Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào các nước CPTPP cơ hội và thách thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.34 KB, 10 trang )

XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM VÀO CÁC NƢỚC CPTPP
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
PGS, TS. Phan Tố Uyên
Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm lược: Tháng 11/2017, 11 nước thành viên TPP ra Tuyên bố chung thống nhất đổi
tên TPP thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xun Thái Bình Dương (CPTPP).
CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại của TPP
(không bao gồm Hoa Kỳ). CPTPP giữ nguyên gần như toàn bộ các cam kết của TPP ngoại
trừ các cam kết của Hoa Kỳ hoặc với Hoa Kỳ và một số sửa đổi. Đây là hiệp định mang tính
bước ngoặt về thương mại và đầu tư của thế kỷ XXI, CPTPP được kỳ vọng sẽ góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thành viên. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
các nước trong CPTPP mang tính bổ sung cao, Việt Nam ln xuất siêu vào thị trường các
nước CPTPP. Đây là cơ hội giúp cho Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu và phát triển kinh tế
đất nước. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả khái quát về CPTPP, những cơ hội và thách thức
đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước CPTPP, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước CPTPP.
Từ khóa: Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương, CPTPP,
xuất khẩu hàng hóa
1. Đặt vấn đề
Hiệp định đối tác xun Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement –
TPP) chính thức được ký kết ngày 04/02/2016 tại New Zealand và dự kiến có hiệu lực vào
năm 2018. Tuy nhiên tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút kh i TPP, khiến TPP không thể đáp
ứng điều kiện có hiệu lực như dự kiến ban đầu. Tháng 11/2017, 11 nước thành viên TPP ra
Tuyên bố chung thống nhất đổi tên TPP thành Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ Xun
Thái Bình Dương (CPTPP). CPTPP được chính thức ký kết tại Thủ đơ Santiago của Chile vào
tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại của TPP (không bao gồm Hoa Kỳ). Về cơ bản,
Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm 30 chương và 9 phụ lục)
nhưng cho phép các nước thành viên tạm hỗn 20 nhóm nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng về
quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút kh i Hiệp định
TPP. 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu tr
tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua s m của Ch nh phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan


tới 7 Chương là Quản l hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ
xuyên biên giới, Dịch vụ Tài ch nh, Viễn thơng, Mơi trường, Minh bạch hóa và Chống tham
nh ng. Tuy nhiên, toàn bộ các cam kết về mở c a thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được
giữ nguyên trong Hiệp định CPTPP.
Đây là hiệp định mang t nh bước ngoặt về thương mại và đầu tư của thế kỷ XXI,
CPTPP được kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thành viên.
233


Hơn nữa, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong CPTPP t nh tương đồng t,
t nh bổ sung cao, Việt Nam luôn xuất siêu vào thị trường các nước CPTPP. Đây là cơ hội giúp
cho Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu và phát triển kinh tế đất nước.
So với các hiệp định BTA (Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ), AFTA (Khu
vực Thương mại Tự do Đông Nam Á) và WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), nội dung của
CPTPP được mở rộng hơn cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu
tr tuệ. Bên cạnh đó CPTPP còn đề cập đến các vấn đề phi thương mại như mua s m ch nh
phủ, môi trường, lao động, cơng đồn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp v a và nh . CPTPP được
coi là hiệp định mang t nh bước ngoặt của thế kỷ XXI, CPTPP ra đời nhằm mục đ ch để các nước
Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng gần nhau hơn, tạo ra một khu vực thương mại tự do, tạo ra
một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu khi vẫn đề cập đến các vấn đề mang t nh thế hệ mới.
CPTPP có vai trị quan trọng đối với kinh tế thế giới không ch bởi vị tr địa l quan trọng mà cịn
bởi quy mơ kinh tế, quy mơ trao đổi thương mại giữa các quốc gia tham gia CPTPP. Khi Hiệp
định CPTPP có hiệu lực, nó sẽ tạo ra một khối thương mại tự do với gần 500 triệu dân và tổng
kim ngạch thương mại vượt hơn 10.000 tỷ USD.
Mặc d khơng có Hoa Kỳ tham dự trong CPTPP, tuy nhiên, các thị trường như Canada, Nhật Bản, Australia, Mexico vẫn là những thị trường rất tiềm năng cho doanh nghiệp xuất
khẩu của Việt Nam. CPTPP có những điều khoản rất mở cho doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thủy sản vào thị trường rất tiềm năng là
Nhật Bản. Tuy nhiên, những điều khoản mở c ng đi kèm những yêu cầu g t gao hơn về quy
t c xuất xứ và các hàng rào phi thuế quan v dụ như vấn đề môi trường, nguồn gốc xuất xứ
thủy sản…. Doanh nghiệp đánh giá CPTPP t hấp dẫn hơn bởi thị trường lớn là Hoa Kỳ khơng

cịn, vì vậy, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng t hơn TPP. Với 20 nhóm nghĩa vụ tạm
hỗn trong CPTPP c ng được cho là tạm thời giúp doanh nghiệp “dễ thở” hơn. Ngồi ra, một
vấn đề lớn hơn đó là doanh nghiệp kỳ vọng thơng qua CPTPP sẽ có sự cải cách mạnh mẽ về
thể chế và thơng thống trong đầu tư và kinh doanh.
CPTPP là Hiệp định tiêu chuẩn cao, đa số các nước tham gia đàm phán đều có cơ cấu
kinh tế mang t nh bổ sung với kinh tế Việt Nam và là các thị trường mà Việt Nam duy trì xuất
siêu với kim ngạch lớn (Bảng 1). Có thể nói, đây là cơ hội giúp cho Việt Nam tăng trưởng
xuất khẩu và phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu những cơ hội và
thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước CPTPP, t đó đề xuất các
giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước CPTPP có nghĩa
thực tiễn sâu s c.
2. Những cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào c ác
nƣớc CPTPP
K kết một Hiệp định thương mại tự do (FTA) đồng nghĩa với việc chấp thuận mở
rộng thị trường của mình cho hàng hóa dịch vụ nước ngồi c ng như xác lập quyền tiếp cận
ưu tiên của hàng hóa dịch vụ nước mình tại thị trường đối tác. Với cách hiểu thông thường
này, lợi ch trong CPTPP của Việt Nam chủ yếu nằm ở khả năng hàng hóa dịch vụ của chúng
234


ta sẽ thuận lợi hơn khi tiếp cận thị trường các nước đối tác thông qua việc đối tác c t giảm
thuế quan, bãi b các điều kiện đối với đầu tư, dịch vụ. Tuy nhiên, Việt Nam c ng sẽ phải mở
c a chào đón hàng hóa, dịch vụ của các nước đối tác tại thị trường trong nước. Điều này cho
thấy, CPTPP không ch đem lại cơ hội mà còn đem lại rất nhiều thách thức cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
2.1. Những cơ hội đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước CPTPP
Thứ nhất, tham gia Hiệp định CPTPP giúp Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu
Tham gia Hiệp định CPTPP, các quốc gia thành viên nhất tr xóa b hoặc c t giảm hồn tồn 97100% dịng thuế sẽ tạo động lực cho xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt đối với các mặt hàng xuất
khẩu được đánh giá sẽ hưởng lợi nhiều t hiệp định CPTPP như : dệt may, giày dép, thủy sản, đồ
gỗ … qua đó, thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Theo đánh giá của World Bank (2015,1)

“Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất t gia nhập TPP với giá trị tăng thêm về GDP và
xuất khẩu cao nhất so với các thành viên còn lại, tăng lần lượt 10% và 30,1% vào năm 2030 trong
khi giá trị tăng thêm trung bình của tồn bộ các nước TPP ch ở mức 1,1% và ~11% (so với kịch
bản không hội nhập TPP)”. Vì vậy, với việc tiếp tục là thành viên CPTPP thì Việt Nam vẫn được
coi là quốc gia được lợi nhiều nhất khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
Quan hệ thương mại của Việt Nam với các thành viên CPTPP t nh tương đồng t và
t nh bổ sung khá cao. Nhiều nước tham gia CPTPP là đối tác thương mại chủ yếu của Việt
Nam như : Singapo, Nhật Bản, Malaysia, Australia…. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào các quốc gia này nếu như năm 2012 mới ở mức 25,45 tỷ USD thì đến năm 2017 đã đạt
34,11 tỷ USD (trong đó Nhật Bản chiếm gần 50%). Do đó, khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào những thị trường này sẽ ngày càng gia tăng và khối
các quốc gia CPTPP sẽ ngày càng đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng
xuất khẩu của Việt Nam.
Trong số 10 nước xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào CPTPP thì Nhật Bản là lớn
nhất với kim ngạch xuất khẩu đạt 20,412 tỷ USD vào năm 2019 (chiếm 7,5 % kim ngạch xuất
khẩu cả nước ). Tiếp theo là Canada với kim ngạch xuất khẩu trên 3,912 tỷ USD (năm 2019).
Bên cạnh đó, Nhật Bản và Australia cịn là những thị trường xuất khẩu ch nh các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như sản phẩm dệt may; giày dép các loại; gỗ và các sản
phẩm gỗ; hàng thủy sản; hàng nông sản; máy vi t nh, sản phẩm điện t và kinh kiện; điện
thoại các loại và linh kiện; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ t ng khác; túi xách, v , vali, m và
ô d ; hạt điều; dầu thơ. Vì vậy, khi các quốc gia trong CPTPP giảm thuế nhập khẩu về 0% sẽ
giúp tạo ra “cú h ch” lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với ngành hàng dệt may, hiện nay các quốc gia trong CPTPP đều là những đối
tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may
của cả nước. Đặc biệt năm 2018, 12,5 % các mặt hàng quần áo, da giày của Việt Nam được
xuất khẩu vào Nhật Bản (đạt kim ngạch 3,81 tỷ USD). Do đó, khi CPTPP thực thi, ngành dệt
may Việt Nam được kỳ vọng sẽ đạt được mức tăng trưởng lớn trong những năm tới. Thuế
nhập khẩu hàng dệt may vào các nước CPTPP giảm 50% ngay năm đầu tiên CPTPP có hiệu
235



lực (tương đương 1 tỷ USD) và tăng lên trong những năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu tăng
khoảng 30%/năm; về quy t c xuất xứ “t sợi trở đi”, có một số linh hoạt như nhập nguyên
liệu t nước thứ ba để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu vẫn được hưởng ưu đãi theo CPTPP
Bảng 1: Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia CPTPP giai đoạn 2014 - 2019
Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

VN
VN
VN
VN
VN VN
nhập xuất nhập xuất nhập xuất
Đối tác
khẩu khẩu khẩu khẩu khẩu khẩu
(Tỷ
(Tỷ
(Tỷ
(Tỷ
(Tỷ (Tỷ

USD) USD) USD) USD) USD USD)

VN
VN VN VN VN VN
nhập xuất nhập xuất nhập xuất
khẩu khẩu khẩu khẩu khẩu khẩu
(Tỷ
(Tỷ (Tỷ (Tỷ (Tỷ (Tỷ
USD USD) USD USD USD USD

Canada

0,386

2,081

0,480

2,450

0,395

2,652

0,774

2,71

0,857 3.014 0,860


3,912

Mexico

0,264

1,036

0,500

1,580

0,484

1,888

0,566

2,339

1,124 2,239 0,642

2,827

Chile

0,368

0,522


0,299

0,670

0,231

0,805

0,282

0,999

0,306 0,781 0,288

0,940

Peru

0,098

0,186

0,0600

0,245

0,076

0,277


0,117

0,331

0,083

0,341

Nhật Bản 12,908 14,704 14,426 14,140 15,064 14,671 16,6

16,8

19,04 18,833 19,525 20,412

Singapore 7,01

2,833

6,120

3,350

4,762

2,420

5,300

2,960


4,526 3,195 4,091

3,197

Malaysia 4,193

3,93

4,189

3,600

5,171

3,341

5,860

4,200

7,450 4,064 7,290

3,788

0,118

0,049

0,060


0,025

0,070

0,020

0,051

0,0215 0,036 0,018 0,177

0,066

Australia 2,058

3,99

2,050

3,000

2,424

2,864

3,170

3,300

3,750 3,965 4,455


3,494

New Zea0,478
land

0,316

0,400

0,340

0,357

0,356

0,449

0,458

0,532 0,504 0,552

0,542

Brunei

Tổng

0,25

0,081


27,881 29,647 28,584 29,400 29,034 29,294 33,169 34,1185 37,710 36,867 37,966 39,525

Tổng kim
ngạch XK
(NK) của 148,058 150,042 165,609 162,439 174,8
VN (Tỷ
USD)
Tỷ trọng
đóng góp
của nhóm 18,83
quốc gia
CPTPP (%)

19,76

17,26

18,09

16,60

176,7

211,1

214,1 236,69 243,48 254,45 263,45

16,58


15,71

15,94

15,93 15,14 14,92

15,00

Nguồn: Bộ Công Thương, Tổng cục Hải quan
Theo dự báo của Ngân hàng thế giới, sản lượng ngành dệt may của Việt Nam đạt mức
tăng trưởng kỷ lục 90% vào năm 2020 trong điều kiện CPTPP có hiệu lực. C ng theo tổ
chức này, tốc độ tăng trưởng chung của ngành dệt may có thể đạt 41%, tương ứng với giá trị
xuất khẩu tăng thêm 11,5 tỷ USD năm 2020.
Đối với ngành hàng thủy sản, đây c ng được cho là ngành tận dụng được nhiều lợi thế
khi Việt Nam gia nhập CPTPP bởi Nhật Bản là một trong số các quốc gia nhập khẩu thủy sản
236


hàng đầu Việt Nam. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào quốc gia này đạt 1,39 tỷ
USD, tăng 6,4 % so với 2017 (trong đó tơm và cá ngừ là mặt hàng tăng trưởng tốt nhất) và
chiếm tới 15,62% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Trong những năm qua,
tỷ trọng xuất khẩu thủy sản vào khối các quốc gia CPTPP luôn chiếm trên dưới 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Sau khi Hiệp định CPTPP được k kết vào tháng
3/2018, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã bước đầu thấy được nhiều t n
hiệu t ch cực. Nhật Bản cam kết mức xóa b ngay là 91%, Canada c ng gần như xóa b 100%
thuế cho tất cả mặt hàng nông, thủy sản, đồ gỗ t Việt Nam. Mới đây, Nhật Bản đã bãi b
thuế nhập khẩu đối với sản phẩm cá ng và cá hồi và mở c a cho các doanh nghiệp xuất khẩu
thuộc các nước thành viên tham gia t ch cực hơn vào thị trường này.
Đối với ngành hàng nông sản, các nước thành viên CPTPP c ng sẽ mở c a cho các
sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn, chất lượng.

Nhật Bản c ng cam kết xóa b thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực cho 78% kim ngạch xuất
khẩu nơng sản của Việt Nam; mức cam kết đạt được với Mexico khơng nhiều, trong đó nơng
sản thuế ch đưa về 0% cho khoảng 37% kim ngạch xuất khẩu... Đặc biệt, tám nước thành
viên sẽ xóa b ngay thuế cho gạo Việt Nam, Mexico và Chile sẽ xóa thuế cho gạo VN sau 8 10 năm, riêng Nhật Bản không cam kết xóa thuế cho mặt hàng này của Việt Nam. Mặt hàng
cà phê nguyên liệu c ng được 10 thành viên b ngay thuế khi hiệp định có hiệu lực, tr Mexico giữ lộ trình.
Thứ hai, tham gia Hiệp định CPTPP góp phần tạo động lực để các doanh nghiệp
Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ và thúc
đẩy xuất khẩu
CPTPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, khơng phân biệt quốc gia phát triển hay
đang phát triển, trong khi WTO vẫn có các ch nh sách ưu tiên cho các quốc gia đang phát
triển. Điều này tạo ra sức ép rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi phải cạnh tranh hồn
tồn bình đẳng với các doanh nghiệp lớn đến t các thị trường phát triển hơn như Nhật Bản,
hay Australia, đặc biệt trong bối cảnh 96% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nh và
siêu nh . Có thể nói, chính sức ép cạnh tranh mà CPTPP đem lại sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng hàng hóa và dịch vụ
để có thể tồn tại và chiến th ng trong cạnh tranh.
Ở một khía cạnh khác, CPTPP c ng giúp các doanh nghiệp Việt Nam cải thiện sức
cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ thơng qua khả năng c t giảm chi phí sản xuất. Các doanh
nghiệp Việt Nam được mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị nhập khẩu t các nước CPTPP
với chi phí thấp do c t giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác. Tiếp đó, các ngành
sản xuất s dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị nhập khẩu t các nước thành viên CPTPP
lại tiếp tục được hưởng lợi t việc giảm thuế quan nhập khẩu vào các thị trường trong khối
CPTPP, qua đó hàng hóa Việt Nam có thể tiếp cận những thị trường lớn như Nhật Bản, Australia với giá thành sản xuất giảm và sức cạnh tranh tăng lên. Bên cạnh đó, doanh nghiệp c ng
cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để
237


đổi mới và phát triển. CPTPP ch c ch n sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động
đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại thông qua việc xây dựng và điều ch nh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và

dài hạn nhằm thúc đẩy dịng chảy của hàng hóa vào các thị trường đối tác tiềm năng.
Thứ ba, Tham gia Hiệp định CPTPP góp phần tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt
Nam tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng tồn cầu
Tham gia CPTPP sẽ giúp Việt Nam có được các cơ hội mới t chuỗi cung ứng mới
hình thành sau khi CPTPP có hiệu lực. Các nước CPTPP tạo ra một khối thương mại tự do
với gần 500 triệu dân và tổng kim ngạch thương mại vượt hơn 10.000 tỷ USD. Bao gồm các
thị trường lớn như Nhật Bản, Canada, Australia ch c ch n sẽ mở ra rất nhiều cơ hội khi
chuỗi cung ứng mới hình thành. Theo Lê Quốc Phương (2013) cho rằng nhiều tập đoàn lớn
trên thế giới như Samsung, Intel, Microsoft, LG… đã đầu tư mạnh vào Việt Nam với mục
tiêu biến nước ta trở thành một trong những điểm quan trọng trong chuỗi sản xuất các mặt
hàng công nghệ cao như bộ vi x l máy t nh, điện thoại thông minh, các mặt hàng s dụng
cơng nghệ mới... Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hướng hợp tác với
các thị trường đối tác để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng
hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ t các tập đoàn lớn. Đồng thời, đây
c ng ch nh là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi
cung ứng toàn cầu. Vì vậy, nếu Việt Nam có những cải cách kịp thời về thể chế kinh tế,
môi trường kinh doanh và luật pháp, đồng thời cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nội địa, Việt Nam sẽ hưởng lợi lớn t làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều cơng ăn việc
làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các
chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu do CPTPP đem lại.
Thứ tư, tham gia Hiệp định CPTPP tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam thay
đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng gia tăng giá trị
Với cam kết xóa b tồn bộ thuế nhập khẩu ngay khi CPTPP có hiệu lực tr nhóm
các mặt hàng có lộ trình 3, 5, 10 năm, tất cả các nước thành viên đều kỳ vọng vào việc thúc
đẩy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam
đáp ứng đầy đủ điều kiện xuất xứ trong CPTPP để hưởng mức ưu đãi 0%, tổng giá trị xuất
khẩu của Việt Nam đến các nước thành viên CPTPP sẽ tăng dự kiến 28,4% tương đương 67,9
tỷ USD, đặc biệt là nhóm mặt hàng dệt may, da giầy tăng thêm 45,9% (theo nghiên cứu của
Petri). Trong đó, giá trị xuất khẩu của Việt Nam vào hai thị trường lớn Nhật Bản và Malaysia
sẽ càng tăng mạnh trong các ngành như dệt may, da giầy, thủy hải sản.

Hơn nữa, Nhật Bản có vai trị quan trọng trong việc đa dạng hóa cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam theo hướng tăng xuất khẩu mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị cao, giảm
xuất khẩu nguyên liệu thô. Tham gia CPTPP là cơ hội tốt nhất để Việt Nam - Nhật Bản xây
dựng chuỗi cung ứng đối với các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm cơng nghiệp là thế mạnh
của Nhật Bản, t đó gia nhập vào chuỗi cung ứng của khu vực và toàn thế giới.

238


2.2. Những thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nƣớc CPTPP
Thứ nhất, sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng lên và nguy
cơ thất bại của các doanh nghiệp trên chính thị trường nội địa
Hiện nay, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn tồn
tại rất nhiều hạn chế: (i) Quy mô nh , tính chất phi chính thức lớn, cơng nghệ và quản lý
cịn yếu kém, sức cạnh tranh khơng cao; (ii) Thiếu chủ động trong việc n m b t thông tin
và tận dụng những cơ hội lớn mà các cam kết quốc tế mang lại; (iii) Thiếu tính sáng tạo,
có tâm lý ngại sự thay đổi; (iv) Tính liên kết giữa các doanh nghiệp cịn hạn chế; (v) Trình
độ cơng nghệ lạc hậu, việc tăng trưởng theo chiều sâu, ứng dụng công nghệ mới, tăng
năng suất lao động trong doanh nghiệp còn hạn chế; (vi) Năng lực quản trị doanh nghiệp
còn nhiều yếu kém, thiếu tính chun nghiệp. Bên cạnh đó, trong những năm qua, số
lượng doanh nghiệp giải thể, ng ng hoạt động vẫn ở mức cao, trong khi số vốn của doanh
nghiệp đăng k thành lập có xu hướng giảm.
Thứ hai: Khi gia nhập CPTPP, thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính
phủ được mở rộng cửa, thuế nhập khẩu giảm về 0%, sẽ tiềm ẩn những thách thức không nhỏ
đổi với các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc phải cam kết giảm thuế đối với phần lớn các nhóm mặt hàng t các nước đối tác
CPTPP có thể khiến luồng hàng nhập khẩu t các nước này gia tăng nhanh chóng. Hệ quả tất
yếu là cạnh tranh sẽ gay g t hơn và thị phần của các nhà sản xuất Việt Nam tại sân nhà sẽ bị
ảnh hưởng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam c ng sẽ phải đối mặt với
hàng loạt cam kết trong CPTPP về các vấn đề vệ sinh dịch tễ và rào cản k thuật, điều kiện

chống bán phá giá tại các thị trường quan trọng của Việt Nam với các đối tác như : Nhật Bản,
Australia. Những nguy cơ này là đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nơng sản, vốn g n
liền với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân và nông thôn.
Thứ ba, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong CPTPP yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ
một thành viên của CPTPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ “nội khối”, khơng s
dụng các ngun liệu của nước thứ ba ngoài thành viên CPTPP mới được hưởng ưu đãi thuế
suất 0% (mặc dù đã có cơ chế linh hoạt hơn), c ng gây khó khăn không t cho các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là ngành xuất khẩu hàng may mặc và da giầy. Tuy
nhiên, CPTPP có cơ chế linh hoạt hơn như có t các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ. Mặc d
CPTPP áp dụng quy định về nguồn gốc sợi, một số sản phẩm cụ thể s dụng nguyên liệu nhập
khẩu t các nước ngồi CPTPP vẫn có thể hưởng mức thuế ưu đãi (187 loại vải và sợi khơng
có trong các nước CPTPP có thể được nhập khẩu t nước khác để d ng cho sản xuất hàng
may mặc). Đánh giá về tiềm năng của CPTPP, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam chưa k
Hiệp định FTA với 3 quốc gia là Mexico, Peru và Canada. Thị trường tiêu d ng lớn như Canada và Australia vẫn có tiềm năng để dệt may Việt Nam tận dụng tăng trưởng, với giá trị xuất
khẩu hàng dệt may đạt 10 t USD mỗi quốc gia.
Thứ tư, CPTPP quy định rất rõ về các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Theo đó
CPTPP xây dựng những cam kết liên quan đến quyền của người sáng chế, và tạo ra bảo hộ rõ
239


rệt đối với các tác phẩm như bài hát, phim, sách, phần mềm, giống… và yêu cầu các thành
viên CPTPP cung cấp các công cụ hợp pháp để ngăn ng a việc vi phạm các bí mật thương
mại, và xây dựng các quy trình thủ tục x phạt hình sự đối với tội phạm trộm c p bí mật
thương mại, bao gồm cả trộm c p qua mạng. Kèm theo đó, các thành viên được yêu cầu cung
cấp các hệ thống chế tài mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục dân sự, các biện pháp tạm
thời, các biện pháp quản lý biên giới, và chế tài hình sự đối với tội giả mạo nhãn hiệu và vi phạm
bản quyền. Mặc d đã tham gia công ước Bern nhưng Việt Nam vẫn chưa xây dựng được các
thiết chế bảo hộ hiệu quả và 1 số vụ việc vi phạm trí tuệ cịn rất lớn. Trong khi đó, các doanh
nghiệp Việt Nam chưa có kiến thức và sự chú ý cần thiết đối với vấn đề này. Chính vì vậy, việc
áp dụng mạnh mẽ bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp, tạo áp lực gia

tăng các chi ph cấu thành giá của sản phẩm, làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào các nƣớc CPTPP
Có thể nói, bản thân cơ hội khơng biến thành lợi ch và đôi khi c ng ch nh thách thức làm
nên cơ hội. Do đó, để tận dụng được những cơ hội và giảm thiểu tác động của các thách thức mà
CPTPP mang lại, đòi h i phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Muốn vậy cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây :
Một là, Cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu của
các thị trường lớn và tiềm năng như Nhật Bản. Doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến
lược phát triển sản phẩm theo chiều sâu chuyên nghiệp hóa và đi vào một phân khúc thị
trường riêng; chú trọng khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào nguồn nhân lực,
máy móc, thiết bị, xây dựng vùng nguyên liệu nhằm nâng cao giá trị gia tăng hàng xuất khẩu,
tạo ra sự khác biệt cho hàng hóa xuất khẩu trong chuỗi cung ứng khu vực CPTPP. Đồng thời,
Nhà nước cần sớm hoàn ch nh hệ thống Tiêu chuẩn hàng hóa quốc gia c ng như hệ thống
chính sách quản lý, kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế để
các doanh nghiệp lấy đó làm mục tiêu hướng tới trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hai là, Tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý trong
các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược, thường xuyên cập nhật kiến
thức mới, những kĩ năng cần thiết để đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tiếp cận nền kinh tế
tr thức. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đa số đều là các doanh nghiệp có quy mơ nh ,
vốn t, chủ doanh nghiệp trình độ học vấn, kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp chưa
cao, trình độ tay nghề của người lao động còn thấp… để thực hiện chiến lược kinh doanh
cạnh tranh cần thiết phải thực hiện phương châm liên kết và hợp tác để nâng cao chất
lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Ba là, năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp là yếu tố quyết định trong "sân chơi
CPTPP". Do đó, để tồn tại và phát triển, điều tối quan trọng với các doanh nghiệp là phải
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình để có đủ sức cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài trên thị trường trong nước c ng như trên thị trường của nước đối tác. Các
doanh nghiệp c ng cần chủ động nâng cao tính cạnh tranh, tích cực tham gia hơn vào thương
mại thế giới và chuỗi cung ứng trong khu vực, tận dụng lợi ích tối đa t Hiệp định. Đồng thời,
240



các doanh nghiệp c ng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm
tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và k thuật của các đối tác.
Bốn là, Hiện nay, nhiều lĩnh vực doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh được với
doanh nghiệp nước ngồi, do họ có bề dày kinh nghiệm, tiềm lực tài chính, thương hiệu, uy
tín… Do đó, doanh nghiệp Việt Nam thay vì đối đầu trực tiếp trên các thị trường lớn thì hãy
chọn các thị trường ngách, thị trường nh với chiến lược "đại dương xanh" - khai phá mảng thị
trường có thể nh hẹp nhưng mới và t đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp cần tranh thủ tìm
kiếm đơn hàng trực tiếp t các đối tác CPTPP và cả đơn hàng gián tiếp đến t các đối tác khác
muốn tận dụng cơ hội thuế quan trong CPTPP. Đồng thời, các doanh nghiệp cần điều ch nh
hoạt động sản xuất để tận dụng ưu đãi thuế quan (ví dụ thay đổi nguồn nguyên liệu…), vượt qua
rào cản phi thuế quan (ví dụ thay đổi phương thức sản xuất, kiểm sốt quy trình…).
Năm là, Nhà nước cần tăng cường đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống thơng tin về
thị trường hàng hóa do tác động của CPTPP. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng, tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động, giá cả các
loại hàng hóa ln có sự thay đổi rất khó dự đốn. Vì vậy, trong điều kiện thực thi CPTPP,
các nước thành viên sẽ có những điều ch nh về pháp luật, ch nh sách thương mại, chính sách
điều hành kinh tế để phù hợp với những cam kết trong khn khổ hiệp định, đồng thời đối
phó với sự thay đổi về diễn biến cung cầu hàng hóa trên thị trường. Để có thể chủ động n m
b t những thay đổi đó, nhà nước cần cung cấp thơng tin đầy đủ, kịp thời và dự báo chính xác
diễn biến thị trường để t đó giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có giải pháp phù hợp tận dụng
cơ hội và vượt qua khó khăn. Nhà nước cần tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống thơng tin
thống kê, phân tích và dự báo giá cả, cung cầu hàng hóa để hạn chế những rủi ro khơng đáng
có đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang các nước CPTPP. Thời điểm hiện nay rất cần
thông tin và những trao đổi, đối thoại đầy đủ hơn, sâu s c hơn giữa doanh nghiệp, hiệp hội với
các bộ ngành và chính phủ. Thơng tin không ch là về CPTPP, các FTA Việt Nam tham gia và
hội nhập, mà cả về những chính sách, cải cách hiện hành c ng như những thay đổi cần thiết
trong thời gian tới.
Sáu là, Đẩy mạnh phát triển các ngành cơng nghiệp hỗ trợ.Muốn khai thác được lợi

ích của CPTPP trong lĩnh vực xuất khẩu, Việt Nam cần thiết phải xây dựng và phát triển các
ngành công nghiệp hỗ trợ, bao gồm : (i) Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ kh chế tạo; (ii) Công
nghiệp hỗ trợ ngành sản xuất và l p ráp điện t ; (iii) Cơng nghiệp hố chất s dụng cơng nghệ
tiên tiến, cơng nghệ cao, ưu tiên đầu tư phát triển lĩnh vực sản xuất hoá m phẩm và hoá
dược, chất tẩy r a, sơn, các sản phẩm cao su k thuật phục vụ trực tiếp cho các ngành công
nghiệp khác và tham gia xuất khẩu; (iv) Công nghiệp sản xuất xơ sợi, sợi và dệt nhuộm, sản
xuất các phụ kiện cho sản xuất sản phẩm t da để cung cấp đầu vào trực tiếp cho hai ngành
may mặc và da giày tại các địa phương; (v) Công nghiệp hỗ trợ sản xuất nơng nghiệp, bao
gồm cơng nghiệp sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn chăn nuôi.
Bảy là, cần nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư trực tiếp từ các nước
CPTPP vào lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu, như: dệt may, da giày, đồ gỗ, hàng
241


nơng sản…Để thu hút đầu tư t các Tập đồn đa quốc gia trong điều kiện thực thi CPTPP, về
ph a Nhà nước cần xây dựng chiến lược quốc gia về xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực khuyến
khích xuất khẩu. Chú trọng xúc tiến thu hút, chọn lọc các dự án đầu tư theo hướng ứng dụng
công nghệ cao, phát triển bền vững, đặc biệt là những dự án cho năng xuất, chất lượng cao, s
dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường…
Tám là, Các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm hiểu thơng tin về Hiệp định
CPTPP để n m vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm, đặc biệt là các
thông tin về các ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này đối với những mặt hàng Việt Nam đang
có thế mạnh hoặc có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời gian tới. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cần chuẩn bị cho mình một tâm thế cạnh tranh khu vực và quốc tế, có tư duy sáng tạo,
đổi mới và sự nhạy bén trong kinh doanh, có kế hoạch xây dựng năng lực, đặc biệt về thương
hiệu hay uy t n, chất lượng nhằm tận dụng tốt các cơ hội mà Hiệp định CPTPP mang lại .
Như vậy, có thể thấy CPTPP đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và xuất
khẩu hàng hóa nói riêng khơng ch nhiều cơ hội mà cịn có cả những thách thức khơng nh .
Để có thể tận dụng những cơ hội lớn mà CPTPP đem lại đòi h i sự đầu tư cơng sức của các
nhà hoạch định chính sách và bản thân mỗi doanh nghiệp để tìm được hướng đi ph hợp nhất

cho doanh nghiệp của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Công Thương (2015), Hiệp định TPP – Cơ hội, Thách thức và Giải pháp
chiến lược.
2. Công văn số 696/BCT-ĐB ngày 5/2/2020 của Bộ Công thương về Kết quả triển
khai Hiệp định CPTPP của các Bộ, ngành, địa phương trong năm 2019
3. Nội dung Hiệp định CPTPP, from < />4. Hoàng Văn Châu và các tác giả (2014), “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
– TPP và vấn đề tham gia của Việt Nam”, Nhà xuất bản Bách khoa Hà Nội, 2014.
5. Lê Quốc Phương (2013), “TPP và những tác động đối với xuất khẩu và thu hút đầu
tư của Việt Nam”, Tạp chí Tài chính Số 12, 2013.
6. Peter A. Petri & cộng sự (2012), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và Hội
nhập Châu Á – Thái Bình Dương: Đánh giá định lượng
7. Bloomberg (2015), The biggest winner from TPP trade deal may be Viet Nam, retrieved on October 20th2015, from < />8. Eurasia Group (2015), The Trans-Pacific Parnership: Sizing up the Stakes – A Political Updade, New York: Eurasia Group.
9. Voice of America (2015), World Bank sees Vietnam as „Winner‟ from TPP, retrieved on October 20th2015, , from < />242



×