đã thiết lập đồng bộ các chính sách, chương trình hỗ trợ DNNVV nhằm nâng cao sức cạnh tranh
và chất lượng của DNNVV. Đến tháng 3/2018 Chính phủ ban hành Nghị định số 39/2018/NĐCP hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV. Kết quả là tốc độ tăng doanh nghiệp bình
quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 14,4%, tăng khoảng 80% so với bình quân giai đoạn 2011 - 2015.
Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện Nghị định 39/2018/NĐ-CP đã bộc lộ những bất cập trong
thực hiện cơ chế hỗ trợ DNNVV, như các các bất cập về định mức hỗ trợ, cách thức, quy trình,
nội dung hỗ trợ, nguồn kinh phí thực hiện, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương;…
Do cịn vướng mắc về thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, sự không rõ ràng giữa
các quy định pháp lý, nên nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được với các chính sách ưu đãi, hỗ
trợ của nhà nước,…
Mặt khác, do năng lực của các đơn vị đầu mối thực hiện trợ giúp DNNVV còn yếu và thiếu,
nguồn lực để triển khai các chính sách hỗ trợ cịn hạn chế nên các địa phương chưa chủ động bố
trí được kinh phí hỗ trợ, định mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho DNNVV chưa đảm bảo
yếu tố thị trường, nên các chương trình hỗ trợ chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn cần hỗ trợ của doanh nghiệp.
Thứ tư, thiếu việc làm, thu nhập giảm, nguồn nhân lực xã hội bị lãng phí.
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người lao động
từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19, bao gồm: người bị mất việc làm,
phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập,… Trong đó, 69,2% người bị
giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và khoảng 14,0% buộc
phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, khu vực dịch vụ tới
71,6% lao động bị ảnh hưởng, công nghiệp và xây dựng 64,7%, khu vực nông, lâm nghiệp và
109
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
thủy sản là 26,4%. Số lao động có việc làm chính thức là 15,8 triệu người, giảm 21.100 người so
với năm 2019. Tình trạng tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức tăng cao trong năm 2020 trái
ngược với xu thế giảm những năm gần đây. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV
năm 2020 là gần 1,2 triệu người, tăng 136.800 người so với cùng kỳ năm trước và là con số cao
nhất so với cùng kỳ trong vịng 10 năm qua.
Về thu nhập, thì thu nhập bình quân của người lao động năm 2020 là 5,5 triệu đồng, giảm
2,3% so với năm 2019 (tương ứng giảm 128.000 đồng/người/tháng). Thu nhập của lao động
ngành dịch vụ bị giảm sâu nhất (215.000 đồng); tiếp đến là ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
(156.000 đồng); thấp nhất là ngành công nghiệp và xây dựng (100.000 đồng).
4. TRIỂN VỌNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP
Căn cứ vào tình hình thực tế về kinh tế - xã hội trong nước và thế giới, đặc biệt là kết quả về
chống đại dịch COVID-19 và điểm sáng về thành tựu kinh tế Việt Nam trong năm 2020, nhiều
tổ chức kinh tế, các chuyên gia kinh tế thế giới và trong nước đã có những dự báo khác nhau về
triển vọng kinh tế Việt Nam. Nhìn chung các dự báo đều đánh giá rất cao về triển vọng kinh tế
Việt Nam năm 2021. Đáng chú ý nhất là Chính phủ Việt Nam đã rất quyết tâm đặt mục tiêu GDP
năm 2021 tăng 6,5% (cao hơn 0,5% so với mục tiêu 6,0% mà Quốc hội đã thơng qua).
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức của Việt nam như trên,
tác giả cho rằng triển vọng của nền kinh tế Việt Nam năm 2021 sẽ tăng trưởng đạt mức 6,5%. Tuy
nhiên, trong tình hình đại dịch COVID-19 diễn biến hết sức phức tạp cả ở trong và ngồi nước
và khó đốn định như hiện nay thì cần nhận thức rõ, đây là một chỉ tiêu cao, địi hỏi phải có sự
quyết tâm, đồng lịng của cả hệ thống chính trị thì mới có thể thực hiện được.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng trên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục thực hiện “mục tiêu kép” - vừa phòng chống dịch bệnh COVID-19 hiệu quả,
vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới.
Chính phủ cần có những bước đi nhất quán và có sự điều phối tốt để ứng phó với đại dịch,
các chính sách cần ưu tiên bảo vệ điều kiện sống cho người dân, đặc biệt là những nhóm dễ chịu
tác động và đảm bảo người lao động trở lại làm việc và các doanh nghiệp nối lại hoạt động trong
môi trường an toàn. Đây là những điều kiện thiết yếu để bảo đảm kinh tế khu vực sẽ dần hồi
phục một cách tồn diện và bền vững. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, chỉ tiêu GDP 6,5% có khả
thi hay khơng tùy thuộc vào Việt Nam và thế giới có tiếp tục kiểm sốt tốt dịch bệnh hay khơng;
các quốc gia phải kiểm sốt được dịch bệnh thì Việt Nam mới có thể khai triển được những lợi
thế từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
Hai là, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ
hình tăng trưởng.
Trong điều kiện vừa phải phòng chống dịch bệnh COVID-19 có hiệu quả, vừa nỗ lực phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới, vấn đề cơ bản nhất là phải ổn
định nền kinh tế vĩ mô. Muốn vậy một trong những điều kiện trọng yếu hiện nay của Việt Nam là
đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng trên nền tảng khoa học và
cơng nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh
110
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
tranh của nền kinh tế. Thực hiện hiệu quả, thực chất hơn việc cơ cấu lại và phát triển các ngành,
các lĩnh vực trong nền kinh tế.
Ba là, thực hiện cơ chế, chính sách tài chính phù hợp với tình hình thực tế để kích thích tăng trưởng.
Lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định, lạm phát phải được kiểm soát đây là tiền đề hết
sức cần thiết cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín
dụng, xử lý nợ xấu, nhất là các ngân hàng thương mại yếu kém, bảo đảm an tồn hệ thống. Thực
hiện các giải pháp tài khóa, tiền tệ mở rộng phù hợp để kích thích tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho
sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các ngành, lĩnh vực trọng yếu. Tiếp tục thực hiện giảm chi
phí sản xuất, kinh doanh thơng qua giải pháp thực hiện các chính sách miễn, giảm phí và gia hạn
nộp thuế, tiền thuê đất; thúc đẩy tăng trưởng, giảm thiểu tác động xấu của dịch bệnh COVID-19.
Bốn là, thực hiện đầu tư có trọng điểm để phát triển sản xuất, vừa phát triển thị trường trong
nước vừa mở rộng, phát triển thị trường ngoài nước.
Trong bối cảnh phải thực hiện “mục tiêu kép”, Chính phủ cần phải chú ý thúc đẩy đầu tư có
trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nhất
là đầu tư công. Tập trung vào các dự án trọng điểm quốc gia đã được phê duyệt và đã được bố
trí vốn thực hiện trong các tháng còn lại của năm để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; tập trung đầu tư
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy nhanh quá trình đầu tư vào nền tảng hạ tầng công nghệ.
Đẩy nhanh giải ngân đối với các cơng trình giao thơng quy mơ lớn, các cơng trình đầu mối cơng
nghiệp quan trọng, có sức lan tỏa.
Cần chú ý giữ vững, phát triển thị trường tiềm năng trong nước với quy mô gần 100 triệu dân.
Đồng thời, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường xuất - nhập khẩu, tìm kiếm,
mở rộng, phát triển các thị trường mới tiềm năng nhằm tránh phụ thuộc vào một số đối tác kinh
tế lớn. Tận dụng tốt, hiệu quả các cơ hội do các hiệp định thương mại tự do đem lại, nhất là các
hiệp định CPTPP và EVFTA. Đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vào các thị
trường lớn như Mỹ, EU,…
Năm là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy quá trình
chuyển đổi số trong khu vực doanh nghiệp.
Tiếp tục hồn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thơng
thống, thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất
lượng bộ máy quản lý nhà nước, đặc biệt ở địa phương, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh.
Cải thiện các thủ tục hành chính và thuế quan để thu hút dòng vốn FDI và thúc đẩy xuất - nhập
khẩu. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), các doanh nghiệp Việt Nam phải thanh toán
thuế 6 lần một năm, tiêu tốn 384 giờ cho việc hoàn thành các mẫu biểu, chuẩn bị và trả thuế; mức
thuế phải trả chiếm tới 37,6% lợi nhuận. Tạo thuận lợi để phát triển thương mại điện tử, ứng dụng
thanh toán điện tử; hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường đầu ra qua hình thức
thương mại điện tử; đẩy mạnh ứng dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư để thúc đẩy quản lý theo chuỗi, tạo điều kiện thuận lợi truy xuất nguồn gốc;…
Sáu là, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển hơn nữa kinh tế tư nhân
và FDI để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
111
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Tiếp tục thực hiện giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thơng qua giải pháp thực hiện các chính
sách miễn, giảm phí và gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất. Rà soát lại thể chế chính sách để khuyến
khích và hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân đầu tư nhiều hơn, giảm thiểu những khó khăn và các rào
cản để thu hút nhiều hơn FDI − đặc biệt là dòng FDI chất lượng, gắn với chuyển giao công nghệ
cao, thân thiện môi trường. Rà soát lại các doanh nghiệp FDI theo hướng phân loại, đánh giá
tuân thủ pháp luật, nhất là bảo vệ mơi trường và chống chuyển giá. Rà sốt lại các ưu tiên, ưu đãi
cho các doanh FDI, tập trung cho những doanh nghiệp cơng nghệ cao có chuyển giao công nghệ,
gắn kết với doanh nghiệp trong nước. Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngồi có chọn lọc,
lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, bảo vệ môi trường và đổi mới sáng tạo là tiêu chí chủ yếu.
Theo con số thống kê, hiện tại cơ cấu đóng góp trong GDP Việt Nam như sau: doanh nghiệp tư
nhân khoảng 42%, doanh nghiệp FDI khoảng 20% và doanh nghiệp nhà nước là khoảng 28%.
Bảy là, tiếp tục thúc đẩy sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thối vốn và nâng cao
năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Có một thời gian chúng ta đã chú trọng thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Kết quả là các DNNN được cổ phần hóa đã cải thiện được đáng kể về năng suất, chất lượng, hiệu
quả huy động và sử dụng vốn; tăng lợi nhuận doanh nghiệp; nâng cao thu nhập người lao động
và nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Tuy nhiên, cũng có những DNNN trong q trình cổ phần hóa
cịn bị thất thốt vốn, thất thốt tài sản đáng kể và thời gian gần đây công tác cổ phần hóa DNNN
lại có dấu hiệu chững lại. Để phục hồi, phát triển kinh tế năm 2021, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ
phần hóa DNNN. Theo quan điểm của tác giả, việc cổ phần hóa DNNN chậm là một trong những
nguyên nhân làm giảm khả năng tăng trưởng kinh tế trong cả trong trước mắt và tương lai. Nên
nhớ rằng, hiện nay, các DNNN Việt Nam vẫn chi phối tới một phần ba nền kinh tế của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bnews.vn (2021), IMF nâng dự báo kinh tế toàn cầu năm 2021, truy cập lần cuối ngày 20
tháng 2 năm 2021, từ -2021/185013.html
2. Baoquocte.vn (2021), EuroCham: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 tham
vọng nhưng khả thi, truy cập lần cuối ngày 23 tháng 2 năm 2021, từ />135698.html
3. Dũng Nguyễn (2020), Bốn thách thức cho kinh tế Việt Nam 2021, truy cập lần cuối ngày 22
tháng 2 năm 2021, từ />4. Nhandan.com.vn (2021), Triển vọng tăng trưởng mới của kinh tế toàn cầu, truy cập lần cuối
ngày 21 tháng 2 năm 2021, từ />5. TS. Đoàn Văn Dũng (2020), Nhìn lại 10 năm thực hiện cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011 - 2020. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021, từ nlynhanuoc.
vn/2020/06/30/
6. Thủ tướng Chính phủ (2020), Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020; Dự kiến Kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm
vụ 5 năm 2021 - 2025, Thủ tướng Chính phủ trình bày trước Quốc hội ngày 20/10/2020.
7. Toquoc.vn (2021), Kết quả nổi bật của kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021,
truy cập lần cuối ngày 17 tháng 2 năm 2021, từ 20210125161125883.htm
112