Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá các tác động tích cực và những tồn tại hạn chế của chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đối phó với đại dịch COVID-19 trong năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.81 KB, 8 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

20.

ĐÁNH GIÁ CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC
VÀ NHỮNG TỒN TẠI HẠN CHẾ CỦA CHÍNH SÁCH
TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
ĐỐI PHĨ VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19 TRONG NĂM 2020
TS. Đặng Thị Hồng Hà*, TS. Phạm Thu Huyền*
Tóm tắt
Dịch bệnh COVID-19 bùng phát từ cuối năm 2019, đến nay đã lan rộng ra tồn cầu và chưa
có dấu hiệu kết thúc. Tác động của dịch bệnh đến kinh tế tồn cầu là vơ cùng lớn khi các nền
kinh tế lớn nhất thế giới đều ghi nhận mức tăng trưởng âm trong quý I/2020. Trước bối cảnh đó,
Chính phủ Việt Nam đã kịp thời ban hành nhiều chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhằm
giảm bớt khó khăn, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, góp phần đưa Việt Nam trở thành
nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á và là số ít các nước trên thế giới đạt tăng trưởng
dương trong năm 2020. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai cho thấy, các chính sách tài chính hỗ
trợ doanh nghiệp ứng phó với đại dịch COVID-19 cũng phát sinh một số bất cập, hạn chế chưa
phù hợp với thực tế. Bài viết phân tích những ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 đến nền kinh
tế Việt Nam thông qua thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xem xét các
chính sách tài chính đã và đang được triển khai, đồng thời chỉ ra những hạn chế. Từ đó, đề xuất
một số khuyến nghị về chính sách tài chính nhằm hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với đại dịch có
hiệu quả trong thời gian tới.
Từ khóa: Chính sách tài chính, đại dịch COVID-19, doanh nghiệp Việt Nam
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ đầu năm 2020 đến nay, sự bùng phát của đại dịch COVID-19 ảnh hưởng toàn diện, sâu
rộng và tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường trên tồn thế giới. Trong đó, Việt Nam là một
trong những nước đầu tiên có ca lây nhiễm dịch COVID-19, đồng thời là nền kinh tế có độ mở
lớn, có quan hệ giao lưu nhiều mặt (kinh tế, thương mại, du lịch, học tập) với nhiều quốc gia, do
đó, chịu tác động của đại dịch COVID-19 là tất yếu. Trước bối cảnh đại dịch COVID-19 đang tác
động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu, gây ảnh hưởng rất lớn đến tăng


* Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

240


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

trưởng kinh tế, phát triển doanh nghiệp, lao động, việc làm..., việc Chính phủ kịp thời đưa ra các
chính sách tài chính kịp thời phù hợp để hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và triển khai
các chính sách có hiệu quả trong thực tiễn là hết sức cần thiết.
2. CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP ỨNG PHÓ VỚI ĐẠI DỊCH
COVID-19
Nền kinh tế Việt Nam năm 2020 đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nên những diễn
biến của tình hình kinh tế, chính trị và tài chính thế giới có ảnh hưởng lớn tới kinh tế Việt Nam.
Trong đó, nền kinh tế Việt Nam đang bị tác động mạnh bởi cuộc chiến tranh thương mại giữa các
nước lớn (nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc), diễn biến phức tạp ở Biển Đông, cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0; biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán và đặc biệt là đại dịch COVID-19.
Trước bối cảnh đại dịch COVID-19 ảnh hưởng tới mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã
hội, nhiều doanh nghiệp buộc phải tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô, nhiều lao động phải
nghỉ luân phiên, làm việc cầm chừng hoặc mất việc làm, đời sống của một bộ phận người dân gặp
khó khăn. Để ứng phó với dịch bệnh và góp phần hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó
khăn, khơi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã đưa ra một số giải pháp và trình
Quốc hội thơng qua một số giải pháp cấp bách như:
Một là, thực hiện miễn thuế và thu ngân sách: (i) Miễn thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng
vật tư và thiết bị y tế phục vụ phòng chống dịch COVID-19, vật tư, nguyên liệu đầu vào của các
doanh nghiệp da giày, dệt may, nông nghiệp, cơ khí, cơng nghiệp phụ trợ, cơng nghiệp ơ tơ; (ii)
Miễn lệ phí mơn bài đối với hộ gia đình, cá nhân, nhóm cá nhân lần đầu tham gia hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong năm đầu; cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình hoạt động sản xuất, kinh

doanh có doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống...
Hai là, giảm thuế và các khoản thu ngân sách thông qua: (i) Nâng mức giảm trừ gia cảnh
của thuế thu nhập cá nhân cho người nộp thuế và người phụ thuộc; (ii) Giảm 30% số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ
chức khác có tổng doanh thu chịu thuế năm 2020 không quá 200 tỷ đồng; (iii) Giảm 30% mức
thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay áp dụng đến hết năm 2020; (iv) Giảm 15% tiền
thuê đất phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang được
Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo quyết định, hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
dưới hình thức trả tiền thuê đất hằng năm phải ngừng sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của
dịch COVID-19; (iv) Rà sốt, cắt giảm một số khoản phí và lệ phí như: giảm 70% mức thu lệ
phí đăng ký doanh nghiệp; giảm 67% mức phí cơng bố thơng tin doanh nghiệp; giảm từ 50-70%
phí thẩm định cấp sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động bưu chính; giảm 50% lệ phí trước bạ đối
với ơ tơ sản xuất hoặc lắp ráp trong nước tới hết năm 2020 nhằm kích thích cả sản xuất và tiêu
dùng trong nước...
Ba là, gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu ngân sách thông qua ban hành Nghị định số
41/2020/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
thu nhập cá nhân và tiền thuê đất cho các doanh nghiệp và hộ kinh doanh; giãn thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước tới hết năm 2020 nhằm kích thích sản xuất và
tiêu dùng trong nước...

241


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Bốn là, thực hiện chi ngân sách nhà nước (NSNN) được điều hành chặt chẽ, tiết kiệm, đảm
bảo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các nhiệm vụ chi ngân sách trong sáu
tháng đầu năm 2020 đã tập trung cho cơng tác phịng, chống dịch COVID-19, triệt để tiết kiệm,
bố trí trong dự tốn được giao để thực hiện các nhiệm vụ chi quan trọng; rà soát để cắt giảm tối
thiểu 70% kinh phí hội nghị, công tác phí trong và ngoài nước và tiết kiệm thêm 10% chi thường

xuyên khác còn lại của năm 2020, đặc biệt là các khoản chi mua sắm chưa thực sự cần thiết; đồng
thời, chưa thực hiện điều chỉnh tăng mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực
lượng vũ trang và lương hưu từ ngày 01/7/2020 nhằm chia sẻ khó khăn với nhà nước và người
lao động nói chung. Cùng với đó, NSNN đảm bảo đáp ứng các nhiệm vụ đầu tư cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, đảm bảo an sinh xã hội.
Năm là, giảm giá dịch vụ như giảm 50% giá cất cánh, hạ cánh tàu bay và giá dịch vụ điều
hành bay đi, đến đối với các chuyến bay nội địa từ tháng 3 cho đến hết tháng 9 năm 2020; áp
dụng mức giá tối thiểu 0 đồng đối với các dịch vụ chuyên ngành hàng không thuộc danh mục
Nhà nước quy định khung giá từ tháng 3 cho đến hết tháng 9 năm 2020; Giảm 10% giá bán lẻ
điện cho các ngành sản xuất kinh doanh (SXKD).
Sáu là, miễn phí bảo lãnh phát sinh trong năm 2020 đối với các khoản vay được Chính phủ
bảo lãnh cho các doanh nghiệp hàng khơng cịn dư nợ đến ngày 31/12/2019.
Bảy là, thực hiện các hỗ trợ về vốn cho doanh nghiệp thông qua: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả
nợ; (ii) Xem xét miền giảm lãi vay như giảm 2% lãi suất cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; (iii) Giảm phí, giữ
ngun nhóm nợ; (iv) Doanh nghiệp được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất khi tạm dừng
sản xuất kinh doanh từ 01 tháng trở lên do gặp khó khăn khi thay đổi cơ cấu, cơng nghệ hoặc do
khủng hoảng, suy thoái kinh tế hoặc thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế
hoặc thực hiện cam kết quốc tế hoặc gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, mất mùa...

Nguồn: Bộ Tài chính

Ngồi ra, trong năm 2020, cơng tác cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh thơng qua
việc rà sốt, hồn thiện các quy định về cải cách hành chính theo hướng cắt giảm, đơn giản hóa
thủ tục, điều kiện kinh doanh, đẩy mạnh triển khai cơ chế một cửa, sắp xếp và tổ chức lại bộ máy
các cơ quan, đơn vị cũng như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp phát triển SXKD.

242



KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

3. CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Những động thái điều chỉnh chính sách tài chính trong thời gian qua đã góp phần thực hiện
mục tiêu kép là vừa phòng chống dịch, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo
ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội. Các kết quả đạt được từ chính sách tài chính hỗ trợ doanh
nghiệp ứng phó với đại dịch COVID-19:
Một là, tổng số tiền thuế và thu ngân sách đã gia hạn, miễn, giảm theo các chính sách đã ban
hành đến hết tháng 12/2020 đạt khoảng 123,6 nghìn tỷ đờng, ước thực hiện cả năm đạt khoảng
117,5 nghìn tỷ đồng (trong đó số tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 87,3
nghìn tỷ đồng; số được miễn, giảm khoảng 30,2 nghìn tỷ đồng). Các giải pháp hỗ trợ về thuế,
phí, lệ phí và tiền thuê đất nêu trên được đánh giá là kịp thời, có tác động tích cực và được cộng
đồng doanh nghiền đánh giá cao, góp phần tháo gỡ khó khăn, ổn định hoạt động SXKD và duy
trì tăng trưởng.
Hai là, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2020 tăng 5,7% so với năm 2019. Mặc dù, là
mức tăng thấp trong 10 năm trở lại đây nhưng trong bối cảnh đại dịch COVID-19 khi tăng trưởng
đầu tư của các nước đều có xu hướng sụt giảm thì kết quả thực hiện vốn đầu tư xã hội của Việt
Nam nêu trên là dấu hiệu tích cực. Đặc biệt, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN năm 2020
đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2020 là kết quả của việc đẩy mạnh thực hiện và giải
ngân vốn đầu tư cơng nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dịch COVID-19, điều
này cũng thể hiện rõ vai trò của Nhà nước trong tạo việc làm, thu nhập cho doanh nghiệp, người
dân, thúc đẩy phát triển kinh tế.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Ba là, vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2020 đạt 16,6 tỷ
đồng, tăng 32,3% so với năm 2019. Nếu tính cả 3.341,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm

của 39,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế
trong năm 2020 là gần 5.577,6 nghìn tỷ đồng, tăng 39,3% so với năm 2019. Bên cạnh đó, cịn
có 44,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 11,9% so với năm 2019, nâng tổng số
doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2020 lên 179
nghìn doanh nghiệp, tăng 0,8% so với năm 2019. Trung bình mỗi tháng có 14,9 nghìn doanh
nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

243


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Bốn là, xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp có nhiều tích cực. Theo kết quả điều tra
của Tổng cục Thống kê, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy, doanh nghiệp lạc quan về
tình hình SXKD, trong đó 40,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình SXKD quý IV/2020 tốt hơn
quý III/2020 và 34,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình SXKD ổn định. Dự kiến quý I/2021
so với quý IV/2020, có 42,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên và 38,2% số doanh
nghiệp cho rằng tình hình SXKD sẽ ổn định.
4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Dịch COVID-19 vẫn diễn biến hết sức phức tạp, do đó, kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều rủi
ro và nhiều yếu tố khó lường. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang tác động ảnh hưởng mạnh
mẽ tới các doanh nghiệp, những điều chỉnh chính sách tài chính càng có ý nghĩa hỗ trợ, thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, cũng cho thấy những vấn đề đặt ra cần quan tâm. Cụ thể:
Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp thành lập mới có xu hướng giảm. Trong năm 2020, số doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới so với năm 2019 giảm 5,1%, giảm 6,3% về vốn đăng ký và giảm
19,5% về số lao động. Theo Báo cáo “Kết quả khảo sát đánh giá tác động của dịch COVID-19
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam” của Tổng cục Thống kê thực
hiện trong tháng 12/2020, có tới 85,7% số doanh nghiệp trên phạm vi cả nước bị tác động bởi
dịch COVID-19. Các yếu tố thị trường tiêu thụ bị giảm, thiếu hụt nguyên liệu đầu vào, thiếu vốn
cho sản xuất trong khi áp lực chi trả công lao động, thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ

chuyên môn/tay nghề cho người lao động, ứng dụng thương mại điện tử... làm tăng chi phí cho
doanh nghiệp.
Theo báo cáo của Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ
(tháng 9/2020) thì 74% doanh nghiệp sẽ phá sản nếu dịch COVID-19 kéo dài 6 tháng, 60% số
doanh nghiệp sẽ bị giảm trên 50% doanh thu và 39% số doanh nghiệp chọn giải pháp sa thải nhân
viên. Như vậy, nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn, tác động lớn đến lao động và việc làm, ảnh hưởng mạnh tới việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.
Thứ hai, trong những tháng đầu năm 2021, tác động của dịch COVID-19 đến thu NSNN có
thể sẽ rất lớn do Việt Nam là một nền kinh tế hội nhập sâu rộng, độ mở lớn, tính tự chủ và khả
năng chống chịu còn hạn chế nên tác động của dịch bệnh, thiên tai... làm tăng trưởng kinh tế suy
giảm, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước bị đình trệ, đời sống
người dân khó khăn. Hơn thế, việc Quốc hội thơng qua các Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất
nông nghiệp, Nghị quyết về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tở chức khác... cùng với việc Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho các
tổ chức, cá nhân; giảm nhiều khoản phí, lệ phí nhằm tháo gỡ khó khăn cho các đối tượng chịu
ảnh hưởng bởi COVID-19... sẽ làm thu NSNN giảm đáng kể. Ngồi ra, do diễn biến dịch bệnh
cịn phức tạp, lo ngại về làn sóng bùng phát dịch COVID-19 thứ hai đã diễn ra ở nhiều quốc gia
và Việt Nam, làm giảm nhu cầu năng lượng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu từ dầu
thô của Việt Nam trong những tháng đầu năm 2021.
Thứ ba, áp lực chi NSNN lớn trong những tháng đầu năm 2021 do phải thực hiện mục tiêu
kép vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể: (i)
244


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển


Nhu cầu mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế cho phòng, chống dịch; chi cho công tác cách ly và
chữa trị người mắc bệnh COVID-19; chi phụ cấp cho lực lượng tham gia phòng, chống dịch, chi
nghiên cứu sản xuất văcxin phòng chống dịch... vẫn rất lớn; (ii) Chi thực hiện các chính sách hỗ
trợ người lao động và an sinh xã hội theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính
phủ, ước tính khoảng 62 nghìn tỷ đồng với số đối tượng được hỗ trợ khoảng 20 triệu người; (iii)
Đẩy mạnh chi đầu tư để hỗ trợ nền kinh tế, thu hút đầu tư tư nhân, tạo việc làm, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Thứ tư, các biện pháp phòng chống dịch làm gia tăng xu hướng nới lỏng tài chính, theo đó,
nợ cơng và thâm hụt tài khoá gia tăng trong thời gian tới. Các gói hỗ trợ đạt hiệu quả sẽ làm tăng
sức chống chịu của nền kinh tế, tăng triển vọng về đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, nếu
các gói cứu trợ tài chính kéo dài sẽ làm tăng sức ép về nợ cơng, từ đó tác động không tốt đến
tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, do tác động của đại dịch COVID-19, việc thực thi các gói tài khóa kích thích tiêu
dùng và đầu tư chắc chắn sẽ gia tăng mức thâm hụt ngân sách, do đó, cần điều chỉnh kỷ luật tài
khoá tổng thể, tạo khung thể chế thực thi chính sách tài khóa mở rộng; Cần tập trung thực hiện
tốt các luật thuế và các nhiệm vụ thu NSNN thông qua việc quản lý chặt chẽ các khoản thu, mở
rộng cơ sở thuế, chống xói mịn nguồn thu...
Thứ sáu, thách thức về cầu tiêu dùng. Đại dịch COVID-19 vẫn cịn phức tạp và khó lường,
đặc biệt là tại các nước là đối tác thương mại lớn của Việt Nam, trong khi Việt Nam có mức độ
hội nhập sâu rộng, có độ mở cao đối với thương mại và đầu tư nước ngoài nên tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải dựa vào nội lực. Tuy nhiên, nội lực từ tiêu dùng tư
nhân và đầu tư tư nhân đang bị suy giảm do ảnh hưởng của đại dịch nên chỉ có chi tiêu của Chính
phủ trong thời gian tới mới đủ khuyến khích tiêu dùng và đầu tư, giúp nền kinh tế phát triển sau
đại dịch.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Theo nhận định của nhiều tổ chức quốc tế, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 khiến tăng
trưởng kinh tế thế giới năm 2020 thấp hơn năm 2019 thậm chí xuống thấp nhất trong hơn 1 thập
kỷ qua do chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, cầu hàng hóa suy giảm. Tuy nhiên, kinh tế
Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng với tốc độ tăng GDP năm 2020 tăng 2,91% so với năm trước,
do đó Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong bối cảnh dịch bệnh

COVID-19 trên thế giới và trong nước còn đang diễn biến rất phức tạp. Năm 2021 là năm đầu
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 theo các kết luận, nghị quyết của Đảng, Quốc hội nên để hỗ trợ
người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn, để có thể hồn thành các
mục tiêu tài chính - ngân sách đã đặt ra, cần hướng trọng tâm vào các biện pháp như sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền các quy định của Chính phủ hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp,
người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Thông tin tuyên truyền phải thường xuyên, liên
tục theo nhiều hình thức, bảo đảm doanh nghiệp, hộ kinh doanh, người lao động tiếp cận và hiểu
rõ phạm vi, đối tượng, điều kiện, trình tự, thủ tục để các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ
thực hiện đúng và kịp thời nhận được gói hỗ trợ của nhà nước, tháo gỡ khó khăn cho người dân,

245


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

doanh nghiệp. Tiếp tục ưu tiên các biện pháp phòng, chống và kiểm soát dịch COVID-19 thật
tốt để tạo sự ổn định trong hoạt động SXKD cũng như đời sống của người dân, doanh nghiệp.
Hai là, nắm chắc đường lối, chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về phát triển doanh
nghiệp, quan tâm, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp về những khó khăn, vướng mắc trong thực
hiện các chính sách tài chính để có giải pháp tháo gỡ kịp thời, đảm bảo việc ban hành chính sách,
chế độ tài chính theo đúng định hướng, chủ trương của Đảng, đồng thời tháo gỡ các nút thắt cho
doanh nghiệp phát triển.
Ba là, chú trọng cơng tác phân tích, dự báo tình hình kinh tế, chính trị, tài chính trên thế giới
và trong nước để có những đề xuất, tham mưu chính sách tài chính kịp thời nhằm hỗ trợ, thúc
đẩy doanh nghiệp phát triển cũng như tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần
tiếp tục thực hiện và đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết số
01/NQ-CP ngày 01/01/2020 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2020 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 về tiếp tục
thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng

lực cạnh tranh quốc gia năm 2020; Quyết liệt triển khai các nghị quyết của Trung ương về hoàn
thiện thể chế, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng, đảm bảo thực hiện các mục
tiêu về tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, cần có cơ chế, chính sách tài chính ưu đãi phù hợp với tình hình thực tế để tạo sức
bật cho cả nền kinh tế, kích thích cả ba động lực tăng trưởng chủ yếu (đầu tư, xuất khẩu và tiêu
dùng) để phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội... Cụ thể, năm 2021
và thời gian đầu của giai đoạn 5 năm 2021 - 2025, thực hiện các giải pháp tài khóa, tiền tệ mở
rộng phù hợp để kích thích tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, các ngành, lĩnh
vực trọng yếu, thúc đẩy tăng trưởng, giảm thiểu tác động của dịch bệnh. Có giải pháp phù hợp
vừa thúc đẩy xuất khẩu, vừa phát triển mạnh thị trường trong nước. Đẩy mạnh xúc tiến thương
mại, mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu, khơng để phụ thuộc quá lớn vào một thị
trường. Tận dụng tốt hơn, hiệu quả hơn các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do, nhất là
CPTPP và EVFTA...
Năm là, nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thu NSNN theo hướng hợp lý hóa các ưu đãi, phát
triển cơ sở thu mới, rà soát các ưu đãi thuế, điều chỉnh thuế suất... nhằm thúc đẩy và mở rộng
nguồn thu ổn định, bền vững. Thực hiện quyết liệt các giải pháp công tác quản lý thu NSNN,
tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ
tục cho các , hộ, cá nhân kinh doanh khi kê khai các thủ tục giãn thuế; cùng với đó, tiếp tục đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ tốt cho người nộp thuế, tập trung vào công tác quản
lý đăng ký, khai thuế, nộp thuế, tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống thất thu thuế, quản lý chặt
chẽ, tăng cường đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế.
Sáu là, cần thực hiện nghiêm túc và triệt để việc tiết kiệm chi thường xuyên từ các cấp trung
ương đến địa phương, triển khai kế hoạch và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn “sống chung với COVID”. Đảm bảo cân đối
ngân sách các cấp, sử dụng dự phòng NSNN triệt để tiết kiệm.
Bảy là, thực hiện hiệu quả, thực chất hơn các nhiệm vụ cơ cấu lại và phát triển các ngành, lĩnh
vực. Chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nhất là đầu tư công; tiếp tục đẩy mạnh cơ
246



KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu, nhất là các ngân hàng thương mại yếu kém, bảo đảm
an toàn hệ thống.
Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục nỗ lực bảo đảm vừa hỗ trợ hiệu quả cho người dân,
doanh nghiệp, vừa phải duy trì, củng cố tính bền vững của NSNN, cải thiện dư địa chính sách tài
khóa, tăng sức chống đỡ các cú sốc từ bên ngoài. Nhiệm vụ này mang tính chiến lược trong bối
cảnh thiên tai, dịch bệnh phức tạp song hành cùng những căng thẳng về an ninh quốc phòng, trên
thế giới. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị sự đồng thuận của người dân,
doanh nghiệp và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Báo cáo số 6219-BC/BKHĐT ngày 22 tháng 9 năm 2020 về
đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và dự kiến Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.
2. Bộ Tài chính (2020), Báo cáo chuyên đề - Các giải pháp về chính sách thuế, phí, lệ phí nhằm
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và các giải pháp triển khai thời
gian tới.
3. Chính phủ (2020), Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người
dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
4. Chính phủ (2020), Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và
5 năm 2016 - 2020; dự kiến Kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021 - 2025.
5. Ngân hàng Nhà nước (2020), Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về
việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn.
6. Thủ tướng Chính phủ (2020), Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/03/2020 về các nhiệm vụ, giải
pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó
với dịch COVID-19.
7. Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2020.


247



×