KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
28.
MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
NHẰM ĐẢM BẢO TÍNH BỀN VỮNG CỦA ĐẦU TƯ
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG BỐI CẢNH MỚI
CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
TS. Hồng Xn Hịa*
TS. Trịnh Mai Vân**, ThS. Nguyễn Văn Đại**
Đèo Thị Thủy***
Tóm tắt
Trong những năm vừa qua, đầu tư từ ngân sách nhà nước luôn là một chủ đề dành được nhiều
sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và nhà nghiên cứu. Đầu tư từ ngân sách nhà nước
được cho là có hiệu quả thấp và khơng ổn định do những đặc điểm cố hữu gắn liền với khu vực
nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế thị trường, tính bền vững của đầu tư từ ngân
sách càng được chú ý hơn. Khoản đầu tư này vừa phải đáp ứng được những mục tiêu mà nhà
nước đề ra, vừa phải đảm bảo tính hiệu quả, vừa phải linh hoạt trước những thách thức mới. Kết
quả phân tích cho thấy hiệu quả của đầu tư từ ngân sách cịn thấp, tính bền vững và lan toả cịn
yếu. Các giải pháp cần tập trung vào cải thiện hiệu lực quản lý nhà nước của cơ quan chủ quản,
công tác thanh tra và lập kế hoạch về vốn.
Từ khóa: Vốn đầu tư, ngân sách, kinh tế thị trường, Việt Nam
1. BỐI CẢNH CHUNG
Sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã phát triển đáng kể về quy mô và sức cạnh
tranh của nền kinh tế; niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội ngày càng tăng lên; tính
độc lập tự chủ được cải thiện đáng kể; uy tín, vị thế đất nước ngày càng được củng cố trên trường
quốc tế. Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã tham gia ngày càng nhiều vào các
hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định FTA thế hệ mới quan trọng như Hiệp định
* Thành ủy Hà Nội
** Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
*** Trường Đại học Tây Bắc
328
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam - EU (EVFTA)...
Tuy nhiên, trong giai đoạn mới hiện nay, nền kinh tế cũng phải đối mặt nhiều thách thức, tiềm
ẩn nhiều rủi ro như: nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình với trần thu nhập của các nước thuộc
nhóm thu nhập trung bình và khả năng tụt hậu kinh tế xa hơn so với mức chung của thế giới vẫn
là thách thức lớn nhất; độ mở của nền kinh tế trong nước ngày càng lớn cũng dễ bị tổn thương và
chịu nhiều tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới; thiên tai, biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày
càng diễn biến phức tạp, khó lường; những thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững
tài nguyên, đất đai, nguồn nước và xử lý ô nhiễm môi trường sẽ tác động nặng nề đến phát triển
kinh tế - xã hội.
Trong khi đó, ngân sách nhà nước ở Việt Nam có cơ cấu chưa thực sự hiệu quả, thiếu tính
bền vững. Cụ thể là, chi ngân sách cho những dự án đầu tư, kể cả các dự án trọng điểm cũng
mang nặng ‘trọng điểm dàn trải’ với hiệu quả đầu tư thấp, vẫn cịn tình trạng thất thốt và lãng
phí khiến gánh nặng ngân sách luôn ở nguy cơ tăng cao. Trong khi bội chi ngân sách cịn ở mức
cao thì những yếu kém trong cơ cấu chi ngân sách cho đầu tư sẽ tạo ra những hệ quả tiêu cực
cho nền kinh tế.
2. ĐÁNH GIÁ ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019
tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh COVID-19, thiên tai, bão lut nặng nề ở miền
Trung, tốc độ tăng trưởng đạt 2,91%, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 6,0%/năm.
Tính chung cả thời kỳ 2011 - 2020, tăng trưởng GDP đạt khoảng 5,95%/năm, thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới1. Quy mô GDP tăng gấp gần 2,4 lần, từ 116
tỷ USD năm 2010 lên 271,2 tỷ USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD
năm 2010 lên 2.779 USD năm 2020.
Bảng 1. Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2010 - 2020
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Thống kê Liên Hiệp Quốc, tăng trưởng của Việt Nam trong giai
đoạn 2011 - 2017 cao hơn mức bình qn của nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (5,4%) và các nước Đông
Nam Á (5%).
1
329
KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 2 thập kỷ vừa qua vẫn giữ ở mức tương
đối cao. Nếu phân tách theo đóng góp của từng thành phần xét theo đầu vào thì vốn ln chiếm
tỷ trọng lớn nhất. Trước năm 2016, yếu tố vốn đóng góp phần lớn và chủ đạo vào tăng trưởng
GDP. Trong khi đó, đóng góp của yếu tố TFP ngày càng lên trong những năm gần đây cịn nhân
tố lao động đóng góp ngày càng thấp vào tăng trưởng. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,7% giai đoạn
2016 - 2020, tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,4%, vượt mục tiêu Chiến lược đề ra (35%).
Kết quả này cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào yếu tố vốn
và tăng trưởng theo chiều rộng. Điều này vẫn tạo ra nhu cầu và hệ quả đối với chi ngân sách cho
đầu tư.
Đánh giá về hiệu quả đầu tư
Huy động vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt khoảng1/3 so với quy mơ GDP, đạt mục tiêu
bình qn 5 năm 2016 - 2020 bằng khoảng 32% - 34,5% GDP. Cơ cấu đầu tư chuyển dịch tích
cực, tỷ trọng đầu tư của khu vực nhà nước trong tổng vốn năm 2019 giảm còn 31,7%, so với mức
33,3% năm 2018, đạt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại
nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 (đến năm 2020, chiếm khoảng 31% - 34% tổng đầu tư toàn xã
hội), phù hợp với định hướng cơ cấu lại đầu tư công và giảm dần sở hữu nhà nước tại các doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế, tạo động lực thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước và sự phát triển của
kinh tế tư nhân. Tỷ trọng đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước năm 2019 tăng lên mức 45,3%
(trong khi năm 2018 ở mức 43,3%).
Hình 1 cho thấy, mặc dù cơ cấu đầu tư được cải thiện theo hướng tích cực hơn nhưng hiệu quả
đầu tư chưa có dấu hiệu được cải thiện, thể hiện qua chỉ số ICOR của nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) giai đoạn 2005 - 2010 khoảng 5,58. Mức bình quân giai đoạn
2011 - 2019, hệ số ICOR ở mức 5,79 cao hơn so với giai đoạn 2005 - 2010. Năm 2020, với diễn
biến của COVID-19, đầu tư xã hội của Việt Nam tăng mạnh dẫn đến tỷ lệ ICOR tăng đột biến ở
mức 14,28 (mức cao nhất kể từ năm 2000).
Hình 1. Tỷ lệ ICOR của Việt Nam
16
14
12
10
8
6
4
2
0
2005
2007
2009
2011
2013
2015
2017
2019
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Đánh giá về tài chính - ngân sách
Giai đoạn 2016 - 2018, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 24,9% GDP, cao hơn mức
bình quân giai đoạn 2011 - 2015 (23,4% GDP); trong đó, tỷ lệ huy động từ thuế, phí đạt 21% GDP
(giai đoạn 2011 - 2015 đạt 21,6%). Mục tiêu nêu tại Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị
330
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
(thu ngân sách giai đoạn 2016 - 2020 là 21% GDP) và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội
(thu ngân sách giai đoạn 2016 - 2020 là 23,5% GDP - từ thuế, phí khoảng 21% GDP).
Kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Cơ cấu thu, chi ngân sách
nhà nước chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng thu nội địa, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát
triển và giảm tỷ trọng chi thường xuyên. Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP giảm từ mức
bình quân 5,4% giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 3,5% giai đoạn 2016 - 2019; riêng năm 2020
tỷ lệ bội chi 5,1%. Tỷ lệ nợ công so với GDP tăng từ 51,7% cuối năm 2010 lên 63,7% năm 2016,
do huy động thêm nguồn lực để thực hiện đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng. Từ năm 2017,
nhờ giảm bội chi ngân sách nhà nước, siết chặt quản lý vay và bảo lãnh chính phủ, nợ cơng bắt
đầu giảm; tỷ lệ nợ cơng đến năm 2019 giảm cịn 55% GDP, năm 2020 nợ công là 57,8%, vẫn giữ
được ổn định kinh tế vĩ mơ và cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.
Hình 3. Thu - chi ngân sách nhà nước
Nguồn: Báo cáo quyết toán NSNN và Báo cáo của Bộ Tài chính
Đánh giá về đầu tư công
Cùng với hiệu quả đầu tư được cải thiện, cơ cấu đầu tư cũng có những chuyển biến theo
hướng tích cực. Những chuyển biến này được thể hiện trước hết ở việc giảm tỷ trọng vốn đầu tư
Nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội, tăng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước và khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020
ước đạt khoảng 10,7 triệu tỷ đồng, bằng 33,7% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5 năm (32 - 34%).
Tỷ trọng đầu tư khu vực nhà nước trong tổng đầu tư xã hội từ năm 2012 có xu hướng giảm
xuống, từ 40,3% năm 2016 xuống cịn 38% vào năm 2020.
Vấn đề nợ cơng
Tốc độ tăng nợ công cũng như trần nợ công mặc dù được kiểm sốt trong ngưỡng an tồn
nhưng vẫn ở mức cao. Cụ thể, trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng nợ cơng của Việt Nam ở
mức bình qn là 18,1%/năm thì giai đoạn 2016 - 2018 đã giảm xuống bình qn cịn 8,6%/năm,
riêng năm 2018 chỉ cịn ở mức 6%. Về trần nợ công, tỷ lệ nợ công giảm từ mức cuối năm 2016 là
63,7% GDP xuống còn 61,4% GDP cuối năm 2017, 58,4% GDP năm 2018 và ở mức 57% GDP
331
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
năm 2019. Bên cạnh đó, cơng tác tái cơ cấu nợ cơng trong năm 2018, năm 2019 cũng được triển
khai tăng cường.
Hệ thống pháp luật về đầu tư cơng được hồn thiện theo hướng phân cấp triệt để, tăng cường
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý hoạt động đầu tư công. Luật Đầu
tư công số 49/2014/QH13 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Việc Quốc hội thông qua Luật Đầu tư công đã tạo
ra hệ thống pháp luật đồng bộ để quản lý tồn bộ q trình đầu tư công, từ chủ trương đầu tư,
thẩm định nguồn vốn đối với các chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công; lập, thẩm định,
phê duyệt kế hoạch đầu tư, triển khai thực hiện kế hoạch; theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra
kế hoạch đầu tư công. Để triển khai thực hiện Luật Đầu tư cơng, Chính phủ đã ban hành 08 Nghị
định và 07 thông tư, bên cạnh đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
các quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách
nhà nước giai đoạn 2016 - 2020.
Các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cơ bản đã đáp ứng yêu cầu triển khai Luật Đầu tư công,
đặc biệt là những nội dung đổi mới của Luật như: quy trình quyết định chủ trương đầu tư; lập kế
hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm; thẩm định nguồn vốn và cân đối vốn; công tác theo
dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công (bao gồm cả việc xây
dựng hệ thống thông tin về đầu tư công). Việc ban hành ngun tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư
cơng cho giai đoạn 2016 - 2020 đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và hoàn chỉnh để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác phân bổ và sử dụng vốn đầu tư cơng; khắc phục tình trạng đầu tư
dàn trải, phân tán, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; thúc đẩy tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu
các ngành, vùng lãnh thổ; cơ bản bảo đảm tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế xã hội và an
sinh xã hội, giữa các ngành, lĩnh vực, các địa phương, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác, chống thất thốt, lãng phí; bảo đảm tính
cơng khai, minh bạch trong quản lý đầu tư cơng.
Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện Luật Đầu tư
cơng số 49/2019/QH14 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Nhằm
phục vụ quá trình cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2016 -2020, định hướng 2025, đáp ứng yêu
cầu quản lý hiệu quả vốn đầu tư công và tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện, cần
tăng cường phân cấp, phân nhiệm, khắc phục những tồn tại, hạn chế, đặc biệt, Chính phủ đã báo
cáo Quốc hội ban hành Luật Đầu tư cơng số 39/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
01 năm 2020. Đây là một bước đột phá trong q trình hồn thiện thể chế về đầu tư công, tạo sự
đồng bộ, thống nhất trong quản lý ngân sách, đầu tư, xây dựng, tháo gỡ khó khăn vướng mắc bất
cập liên quan đến quy định về pháp luật đầu tư công trong thời gian qua. Luật Đầu tư công số
39/2019/QH14 thực hiện phân cấp triệt để quy trình thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối
vốn; phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, vừa bảo đảm thẩm quyền của
các cơ quan, vừa tăng tính chủ động, phù hợp điều kiện thực tế của mỗi địa phương, tăng cường
trách nhiệm của người quyết định đầu tư, chủ đầu tư trong việc quyết định, tổ chức thực hiện và
phát huy hiệu quả đầu tư, xử lý được những tình huống phức tạp như dự án sử dụng nhiều nguồn
vốn thuộc các cấp ngân sách khác nhau.
332
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Đổi mới phương thức kế hoạch hóa, đáp ứng tốt hơn thực tiễn vận hành của nền kinh tế, hạn chế
tối đa tình trạng kéo dài thời gian thực hiện, chuyển nguồn… Đồng thời, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 01/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2015 về giám sát và đánh giá đầu tư. Trong đó, đã bổ
sung thêm quy định về phương pháp, tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư chương trình đầu tư cơng.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, dịch vụ vẫn đóng góp cao nhất cho nền kinh tế, tiếp
đó là công nghiệp và sau cùng là nông nghiệp. Lượng vốn đầu tư từ ngân sách vào nhóm ngành
nơng nghiệp lớn nhưng năng suất lao động thấp và mức đóng góp cho tăng trưởng nhỏ. Điều này
đặt ra yêu cầu của tái cơ cấu vốn đầu tư và chọn điểm đầu tư phù hợp từ ngân sách nhà nước.
Hình 2. Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng giai đoạn 2011 - 2020
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
2011
2012
2013
2014
Nông nghiệp
2015
2016
Công nghiệp
2017
2018
2019
2020
Dịch vụ
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Các ngành có đóng góp thay đổi về xu thế trong giai đoạn 10 năm trở lại đây. Nơng nghiệp
có xu hướng giảm đóng góp vào tăng trưởng GDP khi giảm từ khoảng 0,8 điểm phần trăm năm
2011 xuống còn 0,5 điểm phần trăm năm 2020. Nhóm ngành dịch vụ đóng góp trong khoảng từ
2,7 điểm phần trăm tới 3,5 điểm phần trăm giai đoạn 2011 - 2019. Riêng 2020, do diễn biến dịch
bệnh COVID-19, nhà hàng, dịch vụ lưu trú và du lịch là những ngành bị ảnh hưởng nặng nề.
Đóng góp của dịch vụ giảm sâu xuống 1 điểm phần trăm. Trong khi đó, xu thế tương tự chứng
kiến ở nhóm cơng nghiệp với đóng góp trong khoảng 2,73 điểm phần trăm (2011) lên 3,1 điểm
phần trăm năm 2019 và giảm xuống 1,22 điểm phần trăm năm 2020.
Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế
tạo và ứng dụng công nghệ cao tăng lên. Tỷ trọng khu Vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong
GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 15,2% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp) tăng tương ứng từ 81,1% lên 84,8%.
Cơ cấu nội ngành chuyển dịch tích cực; trong khu vực cơng nghiệp, xây dựng, tỷ trọng ngành
chế biến, chế tạo tăng từ 13% GDP năm 2010 lên 16,7% năm 2020; tỷ trọng ngành khai khống
giảm từ 9,5% GDP xuống cịn 5,5%. Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công
nghệ cao trong các khu vực nông nghiệp, cơng nghiệp và xây dựng, dịch vụ có xu hướng tăng lên.
Về cơ cấu lại nông nghiệp: Cơ cấu sản xuất nơng nghiệp chuyển biến tích cực hướng vào phát
huy tiềm năng, lợi thế của vùng, miền, nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo
đảm an ninh lương thực. Sản xuất nông nghiệp được tập trung phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa, hiện đại, giá trị gia tăng cao và bền vững, là trụ đỡ cho nền kinh tế trong những lúc
khó khăn. Nơng nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, đạt bình quân khoảng 3%/năm.
333
KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Hình thành nhiều mơ hình sản xuất ứng dụng cơng nghệ cao; đầu tư của doanh nghiệp vào
nông nghiệp tăng; phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và xây dựng được thương hiệu
của một số nông sản chủ lực. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông
nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng, vật
ni có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Khoa học, công nghệ đóng góp trên 30% tổng giá
trị gia tăng trong nơng nghiệp. Chất lượng nhiều loại sản phẩm đáp ứng yêu cầu an toàn theo tiêu
chuẩn quốc tế. Số lượng hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhanh; đến năm 2020 có
khoảng 15 nghìn hợp tác xã nơng nghiệp hoạt động hiệu quả và trên 13 nghìn doanh nghiệp trực
tiếp sản xuất nơng nghiệp; qua đó khẳng định vai trị trung tâm thúc đẩy phát triển nơng nghiệp.
Q trình cơ cấu lại nông nghiệp đã gắn kết chặt chẽ với xây dựng nông thôn mới, nhất là trong
phát triển hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn.
Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện, tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản
xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã tăng từ 55,7% năm 2010 lên 61,1% năm 2019; năng
suất lao động giai đoạn 2011 - 2020 tăng bình qn 6,1%/năm. Xuất khẩu nơng, lâm, thuỷ sản
tăng mạnh, thị trường tiêu thụ được mở rộng; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 21,8 tỷ USD năm
2011 lên khoảng 41 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng 7,3%/năm.
Về cơ cấu lại khu vực công nghiệp - xây dựng: Cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch
theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo.
Một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có quy mơ lớn, chiếm vị trí vững chắc trên thị trường
thế giới. Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ
65% năm 2011 lên 85% năm 2020; tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng
giá trị sản phẩm công nghệ cao tăng từ 38% năm 2010 lên 77,7% năm 2019.
Năng lực cạnh tranh tồn cầu của ngành cơng nghiệp tăng từ vị trí 58 vào năm 2009 lên thứ
42 vào năm 2019, đã hình thành được một số tập đồn kinh tế trong nước có tiềm lực trong lĩnh
vực cơng nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp ô tô. Năm 2019, doanh nghiệp công nghệ
cao, ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 13% trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến,
chế tạo. Giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao tăng từ 26% năm 2010 lên trên
40% năm 2019. Đã hình thành một số ngành công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Phát triển các ngành cơng nghiệp từng bước đi vào chiều sâu; chỉ số sản xuất cơng nghiệp tăng
bình quân khoảng 8% giai đoạn 2011 - 2020, trong đó ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo có
mức tăng trưởng khoảng 10%, trở thành động lực chính cho khu vực cơng nghiệp và đóng góp
lớn vào tăng trường của nền kinh tế.
Cơ cấu lại ngành xây dựng được tập trung thực hiện, phát huy hiệu quả; năng lực xây lắp
được cải thiện; chất lượng cơng trình xây dựng từng bước được nâng cao và được kiểm soát chặt
chẽ hơn. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng bình quân khoảng 8,3%/năm; năng suất lao động
tăng bình quân 7,9%/năm. Làm chủ được nhiều công nghệ xây dựng tiên tiến, đưa vào ứng dụng,
số lượng cơng trình có quy mơ lớn, cơng trình ứng dụng cơng nghệ mới, kỹ thuật cao ngày càng
tăng; áp dụng phương thức quản lý hiện đại, chuyên nghiệp. Sản xuất vật liệu xây dựng phát
triển mạnh, đáp ứng nhu cầu trong nước, một phần xuất khẩu. Chất lượng và sức cạnh tranh của
nhiều sản phẩm vật liệu được cải thiện đáp ứng nhu cầư tiêu dùng, trong đó một số sản phẩm có
thế cạnh tranh với khu vực và thế giới.
334
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Về cơ cấu lại khu vực dịch vụ: Cơ cấu lại khu vực dịch vụ được triển khai tích cực theo hướng
nâng cao chất lượng, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ.
Một số ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao được đẩy mạnh và từng bước hiện đại hóa, như
cơng nghệ thơng tin, truyền thơng, thương mại điện tử, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khốn, y tế, hàng khơng... số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ tăng từ 14,5 triệu năm
2010 lên khoảng 19,4 triệu vào năm 2020. Giai đoạn 2011 - 2020, tăng trưởng của ngành dịch vụ
đat trên 6,4%/năm, cao hơn tăng trưởng chung của nền kinh tế (5,95%/năm).
Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng, cơ bản trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn; số lượng khách quốc tế tăng nhanh, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên
18 triệu lượt năm 2019, bình qn tăng khoảng 15%/năm, đóng góp trực tiếp khoảng 10% GDP.
Năm 2020, dịch bệnh COVID-19 đã tác động rất nghiêm trọng đến ngành du lịch và nhiều ngành
dịch vụ như giao thông vận tải, hàng khơng, khách sạn, ăn uống, giải trí..., số khách du lịch quốc
tế đến Việt Nam giảm mạnh.
Sự chuyển dịch cơ cấu về loại hình doanh nghiệp
Giai đoạn vừa qua chứng kiến một xu hướng tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể
hiện đúng chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước, khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm dần
cả về quy mơ và tỷ lệ đóng góp. Quy mơ và tỷ lệ đóng góp của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà
nước và khu vực doanh nghiệp FDI đều tăng và tiếp tục tăng trong thời gian tới. Trong bối cảnh
ngân sách nhà nước còn hạn chế, với nhiều hạng mục chi như hiện nay, trong khi thu ngân sách
khó khăn trong giai đoạn hiện nay do tình hình dịch bệnh COVID-19 thì càng phải đẩy nhanh
sự chuyển hướng đầu tư sang lĩnh vực có hiệu quả cao. Cùng với chủ trương, chính sách khuyến
khích mọi loại hình doanh nghiệp cùng phát triển bình đẳng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực doanh nghiệp FDI
phát triển nhanh và hiệu quả, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, thu hút
nhiều lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững. Nhờ đó, khu vực doanh
nghiệp ngồi nhà nước liên tục phát triển, từ chỗ chỉ chiếm tỷ lệ thấp, đến nay đã có quy mơ và
tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp ở hầu hết các chỉ tiêu, cụ thể:
Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa và đổi mới, sắp xếp lại của Nhà nước nên khu vực doanh
nghiệp Nhà nước tiếp tục xu hướng giảm dần quy mơ và tỷ lệ đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu trong
giai đoạn từ năm 2010 tới nay. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, thực chất hơn;
tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động, số lượng doanh nghiệp nhà
nước được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Một số doanh nghiệp nhà
nước đóng vai trị dẫn dắt ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Giai đoạn 2011 - 2019 cổ
phần hóa được 679 doanh nghiệp nhà nước; tổng thu từ cổ phần hóa, thối vốn đạt 303 nghìn tỷ
đồng. Quản trị doanh nghiệp được cải thiện; cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch hơn.
Từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nước. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; xuất
hiện nhiều mơ hình mới, hiệu quả, góp phần tăng thu nhập các hộ thành viên, từng bước khẳng
định vai trị, vị trí trong nền kinh tế.
335
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Hiện nay, tốc độ đơ thị hóa ở Việt Nam đang đặt ra những nhu cầu về vốn rất lớn cho đầu tư
các hạng mục về hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội.
Hệ thống đô thị phát triển nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô với mục tiêu phát huy tốt
vai trị gắn kết với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nơng thơn với tỷ lệ đơ thị hóa
năm 2019 khoảng 39,2%. Hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là tại các đô thị lớn, tiếp tục được đầu tư,
mở rộng và hoàn thiện theo hướng hiện đại hóa, đồng bộ hóa với các hình thức đầu tư đa dạng,
các nguồn vốn đầu tư được mở rộng hơn. Các hệ thống kết cấu hạ tầng khác, như: hạ tầng năng
lượng; hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; hạ tầng nông nghiệp, nông thôn;
hạ tầng thông tin và truyền thông; hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn
hóa, thể thao, du lịch,... tiếp tục được quan tâm phát triển, hồn thiện. Các cơng trình cấp nước,
thốt nước, thu gom và xử lý chất thải rắn được cải tạo, nâng cấp, cải thiện đáng kể, một số dự
án đã và đang được triển khai bằng nguồn vốn vay ODA tại các thành phố như Hà Nội, Tp. Hồ
Chí Minh, Hải Phịng, Đà Nẵng, Vinh,... Các chương trình, dự án cấp quốc gia và cấp vùng về
phát triển đô thị (dự án phát triển tăng trưởng xanh, dự án phát triển đô thị loại vừa, dự án đô thị
động lực...), hạ tầng kỹ thuật đang tiếp tục được triển khai mạnh mẽ.
Liên kết vùng, kết nối kinh tế, hạ tầng dựa trên vào các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên để
phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu được quan tâm và ưu tiên nguồn lực phù hợp.
Môi trường thể chế và kinh doanh của Việt Nam đang được cải thiện
Việt Nam được WIPO xếp vị trí thứ 42/126 nền kinh tế năm 2020, tăng 29 bậc so với năm
2014. Trong 5 năm gần đây, thứ hạng các trụ cột Đổi mới sáng tạo của Việt Nam có xu hướng cải
thiện liên tục. Trong nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (30 nước), Việt Nam xếp thứ hai.
Xếp hạng chung về Đổi mới sáng tạo của nước ta năm 2020 so với năm 2014 tăng 29 bậc với 6/7
chỉ số thành phần tăng hạng, trong đó, thể chế tăng 43 bậc; nguồn nhân lực và nghiên cứu tăng
23 bậc; cơ sở hạ tầng cải thiện 21 bậc; trình độ phát triển của thị trường tăng 59; sản phẩm kiến
thức và công nghệ tăng 14 bậc; sản phẩm sáng tạo cải thiện 12 bậc.
Trong 5 chỉ số đầu vào thì thể chế và trình độ phát triển của thị trường đạt được những kết quả
tốt nhất. Từ vị trí thấp nhất năm 2014, kết quả về thể chế ở Việt Nam đã cải thiện được 57 bậc chỉ
sau 06 năm. Trong khi đó, trình độ phát triển thị trường cải thiện đáng kể (Bảng 2).
Bảng 2. Kết quả chỉ số Đổi mới sáng tạo của Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020
Nhóm chỉ số đầu vào
1. Thể chế
2. Nguồn nhân lực và nghiên cứu
3. Cơ sở hạ tầng
4. Trình độ phát triển của thị trường
5. Trình độ phát triển kinh doanh
Nhóm chỉ số đầu ra
6. Sản phẩm kiến thức và công nghệ
7. Sản phẩm sáng tạo
Xếp hạng chung
2014
100
121
89
99
92
59
47
49
58
71
2015
78
101
78
88
67
40
39
28
62
52
2016
79
93
74
90
64
72
42
39
52
59
2017
71
87
70
77
34
73
38
28
52
47
2018
65
78
66
78
33
66
41
35
46
45
2019
63
67
64
81
32
63
73
39
43
42
2020
62
64
60
75
35
62
38
37
45
42
Nguồn: WIPO, 2014 - 2020
336
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
3. MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Một là, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để đáp ứng yêu cầu thực
tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nội dung còn chưa
thực sự sâu sắc, thống nhất. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đầy
đủ, hiện đại, hội nhập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Do vậy, trong thời gian tới, Chính phủ
cần tập trung hồn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tiếp tục hoàn
thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định,
cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm
chấp hành pháp luật nghiêm minh.
Hệ thống pháp luật cần ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn quá trình phát triển và
hội nhập quốc tế. Bối cảnh mới đặt ra những u cầu mới cho q trình hồn thiện bộ máy lãnh
đạo và năng lực lãnh đạo. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cần được xác định cụ thể
hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Trong giai đoạn 2011
- 2018, Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số lượng lớn các văn bản
pháp luật và điều hành. Đáng chú ý là tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ban hành 03 Nghị quyết quan trọng có tính đột phá mạnh mẽ cả về nhận thức và hành
động, nhất là Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII), các vấn đề quan trọng tiếp tục được bàn thảo, đó
là “đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập” và “đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả”. Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) sau đó tiếp tục thông qua các vấn đề về công
tác cán bộ, nhất là cán bộ chiến lược và cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, Nghị quyết
số 19 hàng năm (kể từ 2016) đã được ban hành nhằm đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm cải thiện
môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia hướng đến năm 2020 và đã đạt được những
kết quả tích cực. Việc tinh chỉnh bộ máy cũng cần tiếp tục đẩy mạnh để giảm các khoản chi thường
xuyên và dành nguồn lực cho những nhu cầu khác thiết yếu và hiệu quả hơn.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ cần phải từng bước được hình
thành đồng bộ hơn, vận hành cơ bản thơng suốt và bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu
vực và quốc tế. Thị trường vốnphát triển ngày càng mạnh mẽ, tạo thành một kênh huy động vốn
quan trọng cho nền kinh tế. Cùng với đó, thị trường bất động sản cũng cầnphát triển đa dạng về
loại hình, chất lượng sản phẩm từng bước được nâng cao; Thị trường khoa học, công nghệ bước
đầu phát huy hiệu quả; Các thiết chế của thị trường lao động cần được tiếp tục hoàn thiện thúc
đẩy dịch chuyển lao động giữa các ngành, khu vực của nền kinh tế.
Hai là, quản trị Nhà nước cần từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu cơ cấu lại
đầu tư từ ngân sách trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế.
Vai trò, phương thức quản trị Nhà nước cần có những đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị
trường. Nhà nước cần tập trung hơn vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mơ; hồn thiện hệ thống luật
337
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với nguyên tắc thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tạo
lập và không ngừng cải thiện môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người
dân và doanh nghiệp; giảm thiểu sự can thiệp hành chính trực tiếp vào cơng việc kinh doanh của
doanh nghiệp. Quản lý tài chính cơng được đổi mới và từng bước hồn thiện. Cơng tác cải cách
hành chính đã được nỗ lực triển khai và đạt kết quả tích cực. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong
quản lý nhà nước từng bước được tăng cường. Sự nhất quán về chủ trương, đường lối đổi mới
và phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị, bảo đảm an tồn, trật tự xã hội góp phần quan
trọng tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Cần phải tôn trọng quy luật khách quan, coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để
đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn,
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi
mới. Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện dường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung
các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách khơng cịn phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói
đi đôi với làm; phải nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ
phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và cơng bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ mơi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh. Xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến
lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mơ hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Ba là, về thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng
Cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư cơng, chưa đáp ứng u cầu. Tình trạng lãng phí, thất
thốt, tiêu cực trong đầu tư cơng, chất lượng cơng trình thấp chưa được giải quyết triệt để. Chất
lượng thể chế quản lý đầu tư cơng cịn thấp so với mức trung bình của các nước ASEAN-4, nhất
là về công tác thẩm định, lựa chọn dự án và giám sát thực hiện đầu tư. Công tác quản lý tài chính,
tài sản cơng, đất đai ở một số cơ quan, đơn vị cịn kém hiệu quả. Cơng tác cổ phần hóa, thối
vốn tại doanh nghiệp nhà nước cịn chậm, chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng
doanh nghiệp, hiệu quả quản trị doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu; thiếu chiến lược phát triển doanh
nghiệp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với vị
thế, nguồn lực đang nắm giữ. Số lượng doanh nghiệp tư nhân cịn ít, quy mô chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và cơng nghệ lạc hậu; khả năng cạnh tranh và hiệu quả
hoạt động thấp; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết với khu vực đầu tư nước ngồi cịn hạn
chế. Đội ngũ doanh nhân phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Tổ chức kinh tế tập
thể, hợp tác xã phần lớn có quy mơ nhỏ, năng lực nội tại cịn yếu. Do vậy cần hồn thiện nền tài
chính quốc gia; cơ cấu lại, tăng cường giám sát và điều tiết thị trường tài chính.
Các trọng tâm cơ cấu lại về đầu tư, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước cần được
tập trung thực hiện để đạt kết quả tích cực hơn. Chuyển căn bản từ kế hoạch đầu tư công
338
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
hằng năm sang kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch hằng năm; lồng ghép, huy động
các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phân bổ vốn đầu tư được gắn
với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; vốn đầu tư nhà nước tập trung nhiều hơn vào các cơng trình
quan trọng, thiết yếu để đẩy nhanh tiến độ, đi vào khai thác. Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong
tổng đầu tư giảm từ 38,1% năm 2010 xuống 33,7% năm 2020 (mục tiêu là 31 - 34%). Tính chung
giai đoạn 2016 - 2020, tổng số dự án đầu tư công trung hạn đã giảm một nửa, chỉ cịn 9.620 dự
án (khơng bao gồm các dự án thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia). Số vốn bố trí trung
bình cho một dự án tăng cao. Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công được tăng cường, từng bước
ngăn chặn tình trạng phê duyệt dự án vượt quá khả năng cân đối vốn, đầu tư dàn trải, hạn chế nợ
đọng xây dựng cơ bản, góp phần chống thất thốt, lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực tài
chính quốc gia.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn,
bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống. Khung khổ pháp lý về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng từng bước
được hồn thiện, tiệm cận với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn của
Việt Nam. Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai quyết liệt
và đạt kết quả tích cực; số lượng các tổ chức tín dụng có quy mơ nhỏ, hoạt động yếu kém giảm
dần; tỷ lệ nợ xấu giảm từ 17,2% năm 2012 xuống dưới 3% đến cuối năm 2020.
Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và áp dụng các
chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt trong quản trị và hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm
phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm
nền tài chính quốc gia an tồn, bền vững, góp phần ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, bội chi
ngân sách nhà nước đến năm 2030 khoảng 3% GDP; đồng thời phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại
nền kinh tế, gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà
nước, tăng tỷ lệ thu nội địa, tăng tích luỹ từ ngân sách nhà nước cho chi đầu tư phát triển; tăng
sức chống chịu, bảo đảm an tồn, an ninh tài chính quốc gia. Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả
sử dụng nợ cơng, hạn chế tối đa cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới. Đối với doanh
nghiệp nhà nước cần đổi mới cách thức thực hiện cố phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản
cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa. Hoàn tất việc sắp xếp
lại khối doanh nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hóa, thối vốn nhà nước tập trung đầu
tư các cơng trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng, quốc gia, địa phương, bổ sung vốn điều
lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, nhất là nhân lực chất lượng cao, gắn kết
chặt chẽ hơn với nhu cầu thị trường; phát triển và ứng dụng khoa học, cơng nghệ đạt kết quả
tích cực.
Quy mơ nguồn nhân lực được mở rộng, lực lượng lao động tăng từ 50,4 triệu người năm 2010
lên khoảng 54,6 triệu người vào năm 2020 với cơ cấu hợp lý hơn. Chất lượng nhân lực có sự cải
thiện đáng kể và phù hợp hơn với nhu cầu thị trường. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm
2010 lên 64,5% năm 2020. Trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ
14,6% năm 2010 lên 24,1% vào năm 2020. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất
339
KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
lượng, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu vực và quốc tế như công nghệ thông tin,
y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí...
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo được triển khai tích cực theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng và triển khai hệ
thống giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia mới. Mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp
tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Quan tâm phát triển giáo dục vùng
đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm công bằng hơn trong tiếp cận giáo
dục. Chương trình, sách giáo khoa, nội dung, phương pháp giáo dục, thi cử, kiểm định chất lượng
đào tạo được đổi mới phù hợp hơn và giảm áp lực, chi phí xã hội. Bước đầu đã chú trọng dạy và
học đạo đức, kỹ năng sống, ngoại ngữ, tin học, giáo dục thể chất. Từng bước thực hiện cơ chế
tự chủ đối với cơ sở giáo dục - đào tạo. Chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, nghề
nghiệp được nâng lên. Trong thời gian dịch bệnh COVID-19, ngành giáo dục - đào tạo đã bước
đầu tiếp cận dạy và học qua Internet, truyền hình với nhiều hình thức khác nhau; Phát triển nguồn
nhân lực gắn với khoa học, cơng nghệ đạt được kết quả tích cực. Nhiều cơ sở giáo dục - đào tạo
có cơ chế khuyến khích sinh viên, học viên nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là
thông qua quỹ phát triển khoa học, công nghệ. Công tác đào tạo nhân lực đã từng bước thay đổi
theo hướng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, người sử dụng lao động, thị trường. Nhiều cơ sở
giáo dục đại học, nghề nghiệp hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để đào tạo theo đặt hàng. Nhiều
doanh nghiệp mở các cơ sở đào tạo nghề nghiệp phục vụ trực tiếp cho doanh nghiệp và cung ứng
cho thị trường. Tuy nhiên, dù đạt được nhiều kết quả nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa
xứng với tiềm năng của phát triển kinh tế. Trình độ khoa học, cơng nghệ quốc gia nhìn chung
cịn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Hiệu quả
nghiên cứu khoa học, công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao. Năng lực nghiên cứu
ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn. Việc chuyển giao các kết quả
nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các kết quả phát triển công nghệ từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà
nước cho doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội
ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh
nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người; Đổi mới và nâng cao
chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp
luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát
triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy
phát triển mơ hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số và phát triển mạnh thị trường khoa học,
công nghệ gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ…
Năm là, cần tập trung đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phịng, chống tham nhũng, lãng phí từ Trung ương đến địa phương. Tăng
cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và chấn chỉnh, xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng
lớn tiền và tài sản về cho Nhà nước. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được
quan tâm hơn, xử lý kịp thời nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, vượt cấp và hạn chế phát sinh mới.
Đã tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm và công khai kết quả xử lý nhiều vụ việc tham nhũng, góp
phần củng cố niềm tin trong nhân dân.
340
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Sáu là, cải cách thủ tục hành chính để đạt được những chuyển biến tích cực. Các cấp, các
ngành cần tập trung cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, đơn giản, minh
bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục
sản phẩm hàng hóa kiểm tra chuyên ngành cần được cắt giảm, đơn giản hóa. Quy định về thủ tục
hành chính cần được kiểm soát chặt chẽ ngay từ khi xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, cần tích cực xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến
được đẩy nhanh, tăng cường họp, làm việc trực tuyến, xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện
tử; cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa quốc gia, một cửa ASEAN tiếp tục được duy trì,
mở rộng, cải thiện về chặt lượng, hiệu quả hoạt động.
(Bài viết nằm trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài Độc lập cấp Quốc gia mã số ĐT
ĐL.XH-04/19)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo Chỉ số Tài sản trí tuệ Quốc tế (World Intellectual Property Indicators) các năm
2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020.
2. Báo cáo số 5984/BC-BKHĐT ngày 29/8/2018 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo đánh giá
giữa kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
3. Báo cáo số 471/BC-CP ngày 12/10/2018 của Chính phủ về đánh giá giữa kỳ thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
4. Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030.
5. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê qua các năm từ 2001 - 2020.
341