Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA): Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.42 KB, 11 trang )

HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM - EU (EVFTA):
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Ths. Ngơ Hải Thanh
Trƣờng Đại học Thƣơng mại
Tóm lược: Dệt may là một trong những ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của
Việt Nam nhưng hoạt động xuất khẩu chỉ tập trung ở các sản phẩm gia công và ph thuộc
nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào nên giá trị gia tăng thấp. Bên cạnh đó, năng ực
cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu dựa vào chi phí ao động thấp. Việc Việt
Nam ký kết Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu sẽ mở ra nhiều cơ hội cho
chúng ta tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng bên cạnh đó phải đối diện khơng ít khó
khăn. Bài viết dưới đây sẽ tập trung làm rõ những cam kết iên quan đến sản phẩm dệt may
trong EVFTA, cũng như phân tích thực trạng ngành dệt may Việt Nam, dự báo những cơ hội
và thách thức khi tham gia EVFTA.
Từ khóa: Chuỗi giá trị, EVFTA, ngành dệt may
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam liên tục có những bước phát triển
tích cực, đạt mức tăng trưởng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2018, ngành dệt
may nước ta đã đánh dấu mốc quan trọng khi kim ngạch xuất khẩu đạt trên 36 tỉ đôla, tăng
trưởng hơn 16% so với năm 2017. Chúng ta nằm trong tốp 3 nước xuất khẩu sản xuất phẩm
dệt may cao nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là
ngành dệt may Việt Nam đang ở vị trí nào trong chuỗi giá trị dệt may tồn cầu?
Bên cạnh đó, việc tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới là
một xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt là Việt
Nam vừa ký kết thành công Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU) trong
năm 2019 vừa qua. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU có hiệu lực sẽ tạo ra nhiều cơ
hội phát triển phát triển kinh tế và thương mại cho Việt Nam nói chung cũng như ngành dệt
may nói riêng. Song song với đó là khơng ít khó khăn, thách thức cần vượt qua. Vậy, việc
tham gia vào EVFTA mang lại những cơ hội và thách thức như thế nào đối với ngành dệt may
Việt Nam?
2. Cơ sở lý luận về FTA
2.1. Khái niệm về FTA và FTA thế hệ mới


Hiện có nhiều cách hiểu về các Hiệp định thương mại tự do. Theo cách hiểu chung
nhất thì một Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement – FTA) là một thỏa thuận
giữa hai hoặc nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản đối với phần lớn thương mại giữa các
thành viên với nhau. FTA có thể mang nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ Hiệp định Đối tác Kinh
tế (Economic Partnership Agreement), Hiệp định thương mại Khu vực (Regional Trade
Agreement)… nhưng bản chất đều là các thỏa thuận hướng tới tự do hóa thương mại giữa các

415


thành viên. Thành viên của các FTA có thể là các quốc gia (ví dụ Việt Nam, Trung Quốc, Hoa
K …) hoặc các khu vực thuế quan độc lập (ví dụ Liên minh châu Âu, Hồng Kơng Trung
Quốc…). Vì vậy, thơng thường khi nói tới thành viên FTA, người ta hay dùng từ chung là
―nền kinh tế‖.
Cho tới nay, đã có rất nhiều các tổ chức và quốc gia khác nhau đưa ra các khái niệm
về FTA cho riêng mình. Điều này thể hiện những quan điểm khác nhau về FTA cũng như sự
phát triển đa dạng của các quốc gia. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất, FTA là một thỏa
thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại
về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo
thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.
Thuật ngữ ―Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới‖ được sử dụng để chỉ các
FTA có những cam kết sâu rộng và tồn diện, bao hàm cam kết về tự do thương mại hàng hóa
và dịch vụ như các ―FTA truyền thống‖; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về
0% theo lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ, bao hàm cả những lĩnh vực được coi là ―phi
truyền thống‖ như: lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh
bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư… (Nguyễn Thanh Tâm, 2016).
Việt Nam hiện nay đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định
Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự
do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA.
2.2. Những nội dung chính và các loại hình của Hiệp định thương mại tự do

Nghiên cứu của Trần Thị Trang và Đỗ Thị Mai Thanh (2019) cho thấy một FTA thông
thường bao gồm những nội dung chính sau: (i) Quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan; (ii) Quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan, thông lệ
áp dụng chung là 90% thương mại; (iii) Quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời
gian cắt giảm thuế thường được k o dài không quá 10 năm; (iiii) Quy định về quy tắc xuất xứ.
Các nội dung khác đề cập tới vấn đề tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các
biện pháp hạn chế định lượng, các rào cản kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm
chính phủ, lao động, bảo hiểm và mơi trường…
Hiện nay, có một số loại FTA mà Việt Nam tham gia như sau: (i) FTA khu vực: là
FTA được k giữa các nước trong cùng một tổ chức khu vực, ví dụ như AFTA là hiệp
định thương mại tự do giữa các nước trong khối Asean; (ii) FTA song phương: là FTA
được k giữa 2 nước, ví dụ như VCFTA là hiệp định thương tự do giữa Việt Nam và Chi
Lê; (iii) FTA đa phương: là FTA được k giữa nhiều đối tác khác nhau, ví dụ như CPTPP
là hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương gồm 11 nước thành viên;
(iiii) FTA được k giữa một tổ chức với một nước, ví dụ các FTA được k giữa một bên là
tổ chức ASEAN với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc… hay FTA giữa Việt Nam và Liên
minh châu Âu.

416


2.3. Vai trò của FTA thế hệ mới
Theo nghiên cứu của Phịng thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam, các FTA thế hệ
mới có vai trị quan trọng trong thúc đẩy tự do thương mại cả về mặt lượng và chất, thể hiện
trên một số khía cạnh sau:
Một à, các FTA thế hệ mới đang là giải pháp có tính khả thi để thúc đẩy tiến trình tự
do hóa thương mại và đầu tư, cạnh tranh, nâng cao tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
mơi trường và tiêu chuẩn lao động, vốn chưa được quy định trong các hiệp định hiện tại của
Tổ chức Thương mại thế giới. Khi một FTA được k kết, sẽ có những tác động đến lợi ích các
quốc gia, làm thay đổi chính sách của các quốc gia là thành viên cũng như những quốc gia

không là thành viên của một FTA nào đó.
Hai là, bên cạnh vai trị thúc đẩy mạnh mẽ hội nhập và liên kết kinh tế, các FTA thế
hệ mới có vai trị quan trọng trong việc nâng cao chuẩn mực tự do hóa thương mại. Vai trị
chung của các FTA là thúc đẩy thương mại, trong bối cảnh tự do hóa thương mại tồn cầu qua
kênh đa phương đang gặp khó khăn.
Ngày nay, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng
trên cơ sở coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm trong thương mại quốc
tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản.
Đây là cách tiếp cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành xu thế trong những năm gần
đây trên thế giới. Việc đưa nội dung về lao động vào các FTA cịn nhằm bảo đảm mơi trường
cạnh tranh cơng bằng giữa các quan hệ thương mại.
Ba là, tham gia các FTA thế hệ mới mở ra không gian phát triển mới với các quốc gia
thành viên. Với các FTA thế hệ mới, không gian phát triển của các quốc gia có sự thay đổi về
chất, các cơ hội phát triển được mở ra cả về chiều rộng và chiều sâu. Do vậy, các quốc gia
thành viên có nhiều lựa chọn trong khơng gian phát triển mới. Đây chính là cơ hội cho khởi
nghiệp, cho phát triển sáng tạo ở các lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh mới. Điều này đặc biệt
có nghĩa với các thành viên đi sau trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tầm nhìn và không gian sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như chiến lược phát
triển của các quốc gia trong điều kiện thực thi các FTA, nhất là FTA thế hệ mới khơng chỉ bó
hẹp trong phạm vi từng quốc gia. Chính khơng gian phát triển mới cũng đặt ra u cầu mới
trong tư duy, định hình chiến lược phát triển quốc gia mới phù hợp, hiệu quả trong bối cảnh
thực thi các FTA thế hệ mới.
Bốn à, việc triển khai k kết, thực hiện các FTA thế hệ mới một cách hiệu quả sẽ góp
phần củng cố và bảo đảm an ninh kinh tế, nâng cao vị thế đối với các quốc gia thành viên.
Tăng cường liên kết giữa các nước thành viên với nhau là giải pháp hữu hiệu nhằm phòng,
chống những cuộc khủng hoảng chu k hoặc khủng hoảng cơ cấu, bảo đảm an ninh kinh tế,
bền vững trong tăng trưởng.
Tham gia các FTA thế hệ mới, thông qua liên kết khu vực, vị thế các nước nhỏ cũng
được cải thiện thông qua vị thế chung của khối. Mặt khác, việc hình thành các FTA có chuẩn
mực cao, được dẫn dắt bởi những nền kinh tế lớn, cũng là cơ hội để các nước thành viên

417


khẳng định vai trò trong xây dựng và thiết lập trật tự khu vực, ảnh hưởng đến chiều hướng
phát triển, cạnh tranh vị thế nước lớn trên trường quốc tế.
Với vai trò như trên, việc k kết, triển khai các FTA thế hệ mới mang lại nhiều cơ hội
song cũng đặt ra khơng ít thách thức với các quốc gia thành viên. Đó là những cơ hội và thách
thức xung quanh việc mở rộng thị trường thương mại, đầu tư, lao động... đi liền với cạnh
tranh gia tăng; đó là cơ hội và thách thức trong việc nâng cao chất lượng và hoàn thiện hệ
thống quản trị quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh thể chế, môi trường kinh doanh... Các
cơ hội và thách thức đan xen và chuyển hóa nhau, chúng phụ thuộc vào trình độ phát triển, sự
năng động và chủ động hội nhập trong tham gia các FTA của các quốc gia thành viên.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Tổng quan các cam kết EVFTA liên quan đến hàng dệt may
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) được ký vào ngày 30/6/2019.
Đây là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU,
đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới .
EVFTA là một FTA thế hệ mới, với phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao.
Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ. Các lĩnh vực cam kết
chính trong EVFTA bao gồm: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở
cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh
an tồn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ
(gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh
tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và Phát
triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp l -thể chế.
3.1.1. Cam kết EVFTA về thuế quan đối với hàng dệt may
Trong EVFTA, EU cam kết dành ưu đãi thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, loại bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực cho các loại nguyên
phụ liệu dệt may (thuộc Chương 50 Biểu thuế); và chỉ một số ít loại trong các nhóm sản phẩm

may mặc thuộc Chương 61-62 Biểu thuế (như bộ đồ vest hoàn chỉnh, đồ ngủ nữ, áo len tr
em, đồ bơi, chăn, rèm cửa, túi xách hoặc túi đựng bằng vải…).
Thứ hai, loại bỏ thuế nhập khẩu dần từ mức thuế MFN trung bình là 12% hiện nay
xuống 0% trong thời hạn từ 3 đến 7 năm kể từ ngày EVFTA có hiệu lực đối với phần lớn các
sản phẩm may mặc và sản phẩm tương tự thuộc các Chương 61, 62 Biểu thuế.
Như vậy, theo cam kết trong EVFTA, EU sẽ bỏ thuế nhập khẩu cho nhóm hàng dệt
may Việt Nam, nhưng không bỏ ngay mà tiến hành 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực.
Về phía Việt Nam, mức cam kết thuế quan dành cho sản phẩm dệt may nhập khẩu
từ cũng gần tương tự: 37% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp
định có hiệu lực (cũng phần lớn là các nguyên phụ liệu dệt may và một số ít các sản phẩm
may mặc mà Việt Nam ít sản xuất). Số cịn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình
từ 3 đến 7 năm.
418


3.1.2. Cam kết EVFTA về quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may
Chương 4 EVFTA quy định về các điều kiện quy tắc xuất xứ mà hàng hóa phải tuân
thủ để được hưởng ưu đãi thuế quan.
Đối với sản phẩm dệt may, ngoài các quy tắc xuất xứ chung (tương tự như với tất cả
các hàng hóa khác) thì cịn có quy tắc riêng cho nhóm sản phẩm này (áp dụng cho trường hợp
sản phẩm sử dụng một phần nguyên liệu không xuất xứ).
Quy tắc xuất xứ phổ biến đối với sản phẩm dệt may trong EVFTA là tiêu chí hai cơng
đoạn, hay cịn gọi là ―từ vải trở đi‖. Cụ thể, để sản phẩm may mặc được coi là có xuất xứ theo
EVFTA thì vải sử dụng để tạo thành sản phẩm phải có xuất xứ Việt Nam hoặc EU và việc cắt,
may phải được thực hiện tại Việt Nam hoặc EU.
Tuy nhiên, EVFTA có cam kết linh hoạt về quy tắc xuất xứ cộng gộp: Cho phép vải có
xuất xứ Hàn Quốc được coi như có xuất xứ theo EVFTA (Hàn Quốc là nước duy nhất hiện có
cả FTA với Việt Nam và EU). Trong tương lai, nếu có một nước nào đó cùng có FTA với VN
và EU thì Việt Nam sẽ thơng báo cho Ủy ban Hải quan của EVFTA và Ủy ban này sẽ quyết
định việc có cho phép cộng gộp khơng.

3.1.3. Cam kết về hàng rào kỹ thuật (TBT) đối với hàng dệt may trong EVFTA
EVFTA chủ yếu bao gồm các cam kết chung hợp tác, minh bạch hóa trong lĩnh vực
hàng rào kỹ thuật (TBT); khơng có cam kết nào cụ thể liên quan tới các biện pháp TBT có thể
ảnh hưởng tới dệt may ngoại trừ: Các cam kết về ghi nhãn hàng hóa; Hợp tác trong việc cơng
nhận các quy trình đánh giá sự phù hợp của mỗi Bên; Hậu kiểm; Đối với Việt Nam: cam kết
chấp nhận xuất xứ hàng hóa ghi chung ―Made in EU‖ hoặc ghi rõ xuất xứ từng nước trong EU
đối với hàng hóa cơng nghiệp (trong đó có dệt may).
Các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng dệt may của EU gồm có: Nhóm yêu cầu về hóa chất
trong thành phần sản phẩm (các loại vải, sợi, quần áo và các phụ kiện dệt may đều có chứa
nhiều loại hóa chất khác nhau như thuốc nhuộm, thuốc tẩy…); Nhóm u cầu về quy trình sản
xuất (xử lí nguyên liệu và các chất thải độc hại sinh ra từ quá trình trồng nguyên liệu, sản xuất
vải, chế biến vải hồn thiện, các q trình dệt, nhuộm, in ấn...); Nhóm yêu cầu về quy cách
đóng gói, bảo quản, ghi nhãn sản phẩm.
Như vậy, về cơ bản, EU và Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục chủ động trong việc áp dụng các
biện pháp TBT đối với hàng nhập khẩu như hiện tại. Doanh nghiệp xuất khẩu vẫn sẽ phải tuân
thủ đầy đủ các yêu cầu của bên nhập khẩu như trước đây.
3.2. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam
3.2.1. Tổng quan ngành dệt may thế giới
Hàng dệt may là ngành hàng tiêu dùng thiết yếu, quy mô toàn ngành liên tục tăng
trưởng. Hiện nay, tốc độ tăng trưởng toàn ngành hiện đạt 3,5%/năm cao hơn tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế (Theo Báo cáo ngành dệt may).
Trong mảng sợi, sợi Polyester đang vươn lên chiếm lĩnh thị phần tiêu thụ sợi toàn cầu.
Thị phần của sợi polyester trong tổng nhu cầu sợi toàn cầu đã tăng từ 25% (1980) lên 56%
(2016), thay thế vị trí số 1 là sợi cotton trước kia. Trung Quốc và Mỹ là các quốc gia sản xuất
419


được sợi tổng hợp có quy mơ lớn trực tiếp từ PTA, MEG (các sản phẩm từ dầu mỏ và khí
đốt). Các quốc gia nhập khẩu sợi tổng hợp lớn nhằm phục vụ cho đầu vào sản xuất vải.
Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong là các quốc gia xuất khẩu vải lớn nhất

thế giới (chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu). Đây là các quốc gia có cơng nghệ
dệt nhuộm phát triển lâu đời và là nơi tiêu thụ sản phẩm vải lớn.
Trong mảng may, xu hướng dịch chuyển sản xuất về các quốc gia có chi phí lao động
giá r . Mảng may tại các công ty may mặc được đánh giá là thâm dụng lao động, do đó, được
thực hiện tại các quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam và Thổ
Nhĩ K … Tốc độ tăng trưởng trong vòng 15 năm của khu vực các quốc gia đang phát triển là
8,3%/năm, trong khi tốc độ này chỉ là 2,8% cho khu vực còn lại.
EU, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản hiện tại là thị trường tiêu thụ lớn nhất với dân số
khoảng 1/3 dân số thế giới nhưng chiếm hơn 75% tổng giá trị dệt may toàn cầu. Các thị
trường lớn tiếp theo là Brazil, Ấn Độ, Nga, Canada, Úc chiếm 19% tổng giá trị dệt may. Các
quốc gia khác chiếm khoảng 44% dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 7% quy mơ thị trường dệt
may tồn cầu.
Cách thức phân phối truyền thống đang có nguy cơ bị đe dọa do ảnh hưởng từ
thương mại điện tử và xu hướng mua hàng online. Người tiêu dùng đang có xu hướng sử
dụng các thiết bị điện tử để mua sắm nhiều hơn, thay vì xếp hàng để mua hàng tại các cửa
hàng truyền thống.
3.2.2. Ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Ngành dệt may Việt Nam là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai cả nước, với
tốc độ tăng trưởng trung bình 13,06% giai đoạn 2009-2018. Riêng năm 2018, kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt gần 37 tỷ đôla. Số liệu thống kê cho thấy kim ngạch
xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây:
Bảng 1: Số liệu xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam
Đơn vị: Triệu Đô a
Nội dung

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Xuất khẩu

25,249


27,277

28,708

31,850

36,944

Nhập khẩu

14,534

15,455

16,070

18,020

20,990

Cân đối xuất - nhập khẩu

10,715

11,822

12,638

13,830


15,954

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Tổng c c hải quan
Hình 2 dưới đây cho biết những thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may Việt
Nam trong năm 2018. Trong đó, đứng đầu là thị trường Mỹ với 45% tổng thị trường xuất
khẩu của hàng dệt may Việt Nam; đứng thứ hai là thị trường EU và Nhật Bản với cùng 15%.
Tiếp đó là thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc, Asean và các thị trường khác chiếm 9%.

420


Nguồn: Báo cáo cập nhật ngành dệt may quý III/2019
Hình 1: Thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may Việt Nam năm 2018
Hiện nay, cả nước khoảng hơn 5 nghìn doanh nghiệp dệt may, trong đó doanh nghiệp
may chiếm đa số (70% tổng số doanh nghiệp trong ngành) với hơn 80% số doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mơ nhỏ và vừa (200-500
lao động) với chi phí nhân công thấp. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tham gia vào mắt
xích thứ 3 là May, rất ít thực hiện các khâu thiết kế, marketing và phân phối sản phẩm.
Theo số liệu thống kê năm 2018, ngành dệt may Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu chủ yếu theo phương thức CMT (Cut-Make-Trim). Đây là phương thức sản xuất đơn
giản nhất, giá trị gia tăng thấp nhất. Theo phương thức sản xuất này, bên đặt hàng/người mua
hàng sẽ cung cấp cho doanh nghiệp nguyên vật liệu, mẫu thiết kế và các yêu cầu cụ thể, doanh
nghiệp chỉ cắt, may và hoàn thiện sản phẩm; sản phẩm sản xuất xong sẽ được người mua hàng
đến thu gom và phân phối. Do đó, mặc dù kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng giá trị gia tăng của
ngành ở mức rất thấp, chỉ đạt 5% - 10%.
Vấn đề lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam hiện nay là đang mất cân bằng cung cầu
trong chuỗi giá trị. Khâu sản xuất nguyên phụ liệu k m, không đáp ứng được yêu cầu nguyên
liệu, phải phụ thuộc nhiều vào nước ngoài.
Ngành trồng bông và kéo sợi là khâu ở đoạn đầu của chuỗi dệt may và giữ vai trò

trọng yếu trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các phân đoạn cịn lại. Tuy nhiên, mỗi
năm, sản xuất bơng của Việt Nam chỉ đáp ứng 1% nhu cầu. Do đó, nhiều năm qua, các doanh
nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các loại bông, xơ để phục vụ nhu cầu nguyên liệu
cho ngành sợi (thể hiện ở bảng dưới đây).

421


Bảng 2: Số liệu nhập khẩu bông và xơ, sợi dệt các loại
Bơng các loại
Năm

Khối lượng
(Nghìn tấn)

Xơ, sợi dệt các loại

Giá trị
(Triệu Đơla)

Khối lượng
(Nghìn tấn)

Giá trị
(Triệu Đơla)

2014

754


1,443

740

1,558

2015

1,014

1,623

792

1,519

2016

1,034

1,662

861

1,609

2017

1,295


2,362

878

1,822

1,034

2,419

2018

1,567

3,011

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Tổng c c Hải quan
Số liệu thống kê cho thấy, khối lượng và giá trị nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào
cho ngành dệt may nước ta từ năm 2014 cho đến nay gia tăng liên tục ở tất cả các sản phẩm
bông, xơ, sợi. Trong đó, bơng được nhập chủ yếu từ Mỹ, Tây Phi, Ấn Độ; cịn xơ thì phần lớn
nhập từ Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia.
Vai trò của ngành dệt đối với riêng ngành may và tổng thể ngành dệt may là rất lớn vì
vải là yếu tố quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng cuối cùng của một sản phẩm
may mặc. Tuy nhiên, ngành dệt Việt Nam hiện nay chưa làm tốt vai trò của mình, các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam đều khơng hài lịng về chất lượng vải nội. Bên
cạnh đó, sản lượng ngành dệt cũng khơng đáp ứng đủ nhu cầu của ngành may (chỉ khoảng 3035%). Vì vậy, ngành may phải nhập khẩu tới 65-70% lượng vải mỗi năm, số liệu cụ thể được
thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 3: Số liệu nhập khẩu vải và phụ liệu
Đơn vị: Triệu Đô a
201

2016
Năm
2015
2017
2018
4 9,42
10,1
10,48
11,38
12,7
Vải các loại
3 2,20
542,35
3
1
742,78
Nguyên phụ liệu dệt,
2,378
2,552
may
4 Nguồn: Tác1 giả tổng hợp từ số liệu của Tổng c c hải 6quan
Ngoài ra, các nguyên phụ liệu dệt, may hiện nay chúng ta cũng nhập khẩu từ nước
ngoài rất nhiều. Giá trị nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu từ năm 2014 đến năm 2018 đều ở
mức trên 2 tỷ đôla. Điều này cho thấy sự phụ thuộc nguyên phụ liệu của chúng ta vào các nhà
cung cấp ở nước ngồi là rất lớn. Chính sự yếu kém này của ngành dệt đã kìm hãm ngành
may theo nghĩa khiến giá trị gia tăng và sự chủ động của ngành may thấp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc của Việt Nam hiện nay vẫn đều sản xuất theo
phương thức gia công đơn giản (khoảng 70%), thiếu khả năng cung cấp trọn gói. Phương
thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm theo khách hàng chỉ định hoặc tự khai thác chỉ ở
khoảng 20%; phương thức sản phẩm bao gồm cả thiết kế là 9% và phương thức sản xuất và

tiếp thị bán hàng trực tiếp tại các trung tâm thương mại nước ngoài chỉ vỏn vẹn 1%. Đặc
biệt, chúng ta phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài rất nhiều (70-90%), vì vậy
422


rủi ro cao về thời gian và chất lượng nguyên phụ liệu trong quá trình vận chuyển hay rủi ro
về thời gian tìm nguyên phụ liệu thay thế trong trường hợp sản phẩm bị lỗi dẫn tới ảnh
hưởng hợp đồng giao hàng.
Bên cạnh đó, hoạt động phân phối của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay vẫn
chưa phát triển và đang phụ thuộc vào các nhà mua nước ngoài. Mạng lưới các nhà mua này bao
gồm các doanh nghiệp bán l , các nhà sản xuất và các nhà buôn. Những doanh nghiệp bán l đa
số thuộc thị trường EU, Nhật và Mỹ; họ sở hữu những thương hiệu hàng đầu quốc tế, những siêu
thị, cửa hàng bán sỉ và l . Những nhà sản xuất nhập sản phẩm (buyer) từ Việt Nam bao gồm các
nhà may mặc từ quốc tế và khu vực. Các nhà buôn trong khu vực thường từ Hồng Kông, Đài
Loan, Hàn Quốc; họ đóng vai trị quan trọng, là trung gian trong chuỗi cung ứng hàng dệt may
Việt Nam ra thế giới. Các doanh nghiệp bán l lớn tin cậy vào các nhà buôn (chủ yếu từ Hồng
Kông) để phát triển mạng lưới cung ứng của họ ở Việt Nam nhằm giảm chi phí giao dịch. Các
doanh nghiệp đầu tư may mặc nước ngoài hiếm khi liên hệ trực tiếp với khách hàng quốc tế ở
Việt Nam vì nhà cung ứng của họ có văn phịng đại diện ở Hồng Kơng, Đài Loan hay Hàn Quốc.
Vì vậy, các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ phụ thuộc rất
lớn vào các nhà buôn nhỏ trong khu vực (Nadvi và Thoburn, 2004).
3.3. Tác động của EVFTA tới ngành dệt may Việt Nam
3.3.1. Cơ hội
EU là thị trường cực k lớn và vô cùng hấp dẫn cho ngành dệt may. Năm 2018, dệt
may Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu 5,6 tỷ đơla. Đó là con số rất lớn song cũng chỉ chiếm
2,02% tổng lượng nhập khẩu hàng dệt may của châu Âu. Điều đó cho thấy dư địa của thị
trường châu Âu là rất lớn. Bên cạn đó, đây là thị trường có giá trị gia tăng cao, sản phẩm có
chất lượng, đa dạng hóa được mẫu mã, chủng loại và là thị trường truyền thống với mức tăng
trưởng duy trì đều đặn hàng năm.
EVFTA là cơ hội cho ngành dệt may nước ta. Bởi vì, thuế quan đối với tất cả các mặt

hàng dệt may đều giảm về 0%, trong đó 77% về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Trong
khi đó, EU là thị trường đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may và EU cũng là thị
trường xuất khẩu lớn thứ hai của hàng dệt may Việt Nam.
Theo Trần Thị Thanh Thủy (2018), x t về nền kinh tế thành viên của EU, Đức, Pháp
là những thị trường dệt may truyền thống với Việt Nam. Năm 2018, Đức là thị trường lớn
nhất, khoảng hơn 1,5 tỷ đôla; Pháp gần 1,2 tỷ đôla. X t về thị phần, sản phẩm dệt may xuất
khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm khoảng hơn 2% tổng nhập khẩu của những nước này.
Một số thị trường nhỏ hơn của EU, mặc dù nhu cầu tiêu thụ dệt may của họ thấp hơn
hẳn thị trường truyền thống Pháp, Đức, nhưng x t về dư địa, tiềm năng cũng rất lớn. Nhập
khẩu dệt may của nước ta vào thị trường Malta, Bulgaria chưa đến 0,1% tổng nhập khẩu của
hai nước này. Điều này cho thấy cơ hội rất lớn mà EVFTA mang lại, giúp chúng ta tiếp cận và
nâng cao thị phần trên các thị trường này.
3.3.2. Thách thức
Ở một vài năm đầu khi EVFTA có hiệu lực, ngành dệt may có thể gặp một số bất lợi
nhất định do trong thời gian chờ thuế được giảm về 0% theo lộ trình của EVFTA, một số mặt

423


hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ không còn được hưởng mức thuế 9% của Hệ thống
ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Đây là mức ưu đãi mà EU đơn phương dành cho các sản
phẩm chưa có năng lực cạnh tranh tốt từ một số nước thuộc nhóm đang/k m phát triển theo
các tiêu chí mà EU quyết định. Thay vào đó, ngành này sẽ phải chịu mức thuế cao hơn từ thuế
nhập khẩu ưu đãi (MFN) mà EU đang áp dụng - hiện đang ở mức khoảng 12%.
Khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối mặt đó là phải thực
hiện nghiêm yêu cầu về quy tắc xuất xứ. Theo đó, hàng dệt may khi xuất khẩu vào EU phải sử
dụng vải sản xuất tại Việt Nam, việc cắt may phải được thực hiện bởi doanh nghiệp Việt Nam
hoặc doanh nghiệp Châu Âu. EU chỉ cho ph p sử dụng thêm vải sản xuất tại Hàn Quốc vì
nước này đã có FTA song phương với EU. Điều kiện này gây khó khăn cho doanh nghiệp dệt
may trong việc nhận ưu đãi từ Hiệp định mang lại do chúng ta chưa chủ động sản xuất sợi và

vải. Nguồn nguyên liệu này chủ yếu nhập từ thị trường Trung Quốc và Đài Loan, đây là
những quốc gia và vùng lãnh thổ chưa có Hiệp định thương mại tự do với EU.
4. Gợi ý chính sách
EU là thị trường có tính chiến lược, trọng điểm lâu dài bởi các sản phẩm dệt may nhập
khẩu vào EU là những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn một số nước và khu vực khác trên
thế giới. Bên cạnh đó, EU là một trong những nước mà Việt Nam đã có mối quan hệ thương
mại từ lâu. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU được k kết mang lại nhiều cơ hội
nhưng cũng khơng ít khó khăn và thách thức cho chúng ta. Để dệt may Việt Nam có thể đứng
vững và phát triển trong chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là tại thị trường EU, tác giả đưa ra một
số gợi chính sách:
Một là, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải chủ động nguồn nguyên liệu đầu
vào, giảm phụ thuộc nguồn nguyên liệu từ những thị trường không tham gia FTA với EU.
Chính phủ, địa phương cần phải hoạch định chiến lược phát triển các khu công nghiệp, tập
trung vào giải quyết vấn đề nguồn cung đang thiếu hụt, hình thành nên chuỗi cung ứng tồn
cầu… để từ đó đáp ứng yêu cầu của hiệp định. Cụ thể, cần thu hút đầu tư vào khâu dệt và
nhuộm, đây là hai nút thắt trong nguồn cung nguyên liệu cho ngành dệt may. EVFTA là cơ
hội để thu hút đầu tư vào lĩnh vực dệt may, đặc biệt là khâu dệt, nhuộm.
Hai là, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chủ động thâm nhập thị trường EU
bằng cách: (i) Thiết lập mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với các trung tâm phân phối, các siêu
thị lớn trong thị trường EU thông qua các thương vụ Việt Nam tại EU, phái đoàn Liên minh
châu Âu tại Việt Nam, các đại sứ quán của các nước EU tại Việt Nam để xuất khẩu trực tiếp,
giảm thiểu tình trạng xuất khẩu qua trung gian; (ii) Tổ chức liên doanh dưới các hình thức
như sử dụng giấy ph p, nhãn hiệu hàng hoá của các nhãn hiệu nổi tiếng. Các doanh nghiệp có
tiềm lực kinh tế có thể liên doanh liên kết, để trở thành công ty con của các công ty xuyên
quốc gia có thương hiệu nổi tiếng của EU; (iii) Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu sản phẩm dệt
may Việt Nam trên thị trường EU thơng qua việc tích cực chủ động tham gia các gian hàng,
hội chợ, triển lãm tại nước ngoài, xây dựng các gian trưng bày trên thị trường nước ngoài…
Ba là, nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu bằng việc đổi mới quy
trình, đạt được những chứng chỉ về quản lý chất lượng ISO 9000, chứng chỉ về môi trường


424


ISO 14000… Ngồi những tiêu chuẩn mang tính chất quốc tế, DN dệt may Việt Nam cũng
cần đáp ứng được cả với những tiêu chuẩn riêng có của EU. Các doanh nghiệp có điều kiện về
tài chính có thể nghiên cứu và thực hiện thêm các tiêu chuẩn về nhãn hiệu sinh thái đối với
sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường EU.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần chú trọng khâu tổ chức sản xuất, tìm mọi cách tiết giảm
chi phí sản xuất, nghiên cứu áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, phần mềm quản l để
nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh. Tận dụng cơ hội thu hút đơn hàng, duy
trì và khai thác hiệu quả các khách hàng truyền thống và phát triển thêm được khách hàng
mới, góp phần ổn định sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động. Chú trọng đến việc
xây dựng liên kết chiến lược với các khách hàng là những nhà bán l , nhập khẩu lớn trên thế
giới, tham gia vào các chuỗi liên kết của họ nhằm ổn định đơn hàng, khách hàng, tiếp cận
kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của họ…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo
cáo
ngành
dệt
may
12/2017, truy cập tại
địa
chỉ:
Textiles%20and%20Clothing%20
Industry%20Report-Dec.2017.pdf ngày 13/01/2020
2. Báo cáo cập nhật ngành dệt may quý III/2019, truy cập tại địa chỉ:
/>_ASEANSC.pdf ngày 13/01/2020
3. Cập nhật kết quả kinh doanh 2018 ngành dệt may, truy cập tại địa chỉ:
/>0Apparel%20Industry%20Report-20190320-V.pdf ngày 13/01/2020

4. Nguyễn Thanh Tâm (2016), ―Tổng quan về các FTA thế hệ mới‖, truy cập tại địa chỉ:
ngày 15/01/2020
5. Trần Thị Thanh Thủy (2018), ―Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU: cơ hội
và những thách thức đặt ra‖, truy cập tại địa chỉ: ngày 13/01/2020
6. Trần Thị Trang, Đỗ Thị Mai Thanh (2019), ―Những tác động nổi bật của FTA thế
hệ mới đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam‖, truy cập tại địa chỉ:
/>1%BA%A3o/qu%E1%BB%91c%20gia/Ky%20yeu%20KTVN%202018/5.ThS.%20Tr%E1%
BA%A7n%20Th%E1%BB%8B%20Trang.pdf ngày 13/01/2020
7. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam, ―Vai
trị của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong thương mại quốc tế, truy cập tại địa
chỉ: ngày 15/01/2020

425



×